ĐỀ ÁN MÔN HỌC
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta được thiên nhiên ưu đãi có một mạng lưới sông
ngòi dày đặc và một bờ biển dài với những loài thuỷ sản phong
phú và có giá trị cao. Chính vì vậy mà ngành thuỷ sản xuất khẩu
của nước ta rất phát triển, mỗi năm đóng góp rất lớn cho nền kinh
tế. Do đó, thị trường xuất khẩu là một vấn đề rất quan trọng, ảnh
hưởng rất lớn tới kim ngạch xuất khẩu của ngành. Trong các thị
trường xuất khẩu, EU là một thị trường rất tiềm năng với kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam hằng năm chỉ đứng thứ hai
sau thị trường Nhật Bản. Nhưng hiện nay, xuất khẩu sang thị
trường EU đang gặp rất nhiều khó khăn do EU là một thị trường
khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng, mà vấn đề này đang là một
thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Do
vậy em đã chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất
khẩu thuỷ sản vào thị trường EU” làm đề tài cho đề án của mình.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị
trường EU
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam sang thị trường EU.
1
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Chương I: TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA
VIỆT NAM
I. Đặc điểm hàng thuỷ sản và xu hướng tiêu dùng của thế
giới
1. Đặc điểm hàng thuỷ sản
Thuỷ sản là nguồn thực phẩm quan trọng đối với cuộc sống
của chúng ta bởi hàng thuỷ sản có những đặc điểm sau:
Hàng thuỷ sản được ưa chuộng: Đối với thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng, hàng thuỷ sản là một trong những mặt hàng
thực phẩm được ưa thích tiêu dùng. Ngành thuỷ sản cung cấp
những sản phẩm quý cho tiêu dùng dân cư, là nguyên liệu để phát
triển các ngành khác như công nghiệp chế biến,… Mặt khác, theo
kết quả nghiên cứu của các chuyên gia đã khẳng định: hầu hết các
loại sản phẩm thuỷ sản đều là các loại thực phẩm dễ tiêu hoá, giàu
chất đạm, phù hợp với mọi lứa tuổi, ít gây bệnh về tim mạch, béo
phì và ung thư. Về thành phần dinh dưỡng, so với các loại sản
phẩm hàng thuỷ sản có ít chất mỡ, nhiều chất khoáng và chất đạm
cũng cao.
thịt bò
Cá thu
2
Cá mối
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
đạm
16,2–
18,6%
mỡ
chất
19,2%
11 – 28% 0,4%
0,8 – 1,0% 1,2%
Cá Hồng
16,4%
11,8%
1,6 – 2,3%
1,2%
5,9%
1,4%
khoáng
Hàng thuỷ sản có giá trị xuất khẩu cao: các mặt hàng thuỷ
sản, đặc biệt là sản phẩm đã được chế biến có giá bán cao hơn
hàng tươi sống và sơ chế, đem lại giá trị gia tăng cho các nhà xuất
khẩu nhờ vào chất lượng cao và phù hợp với thị hiếu đa dạng,
phong phú của người tiêu dùng trong nước cũng như thế giới, có
ưu thế là giải quyết được nhiều vấn đề về việc làm, đồng thời thu
được nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước, đặc biệt đối với các
nước có khí hậu nhiệt đới ẩm với mạng lưới sông ngòi dày đặc như
Việt Nam. Như vậy, thúc đẩy xuất khẩu hàng thuỷ sản sẽ có những
đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của toàn ngành nông, ngư
nhiệp.
Quá trình sản xuất hàng thuỷ sản phải gắn liền với khâu chế
biến và hàng tiêu thụ: thuỷ sản là hàng tươi sống, trong thời gian
ngắn nhanh hư hỏng, như vậy cần bảo quản tốt việc sơ chế và chế
biến. Như vậy, các thuyền đánh bắt xa bờ phải trang bị công nghệ
hiện đại phù hợp với hàng thuỷ sản để đảm bảo độ tươi của hàng
thuỷ sản thực sự là vấn đề cấp bách để hàng thuỷ sản có đủ điều
3
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
kiện xuất khẩu, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm
cho hàng xuất khẩu.
