Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số giải pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy ...

Tài liệu Một số giải pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử lớp 4 tại trường tiểu học tân lập

.PDF
23
16
108

Mô tả:

MỤC LỤC 1 1.1 1.2 1.3 1.4 2 2.1 2.2 2.3 2.3.1 2.3.2 2.3.3 2.3.4 2.3.5 2.3.6 2.3.7 2.3.8 2.4 3 3.1 3.2 Mở đầu Lí do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Nội dung Cơ sở lí luận của vấn đề Thực trạng vấn đề Các giải pháp Giải pháp 1: Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách nêu vấn đề và nội dung của từng bài học Giải pháp 2: :Tái tạo lịch sử bằng các hình ảnh, tranh minh họa Giải pháp 3: Tái tạo lịch sử bằng các đoạn phim tư liệu, phim hoạt hình Giải pháp 4 : Tái tạo lịch sử bằng việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong khai thác lược đồ Giải pháp 5 : Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách tổ chức trò chơi học tập: Trò chơi Rung chuông vàng Giải pháp 6: Trò chơi Đố vui lịch sử Giải pháp 7: tám: Trò chơi Ô chữ bí mật Giải pháp 8: : Trò chơi Đóng vai Hiệu quả của sáng kiến Kết luận và kiến nghị Kết luận Kiến nghị 1 1 2 2 2 2 2 3 6 6 7 8 8 12 13 14 15 19 19 19 20 0 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài: Dạy học là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong việc sử dụng kết hợp các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng. Dạy học cũng chính là hoạt động chủ đạo trong mỗi nhà trường. Chất lượng dạy học có đạt hiệu quả hay không trước hết phụ thuộc vào trình độ, năng lực của mỗi giáo viên. Giáo viên là người thực hiện phương pháp giảng dạy, là người tổ chức, điều khiển và đồng thời cũng là người trực tiếp hướng dẫn học sinh tìm ra kiến thức mới. Đặc biệt khi dạy môn lịch Sử, giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, vững chắc, có nghệ thuật sư phạm khéo léo để khai thác vốn kiến thức tiềm ẩn trong học sinh. Để góp phần từng bước đưa đất nước ta phát triển về mọi mặt, sánh vai được với các cường quốc trên Thế Giới thì mỗi người dân Việt Nam ngoài việc phải tiếp thu các kiến thức khoa học, công nghệ và văn hoá từ các quốc gia khác, cũng cần phải hiểu rõ về văn hoá, lịch sử và nguồn cội của đất nước. Để từ đó nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc, tình yêu với quê hương, đất nước để có một tầm nhìn và hướng đi đúng đắn góp phần cho sự phát triển của nước nhà, cũng như sự tự tin khi giao tiếp với bạn bè quốc tế. Sinh thời, Bác Hồ đã từng nói: “ Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.  1 Môn Lịch sử ở tiểu học nói chung, môn Lịch sử ở lớp 4 nói riêng đều nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới ngày nay. Dạy môn Lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau, biết đặt câu hỏi trong quá trình học tập, trình bày kết quả bằng lời nói, hình vẽ, sơ đồ, …vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh những thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết các kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam, tôn trọng các di tích văn hóa và tìm hiểu thêm về lịch sử thế giới. Tuy nhiên trong quá trình thực tế giảng dạy, tôi thấy xu hướng học sinh yêu thích và chú trọng nhiều đến các môn như Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh. Còn môn Lịch sử và các môn khoa học xã hội nói chung, hầu như chỉ học để đối phó. Học sinh không nhớ được các sự kiện, các mốc thời gian, thậm chí còn nhầm lẫn các nhân vật với sự kiện một cách trầm trọng. Điều đó thể hiện rõ nhất khi học sinh được tham gia các cuộc giao lưu hiểu biết trong các cuộc thi do các nhà trường tổ chức. Tôi cho rằng, chỉ có cách duy nhất là giáo viên phải luôn tạo 1 được sự hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ Lịch sử. Trăn trở trước thực trạng đó, tôi đã học hỏi và rút ra một số kinh nghiệm về phương pháp tạo hứng thú cho học sinh trong môn học Lịch sử, làm cho môn học không trở nên nặng nề, khô khan, nhàm chán, từ đó nâng cao dần chất lượng bộ môn. Đó cũng chính là những nội dung tôi sẽ trình bày trong sáng kiến: “Một số giải pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 tại trường Tiểu học Tân Lập”. Với sáng kiến này tôi mong muốn chất lượng dạy và học môn Lịch sử tại trường Tiểu học Tân Lập đạt kết quả cao hơn. 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Tạo hứng thú cho học sinh, giúp học sinh chủ động, tích cực, hợp tác trong học tập để đạt được mục tiêu của môn Lịch sử lớp 4 gồm: + Học sinh lĩnh hội được một số kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu, có hệ thống theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nửa đầu thế kỉ XIX. + Bước đầu rèn luyện và hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; nhận biết đúng các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. + Biết nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và biết trình bày kết quả học tập. Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh tính ham học hỏi, tìm tòi; yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp tạo hứng thú khi học môn Lịch sử cho học sinh lớp 4A - Trường Tiểu học Tân Lập – Bá Thước - Thanh Hóa 1.4. Phương pháp nghiên cứu: 1.4.1 Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Nghiên cứu tài liệu dạy học môn Lịch sử trong chương trình Sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo môn Lịch sử lớp 4. Nghiên cứu giáo trình tâm lý học để hiểu về tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học. 1.4.2 Phương pháp quan sát: Quan sát thái độ, mức độ, kết quả học tập của học sinh. 1.4.3 Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Hỏi và thăm dò ý kiến của các giáo viên, học sinh để biết được thực trạng của học sinh khi học phân môn Lịch sử. Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học phân môn Lịch sử khối lớp 4 Trường Tiểu học Tân Lập. 1.4.4 Phương pháp thống kê, xử lí số liệu. 1.4.5 Phương pháp thực nghiệm: Lựa chọn lớp học để áp dụng thử nghiệm. 1.4.6 Phương pháp phân tích: So sánh chất lượng học tập của học sinh khi chưa áp dụng SKKN với khi đã áp dụng SKKN. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: Chương trình tiểu học được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn I từ lớp 1 đến lớp 3, giai đoạn II từ lớp 4 đến lớp 5. Ở các lớp 1, 2, 3 các em chỉ học môn Tự nhiên – xã hội, lên lớp 4 các em mới được làm quen với các môn: 2 Khoa học, Lịch sử và Địa lí. Lịch sử là môn học rất quan trọng không chỉ cung cấp cho chúng ta biết tường tận quá trình phát triển của con người, đất nước và nhân loại từ khi hình thành cho tới nay với biết bao biến động lớn lao, mà còn giúp chúng ta đúc rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. [2] Nhưng đặc trưng của môn lịch sử là các sự kiện, các nhân vật đều diễn ra trong quá khứ nên nhận thức lịch sử có những nét đặc thù so với nhận thức chung của loài người. Nhận thức lịch sử là nhận thức những gì đã qua và không lặp lại cho nên giai đoạn nhận thức cảm tính không thể tri giác trực tiếp mà phải thông qua sự kiện lịch sử để tạo biểu tượng lịch sử từ đó hình thành khái niệm, rút ra quy luật và bài học lịch sử rồi vận dụng vào thực tiễn. Muốn tái hiện bức tranh quá khứ một cách sinh động thì vai trò người giáo viên hết sức quan trọng. Người giáo viên phải biết biến những nội dung trong sách giáo khoa thành một câu chuyện lịch sử, thành một vở kịch hay có thể là một trận chiến. Giáo viên cần phải lựa chọn các phương pháp phù hợp với nội dung từng bài học để giúp học sinh hiểu sâu sắc bài học, kích thích sự ham học, khơi dậy nội lực của mình. Nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 gồm 8 giai đoạn: 1. Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng 700 năm TCN đến năm 179). Gồm 2 bài. 2. Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập (Từ năm 179 TCN đến năm 938). Gồm 4 bài, trong đó có 1 bài ôn tập. 3. Buổi đầu độc lập. (Từ năm 938 đến năm 1009). Gồm 2 bài. 4. Nước Đại Việt thời Lý. (Từ năm 1009 đến năm 1226). Gồm 3 bài. 5. Nước Đại Việt thời Trần. (Từ năm 1226 đến năm 1400). Gồm 4 bài. 6. Nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỉ XV). Gồm 5 bài, trong đó có 1 bài ôn tập. 7. Nước Đại Việt thế kỉ XVI – XVII. Gồm 6 bài. 8. Buổi đầu thời Nguyễn. (Từ năm 1802 đến năm 1858). Gồm 3 bài, trong đó có 1 bài tổng kết. 2. 2.Thực trạng dạy và học môn Lịch sử lớp 4 tại trường Tiểu học Tân Lập”. 2.2.1. Về phía giáo viên: * Ưu điểm: - Hầu hết giáo viên trong nhà trường đã áp dụng phương pháp, hình thức dạy học vào tiết dạy. - Khi dạy Lịch sử nhiều giáo viên chỉ quan tâm đến việc hoàn thành các nội dung, câu hỏi bài tập theo yêu cầu sách giáo khoa, chưa chú ý đến tâm lí học sinh. - Một số giáo viên đã sử dụng trò chơi học tập trong tiết dạy Lịch sử. * Nhược điểm: - Một số giáo viên chưa chú trọng đến dạy học môn Lịch sử mà chỉ chú trọng đến các môn: Toán, Tiếng Việt, nên chưa dành thời gian cho việc nghiên cứu và giảng dạy trên lớp. - Chỉ dừng lại việc truyền tải đủ nội dung trong SGK, chưa chủ động sưu tầm về những sự kiện, nhân vật lịch sử có liên quan đến tiết dạy. 3 - Một số giáo viên còn lúng túng khi hướng dẫn cho các em thực hành trên bản đồ, lược đồ và tranh ảnh, hình ảnh. - Chưa sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các phương tiện và đồ dùng dạy học. - Chưa kể chuyện lịch sử hay tường thuật diễn biến một trận đánh…mà chỉ đọc và cung cấp kiến thức lịch sử nên dẫn đến học sinh chưa yêu thích và hứng thú với môn học. - Việc vận dụng các trò chơi vào tiết dạy Lịch sử còn ít. 2. 2 .2. Về phía học sinh: - Môn Lịch sử là môn học hoàn toàn mới mẻ đối với các em, các em phải nắm được các kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử. Chính vì thế việc tiếp thu kiến thức về môn học này là hết sức cần thiết. Qua giảng dạy tôi thấy nhiều em chưa nhận thức đúng vai trò của môn Lịch sử. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. - Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng khái quát hóa còn yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm mà các nhân vật, mốc lịch sử, sự kiện lịch sử lại nhiều nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc (dễ nhớ nhưng lại mau quên). Kĩ năng đọc, kể, tường thuật của các em chậm, do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác học chưa cao, nhiều em chưa tự tin, học thụ động. Năm học 2017-2018, tôi chủ nhiệm lớp 4A với 31 học sinh. Trong học kì 1, tôi tổ chức cho học sinh làm bài tập trắc nghiệm môn Lịch sử thăm dò sự hứng thú học tập môn Lịch sử của học sinh theo mẫu phiếu sau: PHIẾU ĐIỀU TRA Em hãy cho biết ý kiến của mình qua các câu hỏi sau: Câu 1: Trong các môn học ở tiểu học, em thích môn học nào nhất? Trả lời: ..................... Câu 2: Thái độ của em đối với môn Lịch sử: (Đánh dấu x vào ô trống hoặc ghi ý kiến khác của em)  Rất hứng thú  Bình thường  Không hứng thú Ý kiến khác:........................................................................................... Câu 3: Những hoạt động nào trong giờ học Lịch sử hấp dẫn em : (Học sinh đánh số thứ tự theo hoạt động mình yêu thích)  Trả lời câu hỏi SGK  Thảo luận nhóm với bạn  Xem phim tư liệu  Nghe giáo viên giới thiệu lược đồ  Thầy cô giới thiệu tranh, ảnh  Tham gia các trò chơi học tập  Thầy cô giảng bài theo nội dung SGK Câu 4: Cảm xúc của em khi học môn Lịch sử: 4 (Đánh dấu x vào ô trống hoặc ghi ý kiến khác của em)  Giờ học lôi cuốn, hấp dẫn em  Em được học tập tích cực, hiểu bài sâu sắc  Giờ học tẻ nhạt Sau khi kết thúc học kì 1 kết quả thu được như sau: Bảng 1: Bảng thống kê kết quả điều tra học sinh yêu thích môn học Lịch sử qua phiếu thăm dò: Năm học 2017- 2018 Tổng số học sinh 31 Mức độ hứng thú trong học tập Rất hứng thú Bình thường Không hứng thú SL TL SL TL SL TL 3 9,6 10 32,2 18 58,2 Bảng 2: Bảng thống kê kết quả học tập và rèn luyện cuối học kì 1 năm học 2017-2018. Chất lượng môn học Tổng số Năm học học Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa HT sinh SL TL SL TL SL TL 31 2017- 2018 4 12,9 27 87,1 0 0 Qua đánh giá thường xuyên, kết quả thăm dò, kết quả kiểm tra cuối học kì 1 năm học 2017-2018, tôi nhận thấy chất lượng giáo dục chưa cao. Một số em tuy kết quả hoàn thành tốt nhưng thực sự các em chưa hứng thú với môn học. Các em thấy môn học khó vì nhiều sự kiện, nhiều nhân vật và các mốc thời gian. Trước thực trạng đó, là một giáo viên có tâm huyết, tôi băn khoăn trăn trở làm thế nào để môn Lịch sử thực sự thu hút, tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục môn học. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường, địa phương; căn cứ vào nhiệm vụ và chủ đề của năm học 2017- 2018 và đặc biệt là thực trạng về công tác sinh hoạt tổ chuyên môn của Trường tiểu học Tân Lập, tôi đã thực hiện một số giải pháp cho học sinh lớp 4A trong năm học 2017 - 2018, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong học tập. Tôi đã nghiên cứu các tài liệu, học hỏi đồng nghiệp, tham khảo trên mạng In-tơ-nét và tìm ra một số giải pháp khi dạy học phân môn Lịch sử cho học sinh lớp 4 - Trường Tiểu học Tân Lập như sau: 2.3.1. Giải pháp 1: Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách nêu vấn đề và nội dung của từng bài học: Ngay từ tiết học đầu tiên, tôi nêu vấn đề bằng những câu hỏi, bằng tình huống hay bằng những câu chuyện, câu thơ để thu hút, lôi cuốn học sinh vào 5 bài. Bởi bài nào giáo viên cũng chỉ giới thiệu: “ Hôm nay chúng ta học bài: ….” thì rất khô khan, nhàm chán. Vậy làm thế nào để học sinh hứng thú với môn học, tôi xin minh họa một số cách giới thiệu bài như sau: Ví dụ : Khi dạy bài 4 “Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40)”. Phần giới thiệu bài, giáo viên đọc cho học sinh nghe 1 số câu thơ: “Giận thay Tô Định bạo tàn. Nay ta dấy nghĩa diệt loài sói lang! Một xin rửa sạch nước thù. Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng. Ba kẻo oan ức lòng chồng. Bốn xin vẹn vẹn sở công lệnh này.  2 Các em ạ! Sau khi học bài 3 “Nước ta dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc”, các em đã hiểu nổi thống trị và ách áp bức bóc lột tàn bạo của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với người Việt. Chính quyền đô hộ của thời Hán trở về sau đã thẳng tay đàn áp dã man nhân dân ta. Không khuất phục trước ách thống trị tàn bạo, thâm độc của chúng, nhân dân ta đã liên tiếp vùng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc. Và nhân vật lịch sử nào đã quyết tâm đứng lên khởi nghĩa, đền nợ nước, trả thù nhà thì bài học hôm nay các con sẽ có câu trả lời. Khi dạy bài 8: “Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất (năm 981)”. Phần giới thiệu bài tôi giới thiệu như sau: “Các em đã biết, năm 968, sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, gọi là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đặt niên hiệu là Thái Bình, đóng đô ở Hoa Lư. Để tìm hiểu thêm về tình hình đất nước và diễn biến cuộc kháng chiến như thế nào, cô mời các con tìm hiểu qua nội dung bài học hôm nay”.[2] Khi dạy bài 17 “Nhà Hậu Lê và việc tổ chức quản lí đất nước”. GV có thể nêu vấn đề: “ Năm 1428, sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Minh, Lê Lợi lên ngôi vua, định đô ở Thăng Long. Đến thời Lê Thánh Tông nhà nước ngày càng vững mạnh và đạt đến sự cường thịnh của quốc gia Đại Việt. Vì sao nhà Hậu Lê lại cường thịnh như vậy? Muốn trả lời câu hỏi đó, cô mời các con hãy tìm hiểu xem việc tổ chức quản lí đất nước của nhà Hậu Lê như thế nào qua bài học hôm nay”.