Việc khai thác và nuôi trồng thuỷ sản phân tán: việc điều
kiện địa lý, khí hậu phù hợp, tiềm năng về biển. Biển Đông của
Việt Nam có diện tích 344.7000 km2, độ sâu trung bình 1.140 m,
và bờ biển dài trên 3.260 km. Mặt khác ở nước ta có nhiều sông hồ
rải rác, vì vậy, nhà nước cần quan tâm đến việc xây dựng và thực
hiện việc quy hoạch phát triển ngành thuỷ sản từ khâu khai thác,
nuôi trồng, khai thác đến việc chế biến và tiêu thụ, kể cả tiêu thụ
trong nước và xuất khẩu.
Sản phẩm thuỷ sản có tính thời vụ: tính thời vụ là đặc trưng
của việc nuôi trồng thuỷ sản, bởi nước ta nằm trong vành đai nhiệt
đới Bắc bán cầu và chịu ảnh hưởng của gió mùa châu Á, nên về
mùa đông, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất ở Bắc Bộ từ 13 –
17oC, ở Nam Bộ nhiệt độ từ 25 – 27 oC. Ngược lại trong thời kỳ gió
mùa xích đạo, nhiệt độ cao và phân bổ đồng đều trong cả nước.
Biên độ nhiệt trong năm chênh lệch nhiều giữa hai miền Nam Bắc, ảnh hưởng nhiều đến việc nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt
thuỷ hải sản. Vì thế mùa đông lạnh của miền Bắc không thể nuôi
trồng thuỷ sản nên hàng trái vụ thì giá cao còn hàng chính vụ
không tiêu thụ được do đặc điểm của khâu chế biến thuỷ sản đánh
bắt được phải chế biến nhanh.
4
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
2. Xu hướng tiêu dùng của thế giới
Thuỷ sản được đánh giá là nguồn thực phẩm quan trọng đối
với con người. Xu hướng tiêu thụ hiện nay là loại thực phẩm
không tốn nhiều thời gian chế biến. Do quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá con người luôn tất bật với công việc nên thời gian vào
bếp rất ít, cộng với việc thuỷ sản dẽ bị hư hỏng. Vì vậy xu hướng
tiêu dùng hàng thuỷ sản đã chế biến tăng lên, do vậy ngành công
nghiệp chế biến lại có cơ hội phát triển, giải quyết được nhiều vấn
đề về lao động, tận dụng được hết giá trị sử dụng của mặt hàng, lợi
nhuận cao. Tuy nhiên, đối với hàng thuỷ sản sơ chế lại bất lợi ở
nhiều khâu.
II. Xuất khẩu thuỷ sản và vai trò của xuất khẩu thuỷ sản
đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam
1. Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
Đặc điểm của thị trường sản phẩm thuỷ sản
- Là một thị trường đa dạng và đa cấp thị trường
Thuỷ sản là một ngành sản xuất nông nghiệp chuyên môn
hoá hẹp, sản xuất nhiều loại thuỷ sản như: các loại cá, tôm các loại,
nhuyễn thể các loại và các loại thuỷ hải sản. Mặt khác, nhờ môi
trường điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển ngành thuỷ sản
5
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
với nhiều loại phong phú trên các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ,
nước mặn bao gồm cả việc nuôi trồng, khai thác và đánh bắt.
- Cũng giống như các thị trường hàng hoá khác, thị trường
thuỷ sản bao gồm nhiều cấp: cấp cơ sở, cấp địa phương, cấp trong
nước và cấp nước ngoài.
- Thị trường sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu nước ta những năm
gần đây rất phát triển và sôi động. Nhiều sản phẩm thuỷ sản chiếm
được vị thế trên thị trường thế giới, nhất là EU, Mỹ, Nhật… và kim
ngạch tăng liên tục. Như vậy thuỷ sản của Việt Nam có vị thế khá
cao trong thương mại thuỷ sản thế giới nhưng còn nhiều khó khăn
và rào cản.