[2] Cũng là một cách đặt vấn đề, nhưng giáo viên biết dẫn dắt vào bài bằng những câu chuyện thì học sinh sẽ thấy hấp dẫn và lôi cuốn, từ đó sẽ có hứng thú khi tìm hiểu nội dung bài. Đồng thời giáo viên cũng giúp học sinh nhớ lại kiến thức đã học và hệ thống kiến thức theo trình tự thời gian. 2.3.2. Giải pháp 2 :Tái tạo lịch sử bằng các hình ảnh, tranh minh họa: Đối với các bài dạy có nội dung về địa danh lịch sử như bài “Nước Âu Lạc”, bài “Chùa thời Lý”, bài “Chiến thắng Chi Lăng”, bài “Trường học thời Hậu Lê”, bài “Kinh thành Thăng Long”... tôi sử dụng phương pháp miêu tả kết hợp tranh ảnh. Muốn mô tả được các địa danh như thành Cổ Loa, ải Chi Lăng, kinh thành Huế, kiến trúc thời cùa Lý... thì tôi phải mô tả được những đặc điểm nổi bật của công trình kiến trúc, quá trình xây dựng, qui mô, cấu trúc, kiểu dáng, nét điêu khắc, chạm trổ... 6 Ví dụ: Khi dạy bài 2 “Nước Âu Lạc”, tôi cho học sinh quan sát tranh và giới thiệu: “Thành Cổ Loa nằm ở vị trí trung tâm của nước Âu Lạc, là đầu mối giao thông đường thủy lớn. Từ đây có thể theo sông Hồng, sông Đáy xuôi về vùng đồng bằng, lại có thể lên vùng rừng núi đông bắc qua sông Cầu, sông Thương. Thành Cổ Loa gồm ba vòng thành khép kín, dài hơn 16 km. Cả ba vòng thành đều có hào rộng, phía trong nối liền vời sông Hoàng, tạo thành một vị trí rất hiểm trở. Bên trong thành là lối đi lại quanh co, khúc khuỷu, quân lính có thể ẩn nấp phòng khi địch vào thành, đồng thời tạo điều kiện để quân ta mai phục, dùng tên bắn lại địch...”.[2] Khi dạy bài 10 “Chùa thời Lý”, tôi cho học sinh quan sát một số tranh và giới thiệu, mô tả cho học sinh thêm một số thông tin như: “ Chùa Một Cột còn gọi là chùa Diên Hựu là công trình kiến trúc nổi tiếng thời nhà Lý, gồm ngôi chùa và tòa đài xây giữa hồ. Chùa rộng mỗi bề 3 mét, mái cong, dựng trên một cột đá hình trụ, giống như một đóa sen giữa hồ. Chùa được xây dựng vào năm 1049 do vua Lý Thái Tông chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, vua cũng được dắt lên tòa. Khi tỉnh giấc vua đem việc đó hỏi các quan. Sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa như bông sen nở trên mặt nước để cầu phúc...). [2] Khi dạy bài 16 “Chiến thắng Chi Lăng”, có thể miêu tả ải Chi Lăng kết hợp ảnh tư liệu như sau: “ Về vị trí của ải Chi Lăng, lược đồ cho chúng ta thấy Ải Chi Lăng là một vùng núi đá hiểm trở nhất trên đường từ Pha Lũy sang Đông Quan, cách Pha Lũy khoảng 60 km, cách Đông Quan trên 100 km. Ải Chi Lăng ngày nay thuộc xã Chi Lăng (huyện Chi Lăng – tỉnh Lạng Sơn). Ải Chi Lăng là một thung lũng nhỏ, hình bầu dục, hai đầu Nam – Bắc thu hẹp, gần như khép kín. Chiều dài ải Chi Lăng khoảng 4km, chỗ rộng nhất hơn 1km. Phía tây ..... Dãy núi Chi Lăng dốc đứng và dãy núi đất trùng điệp là những bức thành cao chắn 2 ngả Đông – Tây cùng với các ngọn núi đá bên trong khiến cho ải thêm hiểm trở”. [2] 2.3.3 Giải pháp 3: Tái tạo lịch sử bằng các đoạn phim tư liệu, phim hoạt hình: Để tăng thêm sự tò mò và hứng thú của học sinh, khi giảng dạy về nhân vật lịch sử, giáo viên có thể cho học sinh xem những thước phim tư liệu hay những bộ phim hoạt hình nói về nhân vật đó. Giáo viên có thể chỉnh sửa ảnh, làm ảnh động, cắt các phai âm thanh, video để chèn giáo án trình chiếu phục vụ cho các tiết dạy thêm sinh động gây hứng thú cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài 2 “Nước Âu Lạc”, sau khi học sinh tìm hiểu bài, GV trình chiếu cho học sinh xem một đoạn trong bộ phim hoạt hình Giấc mơ Loa Thành (được tải từ trang https://www.youtube.com/watch?v=qhqKgWZfkVA) để học sinh hình dung rõ hơn về thế mạnh của vua An Dương Vương cũng như lí do vì sao nước Âu lạc lại rơi vào tay quân Triệu Đà. Khi dạy bài 4 “Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40)”, sau khi tổ chức cho học sinh tìm hiểu hoạt động 1 về nguyên nhân của cuộc khởi nghĩa, GV trình chiếu cho học sinh xem một đoạn trong bộ phim hoạt hình Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (được tải từ trang https://www.youtube.com/watch?v=x-dsTia24N0) để học sinh nhận thức rõ hơn về lòng quyết tâm của hai vị anh hùng nữ tướng này. 7 Khi dạy bài 7 “Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân”, sau khi học sinh trình bày kết quả thảo luận câu 2 để biết được thời còn nhỏ Đinh Bộ Lĩnh thường chơi với trẻ chăn trâu, ông hay bắt bọn trẻ khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Để giúp các em hiểu rõ hơn về Đinh Bộ Lĩnh cũng như thời niên thiếu của ông, GV trình chiếu cho học sinh xem trích đoạn trong bộ phim Cậu bé cờ lau (được tải từ trang https://www.youtube.com/watch?v=39vru2JIXgA). Đồng thời, giáo viên cung cấp thêm tư liệu cho học sinh: “ Đinh Bộ Lĩnh quê ở Đại Hữu, huyện Gia Viễn (Ninh Bình) thuộc dòng dõi một dòng họ lớn. Bố là Đinh Công Trứ, Thứ sử châu Đại Hoàng, gắn bó với chính quyền độc lập tự chủ từ thời Dương Đình Nghệ và thời Ngô Quyền.”. 2.3.4. Giải pháp 4: Tái tạo lịch sử bằng việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong khai thác lược đồ: - Đối với phân môn Lịch sử, nếu tôi chỉ yêu cầu học sinh tìm hiểu nội dung SGK rồi trả lời câu hỏi thì giờ học sẽ khô khan và nhàm chán. - Lúc này, giáo viên phải đóng vai trò như một hướng dẫn viên, bằng nghệ thuật khai thác kênh chữ, kênh hình thì giáo viên phải biết sử dụng các tư liệu, áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy để giúp học sinh dễ chiếm lĩnh và tiếp cận kiến thức.Vì vậy giáo viên cần phải biết sử dụng lược đồ kết hợp với lời miêu tả tường thuật. Loại bài này chiếm khá nhiều trong chương trình Lịch sử lớp 4, gồm có các bài: - Khởi nghĩa Hai Bà Trưng - Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo - Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất - Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai - Chiến thắng Chi Lăng - Trịnh- Nguyễn phân tranh - Quang Trung đại phá quân Thanh Để việc áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đạt hiệu quả cao, trước hết cần chuẩn bị tốt các thiết bị hỗ trợ giảng dạy như: Máy chiếu có độ nét cao, phông màn tốt đủ độ lớn để học sinh quan sát bài giảng được tốt. Thiết bị điều khiển trình chiếu từ xa và di động để giáo viên tự do hơn trong giao tiếp với học sinh trong quá trình giảng bài. Ví dụ: Khi dạy bài 4 “Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40)”. + Nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa. - Bước 1: Quan sát lược đồ. + Yêu cầu học sinh trình bày diễn biến cuộc khởi nghĩa trên lược đồ. - Bước 2: Sử dụng tư liệu lịch sử kết hợp với lược đồ tường thuật lại như sau: “ Do căm thù quân xâm lược nhà Hán, Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa rửa nhục cho nước, trả thù cho chồng. Khi nghe tiếng trống họp binh của Hai Bà nổi lên, dân Mê Linh đổ về tụ nghĩa...…Trong vòng chưa đầy một tháng, cuộc khởi nghĩa đã hoàn toàn thắng lợi. Đất nước sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng được suy tôn làm vua, đóng đô ở Mê Linh.”.[2] 8 Lược đồ Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40) Khi dạy bài 5 “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo”, GV tái hiện bằng cách dùng lược đồ kết hợp với dùng lời: “Thực hiện kế hoạch của Ngô Quyền, vào những ngày mưa dầm gió bấc cuối năm 938, quân dân ta đã lặn lội trong mưa rét, ngày đêm chuyển gỗ, dựng cọc. Hàng nghìn cây gỗ lim, sến đầu vạt nhọn, bịt sắt được cắm thành những bãi lớn hai bên bờ cửa sông. Công việc gấp rút chỉ trong hơn một tháng đã hoàn thành, Ngô Quyền dự kiến trận đánh sẽ diễn ra ở bên trong bãi cọc. Ông bố trí lực lượng theo kế hoạch, chờ khi nước triều xuống, phản công đánh đội binh thuyền địch. Chiến thuyền của địch kéo ồ ạt từ biển vào sông Bạch Đằng cũng là lúc nước triều lên. Thực hiện đúng kế hoạch đã định, một đội thuyền nhẹ của ta do Nguyễn Tất Tố chỉ huy, làm nhiệm vụ nhử thuyền địch vào trận địa.”.[2] Khi dạy bài 8 “Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất”, sau khi hướng dẫn học sinh dựa vào các kí hiệu của lược đồ và nội dung SGK để trình bày diễn biến cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất năm 938. 9 Giáo viên kết hợp vừa chỉ lược đồ, vừa tường thuật như sau: “Tháng 4 năm 981, quân Tống theo hai đường thủy, bộ ồ ạt tiến vào xâm lược nước ta. Quân thủy tiến vào nước ta theo đường sông Bạch Đằng. Quân bộ tiến vào theo đường Lạng Sơn. Lê Hoàn trực tiếp chỉ huy binh thuyền chống giặc ở cửa sông Bạch Đằng. Ông cho quân đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngặn chặn chiến thuyền của giặc. Khi quân thủy của nhà Tống kéo đến sông Bạch Đằng, Lê Hoàn cho quân đổ ra chặn đánh. Thuyền chiến của ta áp sát vào các thuyền của giặc, quân ta ào sang thuyền giặc. Một số thuyền quân Tống mắc vào cọc, tiến lui đều không được, một phần bị vỡ, đắm,..Tướng giặc bị thương, vội trút bỏ mũ áo, trà trộn vào đám tàn quân chạy trốn”.Cuộc xâm lược của quân Tống hoàn toàn thất bại”. Khi dạy bài 25 “Quang Trung đại phá quân Thanh”, sau khi phân tích nguyên nhân khiến Quang Trung kéo quân ra Bắc, GV sử dụng lược đồ để giới thiệu về diễn biến cuộc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung. GV cho HS tìm hiểu về lược đồ, giới thiệu năm đạo quân Tây Sơn tiến ra Bắc, GV chuyển sang tường thuật chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa: 10 Lược đồ Quang Trung đại phá quân Thanh “ Sau khi diệt đồn Hạ Hồi, mờ sáng ngày mùng 5 tết, quân Tây Sơn tiến gấp đến đồn Ngọc Hồi. Quân địch ra sức cố thủ nhưng không thể nào cản được bước tiến của quân Tây Sơn. Khi đã áp sát đồn giặc, hạ tấm lá chắn được làm bằng gỗ, quấn rơm, tẩm nước để bảo vệ cho bộ binh theo sau xông vào giáp chiến với giặc. Quân Thanh hoảng loạn, tháo chạy. Số còn lại chạy về kinh thành nhưng cũng bị phục kích tiêu diệt. …. Quân giặc thấy chủ tướng bỏ chạy cũng hoảng loạn, chen lấn vượt sông khiến cầu phao bị gãy. Những đạo quân khác được tin đó cũng bỏ chạy tháo thân. Quân ta toàn thắng.”.[2] Khi dạy các dạng bài này tôi phải diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, thể hiện thái độ, tình cảm của mình. Khi tường thuật, thỉnh thoảng giáo viên đặt câu hỏi tại sao để học sinh suy nghĩ (song không nhất thiết yêu cầu các em phải trả lời). Ngoài việc sử dụng các lược đồ, giáo viên có thể sử dụng các loại tranh ảnh, băng hình, đĩa CD để tiết học sinh động và hiệu quả. Học sinh vừa dễ tiếp thu, ghi nhớ nội dung mà còn yêu thích tiết học. 2.3.5. Giải pháp 5: Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách tổ chức trò chơi học tập bằng trò chơi: “Rung chuông vàng”: Ví dụ: Khi dạy xong bài: “Nước Văn Lang” và bài “Nước Âu Lạc”. - Mục tiêu: Củng cố kiến thức về sự ra đời, phát triển của nước văn Lang và nước Âu Lạc. - Chuẩn bị: - Giaùo vieân chuaån bò caâu hoûi dạng trắc nghiệm với các phương án lựa chọn A, B, C, D. Học sinh: Bảng con, phấn - Thời gian : 4 phút 11 - Luật chơi – Cách chơi: GV nêu câu hỏi trong thời gian 20 giây, các em suy nghĩ và viết đáp án đúng vào bảng con. Khi nghe hiệu lệnh hết thời gian, học sinh phải giơ bảng cùng với đáp án lựa chọn của mình. Mỗi câu trả lời đúng, học sinh ghi được 1 điểm vào tổng điểm của mình. Hết gói câu hỏi, bạn nào có số điểm cao nhất sẽ được trao vòng nguyệt quế - Hệ thống câu hỏi: Câu 1: Nước Văn Lang ra đời vào thời gian nào? A. Khoảng năm 700 TCN C. Khoảng đầu thế kỉ 1. B. Khoảng năm 300 TCN D. Khoảng giữa thế kỉ 1. Câu 2: Tên gọi dân cư sống trên đất Văn Lang là: A. Người Âu Việt C. Người Bách Việt B. Người Lạc Việt D. Cả 3 đáp án trên. Câu 3: Vua nước Văn Lang gọi là: A. Lạc tướng C. Hùng Vương B. Vua D. Lạc tướng và Vua. Câu 4: Tầng lớp giàu có trong xã hội Văn Lang là: A. Lạc dân C. Nô tì B. Vua, lạc hầu, lạc tướng D. Vua, lạc hầu, lạc tướng, nô tì Câu 5: Nghề chính của cư dân nước Văn Lang là: A. Làm ruộng C. Đan rổ rá và đan thuyền B. Trồng dâu, nuôi tằm D. Làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm Câu 6: Người Lạc Việt cư trú trong các loại hình nhà nào dưới đây: A. Nhà trệt trên mặt đất C. Trong các hang đá B. Nhà sàn D. Nhà sàn, trong các hang đá Câu 7: Những tục lệ nào của người Lạc Việt còn tồn tại đến ngày nay: A. Nhuộm răng đen, ăn trầu, búi tóc B. Phụ nữ thích đeo các đồ trang sức C. Hóa trang nhảy múa, đua thuyền và đấu vật trong ngày hội D. Tất cả các ý trên Câu 8: Nước Văn Lang tồn tại qua bao nhiêu đời vua Hùng: A. Mười sáu đời C. Hai mươi đời B. Mười tám đời D. Bốn mươi đời Câu 9: Khu vực ra đời của nước Văn Lang là: A. Ven biển miền Trung C. Khu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả B. Cao nguyên miền Trung D. Khu vực sông Mã, sông Cả Câu 10: Ở vùng núi phía bắc nước Văn Lang, bên cạnh người Lạc Việt, còn có người tộc nào? A. Người Hán C. Người Âu Việt B. Người Lào D. Cả người hán, người Âu Việt Câu 11: Người Âu Việt và người Lạc Việt có những điểm giống nhau là: A. Biết chế tạo đồng thau C. Biết đánh cá B. Biết trồng lúa, chăn nuôi D. Cả ba ý trên đều đúng Câu 12: Kinh đô nước Âu Lạc đặt ở: A. Từ Sơn (Bắc Ninh) C. Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) B. Mê Linh (Vĩnh Phúc) D. Hoa Lư ( Ninh Bình) 12 Câu 13: Những thành tựu đặc sắc của người dân Âu Lạc là: A. Rèn được lưỡi cày đồng C. Xây thành Cổ Loa B. Chế được loại nỏ bắn được nhiều mũi tên D. Cả ba ý trên đều đúng Câu 14: Triệu Đà nhiều lần kéo quân sang xâm lược Âu Lạc, nhưng lần nào cũng thất bại vì: A. Nhân dân Âu Lạc đoàn kết C. Có thành lũy kiên cố B. Có tướng chỉ huy giỏi, vũ khí tốt D. Cả ba ý trên đều đúng Câu 15: Triệu Đà chiếm Âu Lạc vào năm: A. 218 trước công nguyên C. 40 trước công nguyên B. 179 trước công nguyên D. 40 sau công nguyên .[3] 2.3.6. Giải pháp 6: “Trò chơi Đố vui lịch sử”. Ví dụ: Khi dạy xong bài 4 “Khởi nghĩa Hai Bà Trưng”, giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Đố vui lịch sử. - Mục tiêu: Củng cố kiến thức về cuộc khởi nghĩa đầu tiên sau hơn 200 năm nước ta bị các triều đại phong kiến phương Bắc Đô hộ. - Chuẩn bị: + Giáo viên chuẩn bị hệ thống câu hỏi trắc nghiệm + Học sinh: Bảng con, phấn - Thời gian : 3 phút - Luật chơi – Cách chơi : 1 em trong lớp dẫn chương trình với hệ thống câu hỏi của giáo viên chuẩn bị. Mỗi câu hỏi có đáp án trắc nghiệm, học sinh chọn đáp án đúng ghi vào bảng. Hết thời gian 30 giây, học sinh giơ bảng. Em nào có kết quả sai phải ra ngoài, đứng riêng hàng. Đến câu cuổi cùng, đội nào có nhiều em ở lại, đội đó sẽ thắng cuộc. Câu hỏi như sau: Câu 1: Nước ta bị nhà Hán đô hộ vào thời gian nào: A. Trước thế kỉ 1 C. Cuối thế kỉ 1 B. Đầu thế kỉ 1 D. Giữa thế kỉ 1 Câu 2: Theo em, nhận xét nào về Tô Định là đúng: A. Tô Định thi hành nhiều chính sách để cải thiện cuộc sống của dân ta B. Tô Định là Thái thú quận Giao Chỉ nổi tiếng tham lam, tàn bạo C. Tô Định rất khôn khéo trong chính sách cai trị D. Tô Định là Thái thú quận Giao Chỉ nổi tiếng thông minh, thương dân Câu 3: Hai Bà Trưng sinh ra và lớn lên ở: A. Vùng Phong Châu (Phú Thọ) C. Vùng Ba Vì (Hà Tây) B. Vùng Mê Linh (Vĩnh Phúc) D. Cả A và B Câu 4: Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa vào thời gian nào, tại đâu: A. Mùa xuân năm 41, tại Luy Lâu (Bắc Ninh) B. Mùa xuân năm 42, tại Mê Linh (Vĩnh Phúc) C. Mùa xuân năm 40, tại của sông Hát (Hát Môn, Hà Tây) D. Mùa xuân năm 43, tại Luy Lâu (Bắc Ninh) Câu 5: Đường tiến quân của nghĩa quân Hai bà Trưng là: A. Từ Cổ Loa về Luy Lâu B. Từ Cổ Loa về Mê Linh rồi tấn công Luy Lâu C. Từ Luy Lâu về Cổ Loa D. Từ Mê Linh tiến xuống đánh chiếm Cổ Loa .[4] 13 Với cách tổ chức như vậy, tôi thấy học sinh rất hào hứng và ghi nhớ tốt hệ thống kiến thức đã học. 2.3.7. Giải pháp 7: Trò chơi “Ô chữ bí mật”. Sau mỗi bài học, giáo viên có thể củng cố lại kiến thức bài học hoặc những kiến thức đã học qua trò chơi Ô chữ bí mật. Đây là trò chơi được sử dụng khá nhiều trong các môn học và gây được sự hào hứng với học sinh. Ví dụ : Sau khi học bài 9: “Nhà Lý rời đô ra Thăng Long”, gv tổ chức trò chơi như sau: - Mục tiêu : Củng cố lại kiến thức bài học giúp các em tìm ra được từ khóa. - Chuẩn bị : - Giáo viên chuẩn bị máy chiếu, hệ thống câu hỏi 8 ô hàng ngang và 1 từ chìa khóa. - Thời gian : 4 phút. - Luật chơi - Cách chơi: Chia lớp làm 3 đội, mỗi đội lần lượt chọn ô chữ hàng ngang. Trong vòng 20 giây nếu trả lời đúng ghi được 10 điểm, nếu trả lời sai đội còn lại giành quyền trả lời. Đội nào đoán được từ chìa khóa sẽ ghi được 30 điểm, nếu sai trò chơi sẽ tiếp tục cho đến khi tìm ra hết các từ hàng ngang. Đội nào ghi được nhiều điểm