- Thị trường sản phẩm thuỷ sản nước ta vừa mang tính phân
tán rộng lại vừa có tính tập trung quy mô lớn.
- Thị trường sản phẩm thuỷ sản phát triển không đồng đều giữa
các vùng và giữa các khu vực trong cả nước.
- Quan hệ cung - cầu sản phẩm thuỷ sản trên thị trường từng
bước ổn định hơn.
2. Cơ cấu thị trường thuỷ sản xuất khẩu
Cơ cấu mặt hàng chế biến thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu của
Việt Nam bao gồm:
6
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Cá tươi và đông lạnh: được xuất khẩu sang thị trường chính
như: Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản… nhưng khối lượng xuất
khẩu không lớn. Cá và tôm là hai mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn
nhất bao gồm cá tra, cá ba sa, cá thu có thị trường chính là Mỹ. cá
ngừ chiếm 5% tổng giá trị xuất khẩu.
Tôm đông lạnh: tỷ trọng xuất khẩu tôm của Việt Nam lớn
nên nhà nước cần có biện pháp và phương hướng đối với việc nuôi
trồng tôm và các thuỷ hải sản khác để giảm bớt rủi ro.
7
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Chương II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU
I. Thị trường thuỷ sản EU
1. Xu hướng tiêu dùng ở EU
Hiện nay EU là thị trường rộng lớn, gồm 27 quốc gia. Thị
trường EU tổng hợp nhiều đặc điểm tiêu dùng của mỗi quốc gia
làm cho nhu cầu tiêu dùng hết sức phong phú mang đặc điểm của
từng vùng lãnh thổ.
Về mặt hàng tiêu thụ
Các sản phẩm chế biến được tiêu thụ phổ biến ở EU gồm các
mặt hàng tươi, cắt khúc, luộc, tẩm bột, đóng hộp hay hun khói. Thị
trường EU chia thành hai khu vực chính: Các nước Tây Bắc Âu và
các nước Địa Trung Hải. Các nước Tây Bắc Âu ưa chuộng các loài
nước lạnh (cá trích, cá thu, cá minh thái, cá bơn, cá hồi). Khu vực
Địa Trung Hải ưa chuộng nhuyễn thể chân đầu, nhuyễn thể hai
mảnh vỏ và cá tuyết. Cá ngừ, cá hồi, cá bơn và tôm là loài thủy sản
được ưa chuộng ở khắp châu Âu.
Về xu hướng tiêu thụ
8
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
EU là khu vực chủ yếu nhập khẩu ròng thủy hải sản do sản
lượng sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Tiêu thụ thủy hải sản
bình quân đầu người ở EU rất cao, đứng thứ hai thế giới sau Nhật
Bản. Tổng mức tiêu thụ ở thị trường EU mỗi năm vào khoảng 10
triệu tấn, bằng 12% tổng mức tiêu thụ của thế giới. Tây Ban Nha,
Pháp, Italia là những thị trường tiêu thụ hải sản lớn nhất ở châu
Âu.
Nếu như ở Pháp loại cá tươi và cá phi lê được bán nhiều hơn
cá nguyên con thì ở Ba Lan lại chuộng loại mặt hàng này hơn. Đặc
biệt người Pháp còn ưa chuộng các loại động vật thân mềm, đặc
biệt là hến. Ở thị trường Đức, đến 90% các sản phẩm thủy hải sản
tiêu thụ lại là cá. Những động vật có vỏ (trai, sò, tôm, cua…) lại
không được tiêu thụ mạnh. Không giống như các nước ở khu vực
Địa Trung Hải, hầu hết người tiêu dùng ở Đức quan tâm đến
những sản phẩm thủy hải sản được bảo quản và chế biến sẵn. Ở
Tây Ban Nha, cá tươi là mặt hàng tiêu thụ nhiều nhất. Tuy nhiên
động vật thân mềm, loài giáp xác (tôm, cua) và đặc biệt là mực ống
cũng được người tiêu dùng ưa chuộng. Ở Italia, phần lớn hải sản
được bán dưới dạng tươi hoặc ướp lạnh, động vật thân mềm đặc
biệt phổ biến. Italia cũng là một thị trường quan trọng đối với mực
phủ, hiện nay sức tiêu thụ tôm càng và hến có mức tăng trưởng
đáng kể.
9
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Người tiêu dùng châu Âu đang chuyển hướng mạnh sang tiêu
thụ tôm biển loại nhỏ và tôm pandan nước ấm. Xu hướng này có
thể nhận thấy ở hầu hết các nước châu Âu, ngoại trừ Đức. Hiện
nay một số loài cá đang được tiêu thụ rất mạnh ở châu Âu như cá
tra, cá basa của Việt Nam và cá rô Sông Nile với khối lượng tăng
lên nhanh chóng. Những loài thủy hải sản mới này được người tiêu
dùng châu Âu ưa chuộng do có mùi vị trung tính và giá thấp.
Hướng tới các sản phẩm có lợi cho sức khoẻ: Người tiêu
dùng ngày càng thích ứng với dạng sản phẩm an toàn. Họ thích các
sản phẩm ít béo và có giá trị dinh dưỡng cao. Thuỷ sản có hàm
lượng prôtêin, các vitamin và chất khoáng cao thích hợp cho nhu
cầu này. Ngoài ra, các sản phẩm thuỷ sản có chất lượng thường
đóng vai trò chống lại các nguy cơ về sức khoẻ. Một trong những
trường hợp rõ nét nhất là dầu cá, được biết đến như axít béo
Ômega - 3 có tác dụng tích cực trong việc phòng tránh các bệnh
tim mạch. Tuy nhiên, thuỷ sản không chỉ hoàn toàn có lợi cho sức
khoẻ. Chẳng hạn, một số cảnh báo chính thức đã được đưa ra cho
người tiêu dùng, đặc biệt là phụ nữ mang thai cần phải hạn chế một
số loài thuỷ sản như cá ngừ và cá kiếm vì hàm lượng thuỷ ngân
quá cao. Bên cạnh đó, việc sử dụng các chất kháng sinh trong nuôi
tôm và cá đã dẫn đến hàm lượng các chất này trong các sản phẩm
cao, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của thuỷ sản.
10
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Hướng tới sự thuận tiện: Trong những thập kỷ gần đây, thời
gian dành cho mua sắm và chế biến món ăn đã bị rút ngắn. Vai trò
của phụ nữ trong xã hội ngày càng tăng, nhiều hộ gia đình bận rộn
với công việc. Vì vậy, nhu cầu về các sản phẩm tiêu dùng và dễ
chế biến sẵn cũng tăng lên. Với xu hướng này thì các sản phẩm
thuỷ sản dường như phù hợp hơn cả vì chúng được chế biến dễ
dàng và nhanh chóng. Một số dạng sản phẩm thích nghi với xu
hướng này như :
- Phi lê cá: nhiều người tiêu dùng muốn mua sản phẩm làm
sẵn.
- Ðóng gói theo khẩu phần ăn: tiện lợi hơn khi chia khẩu
phần.
- Ðã qua sơ chế: để giảm thời gian nấu.
- Dễ dàng chế biến và nấu: giảm thời gian nấu.
- Mùi vị trung tính: dễ dàng kết hợp với các món khác.
Về mức tiêu thụ.
Tiêu thụ thuỷ sản theo đầu người của EU-15 rất cao với 26,3
kg/người năm 2002, cao hơn 10 kg so với mức trung bình của thế
giới (16,3 kg/người) và cao hơn mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân ở
Mỹ (21,3 kg /người), Song tiêu thụ thuỷ sản của các nước trong
11
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
khối EU rất khác nhau. Các nước vùng Ðịa Trung Hải và
Xcăngđinavơ là những nước tiêu thụ thuỷ sản chính. Tây Ban Nha
và đặc biệt là Bồ Ðào Nha có mức tiêu thụ theo đầu người cao
nhất. Tây Ban Nha là nước đông dân cư và cũng là một thị trường
quan trọng đối với các sản phẩm thuỷ sản. Tiêu thụ thuỷ sản ở
Pháp đạt trên mức trung bình