hơn sẽ giành chiến thắng Hệ thống câu hỏi: Câu 1: Ai là vị vua mở đầu triều đại nhà Lý? Câu 2: Hình thức sinh hoạt của người dân ở kinh thành Thăng Long? Câu 3: Đây là tên gọi kinh đô mới của nước ta sau khi rời về Đại La? Câu 4: Tên kinh thành Thăng Long được gắn với hình ảnh nào? Câu 5: Đây là vị vua đổi tên nước ta thành Đại Việt? Câu 6: Đời vua Lý Thánh Tông, nước ta đổi tên là gì? Câu 7: Đại La là vùng đất như thế nào? Câu 8: Quê của Lý Công Uẩn ở đâu? Trong khuôn khổ có hạn, tôi không thể giới thiệu hết hệ thống câu hỏi của từng bài. Giáo viên cần linh hoạt trong hướng dẫn và có thể để cho một em dẫn tốt tổ chức cho lớp chơi. 2.3.8. Giải pháp 8: “Trò chơi Đóng vai” Ngoài ra, để cuốn hút được học sinh yêu thích môn học, đối với những bài có nội dung đề cập đến một nhân vật lịch sử thì tôi tổ chức trò chơi đóng vai. Ví dụ: Khi dạy bài 14: “Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên”. - Mục tiêu: Yêu cầu học sinh nêu những sự kiện chứng tỏ tinh thần quyết tâm kháng chiến chống quân Mông-Nguyên của quân dân nhà Trần. - Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị kịch bản, lời thoại của các nhân vật. - Thời gian: 4 phút. - Luật chơi – cách chơi: Cho học sinh chơi đóng vai theo nhóm. + Một em dẫn chuyện + Một em đóng vai vua Trần + Một em đóng vai Trần Thủ Độ +Một số em đóng vai các vị bô lão. Ví dụ : Khi dạy bài 15: “Nước ta cuối thời Trần”. 14 - Mục tiêu: khắc họa rõ nét sự thối nát, bất lực của vương triều, sự rối ren của xã hội. - Chuẩn bị: Giáo viên cho học sinh đóng vai dựa vào nội dung SGK. - Thời gian: 4 phút. - Luật chơi – cách chơi: Thảo luận nhóm đóng vai theo các nhân vật sau : + Một em dẫn chuyện + Một em đóng vai vua + Một em đóng vai quan đại thần + Một em đóng vai Chu Văn An Ví dụ : Khi dạy bài 24 “Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long”, tôi tổ chức cho học sinh đóng vai các nhân vật lịch sử mà bài học đề cập. - Mục tiêu: Học sinh hiểu rõ hơn thái độ của chúa Trịnh trước khí thế tiến quân như vũ bão của nghĩa quân Tây Sơn. - Thời gian : 3 phút. - Luật chơi – cách chơi: Cho học sinh đóng vai theo nội dung SGK từ đầu đến đoạn …quân Tây Sơn. Học sinh được chia thành mỗi nhóm 3 học sinh đóng vai theo các nhân vật . + Một em dẫn chuyện + Một em đóng vai Trịnh Khải + Hai em đóng vai hai viên tướng Qua cách đóng vai học sinh hiểu rõ hơn thái độ của chúa Trịnh trước khí thế tiến quân như vũ bão của nghĩa quân Tây Sơn. Sau đây là ví dụ về 1 số giải pháp mà tôi đã sử dụng trong bài dạy lịch sử Tuần 9 Môn : Lịch sử - lớp 4. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thoan Bài: ĐINH BỘ LĨNH DẸP LOẠN 12 SỨ QUÂN I.Mục tiêu : - Nắm được những nét chính về sự kiện Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân: + Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước rơi vào cảnh loạn lạc, các thế lực cát cứ địa phương nổi dậy chia cắt đất nước. + Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp nhân dân dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước - Đôi nét về Đinh Bộ Lĩnh: Đinh Bộ Lĩnh quê ờ vùng Hoa Lư, Ninh Bình, một người cương nghị, mưu cao và có chí lớn, ông có công dẹp loạn 12 sứ quân. II. Kĩ năng sống: - Kĩ năng lắng nghe, trình bày, kĩ năng tìm kiếm và sử lý thông tin, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng kể chuyện, kĩ năng đóng vai. III.Chuẩn bị : - GV : Máy chiếu. - GV: Hình trong SGK phóng to và một số tranh ảnh khác phục vụ bài học. - HS: phiếu học tập cho hoạt động 3. IV.Hoạt động trên lớp : Hoạt động của GV Hoạt động của HS 15 1.Ổn định: 2.KTBC :GV tổ chức cho học sinh Chơi trò chơi : “ đoán tên nhân vật lịch sử”. Tên trò chơi như sau: Đố em ? Đố ai nêu lá Quốc kỳ Mê Linh đất cũ còn ghi muôn đời Yếm, khăn đội đá vá trời Giặc Tô mất vía rụng rời thoát thân? (Là ai?) Đố ai trên Bạch Đằng Giang Làm cho cọc nhọn dọc ngang sáng ngời Phá quân Nam Hán tơi bời Gươm thần độc lập, giữa trời vung lên? (Là ai?) Vua nào thuở bé chăn trâu Trường Yên một ngọn cờ lau tập tành Sứ quân dẹp loạn phân tranh Dựng nền thống nhất sử xanh còn truyền. (Là ai?) - GV nhận xét. Đáng giá. 3.Bài mới : a. Giới thiệu: Từ thủa nhỏ khi còn là cậu bé chăn trâu ông đã tỏ ra là người có chí lớn, lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau, Lớn lên, ông tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư cùng nhân dân dẹp loạn. Vậy ông là ai? Hôm nay các em sẽ học Lịch sử bài “Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân”. b.Phát triển bài : Hoạt động 1: Tình hình đất nước sau khi N/Q mất -GV cho HS đọc SGK từ (Ngô Quyền trị vì… lăm le xâm lược). - Y/c HS thảo luận nhóm đôi. - Hát vui. -Cả lớp theo dõi trên màn hình máy chiếu ,trả lời . - Hai Bà Trưng - Ngô Quyền - Đinh Bộ Lĩnh -HS lắng nghe và trả lời. -HS thảo luận nhóm -Đại diện các nhóm trình bày. ? Sau khi N/QuyÒn mÊt, t×nh h×nh níc ta ntn? triều đình lục đục tranh nhau đất nước bị chia cắt thành 12 vùng Dân chúng đổ máu vô ích quân thù lăm le ngoài bờ cõi -HS quan sát lược đồ. - GV cho học sinh quan sát lược đồ loạn 12 sứ quân. -GV: Sau khi Ngô Quyền mất….các thế lực cát cứ địa phương nổi dậy chia cắt đất nước thành 12 vùng, lập chính quyền riêng, sử cũ gọi là 12 sứ quân. Vậy ai có 16 thể dẹp loạn được 12 sứ quân này, chúng ta cùng tìm hiểu về ông. Hoạt động 2. Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. - GV chia lớp thành 4 nhóm thảo luận theo nội dung sau: 1/ Đinh Bộ Lĩnh sinh và mất năm nào. Cha, mẹ tên gì? Quê ở đâu?. 2/ Em biết gì về tuổi thơ của Đinh Bộ Lĩnh? 3/ Đinh Bộ Lĩnh có công gì trong việc thống nhất đất nước? 4/ Sau khi thống nhất đất nước Đinh Bộ Lĩnh đã làm gì? -GV cho HS quan sát lược đồ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. - GV cho HS Phim Cậu bé cờ lau (được tải từ trang https://www.youtube.com/watch?v=39vru2JIXgA). GV nhận xét. ? ĐBL là người ntn ? GV: Sau khi ĐBL thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế tình hình đất nước ta như thế nào? Chúng ta cùng tìm hiểu. Hoạt động 3. Tình hình đất nước sau khi được thống nhất. Gv cho Hs làm bài trên phiếu học tập. Nội dung như sau: PHIẾU HỌC TẬP So sánh tình hình đất nước trước và sau khi được thống nhất : Thời gian Trước khi Sau khi thống thống nhất nhất Các mặt - Đất nước - Triều đình - Đời sống của nhân dân. - GV nhận xét và kết luận . - Cho Hs xem hình ảnh về cảnh đất nước xưa và nay. 4.Hoạt động nối tiếp. - GV cho hs chơi trò chơi“ Rung chuông vàng”. - GV đưa hệ thống câu hỏi dạng trắc nghiệm với các phương án lựa chọn A, B, C .Trong thời gian 5 giây, các em suy nghĩ và viết đáp án đúng vào bảng con. Câu 1. ĐBL là người ntn ? A. Là nhười phi thường. B. Là người thích đánh trận. C. Là người có mưu cao, trí lớn. - Hs đọc thầm đoạn còn lại - Hs thảo luận nhóm - Đại diện các nhóm trình bày, các nhóm khác bổ sung, nhận xét. -HS quan sát, 1em chỉ tỉnh Ninh Bình trên lược đồ. - HS xem phim hoạt hình. - Hs trả lời. -HS hoàn thành phiếu học tập. -Một số em trình bày, lớp nhận xét. - HS quan sát tranh. - HS chơi trò chơi“ Rung chuông vàng”. - Trả lời vào bảng 17 con. Câu 2. Đinh Bộ Lĩnh có công gì ? A.Đánh đuổi quân Nam Hán, giành độc lập cho đất nước. B.Dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. C.Đánh đuổi quân xâm lược Tống. Câu 3.Sau khi thống nhất đất nước Đinh Bộ Lĩnh đã làm gì? A. Lên ngôi vua, lấy hiệu là Đinh Tiên hoàng, đóng đô ở Hoa Lư,đặt tên nước là Đại Cồ Việt, niên hiệu Thái Bình. B. Trở về vùng đất Hoa Lư làm dân thường C. Đưa Hậu Duệ của Ngô Quyền lên làm vua GV : Hết gói câu hỏi tổng kết em nào đúng nhiều nhất được trao vòng nguyệt quế. - HS trả lời. - GV cho HS đọc bài học trong SGK . - Hỏi: Nếu có dịp được về thăm kinh đô Hoa Lư em sẽ nhớ đến ai? Vì sao ? * Dặn dò: -Về nhà xem lại bài và chuẩn bị bài: “Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược lần thứ nhất”. -Nhận xét tiết học . - Chất lượng học tập của học sinh: Chất lượng giáo dục được nâng lên một cách rõ rệt ở môn học Lịch sử. Nhiều học sinh đã biết tự học, tham gia trò chưi, thuyết trình, đóng vai… thảo luận nhóm hăng hái, biết hỗ trợ nhau hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách chủ động và tự giác. Nhiều em biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống như giải thích một số các sự kiện lịch sử. Nhiều học sinh biết trình bày và trình bày vấn đề một cách lưu loát. Giờ học nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn, hiệu quả hơn. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Qua thời gian áp dụng một số biện pháp trên vào dạy học lớp 4A với 31 học sinh học kỳ 2 năm học 2017-2018 tại trường Tiểu Học Tân Lập, tôi đã thu được kết quả như sau: Bảng 1: Bảng thống kê kết quả điều tra học sinh yêu thích môn học Lịch sử qua phiếu thăm dò . Năm học 2017- 2018 Tổng Mức độ hứng thú trong học tập số học Rất hứng thú Bình thường Không hứng thú sinh SL TL SL TL SL TL 31 15 48,3 16 51,7 0 0 Bảng 2: Bảng kết quả học tập và rèn luyện cuối học kì 2 năm học 2017- 2018. 18 Chất lượng môn học Năm học 2017 - 2018 Tổng số học Hoàn thành tốt sinh SL TL 31 10 32,2 Hoàn thành SL 21 TL 67,8 Chưa HT SL 0 TL 0 III- KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: 1. Kết luận: Dạy học Lịch sử là dạy cho học sinh hiểu về cội nguồn đất nước, về những vị anh hùng dân tộc,…Từ chỗ hiểu rồi các em mới thêm yêu đất nước. Có thể nói, để tạo hứng thú cho học sinh trong học tập lịch sử, nhằm giúp các em có hiểu biết nhiều hơn về lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới, đòi hỏi giáo viên phải nhiệt tình, sáng tạo, có phương pháp dạy học phù hợp với từng bài, từng đối tượng học sinh. Việc sử dụng các phương pháp dạy học trên, có tác động rất lớn đến lứa tuổi học sinh tiểu học, các em thấy yêu thích và hứng thú với môn Lịch sử hơn, nên chất lượng bộ môn cũng được cải thiện. Tuy nhiên, mỗi phương pháp có những mặt ưu điểm và hạn chế nhất định. Điều quan trọng là người giáo viên phải biết sử dụng các phương pháp dạy học một cách hợp lí, chủ động, linh hoạt và sáng tạo thì chất lượng dạy và học sẽ đem lại hiệu quả cao. 2. Kiến nghị: * Đối với nhà trường: - Bổ sung tư liệu, tài liệu chuyên môn nghiệp vụ, sách tham khảo để phục vụ nghiên cứu; đồ dùng dạy học; phương tiện dạy học. * Đối với phòng giáo dục: - Đề nghị Phòng giáo dục và đào tạo Bá Thước tổ chức tập huấn một số phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng dạy học cho giáo viên. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Tân Lập, ngày 12 tháng 4 năm 2019 ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. NGƯỜI VIẾT Nguyễn Thị Thoan 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan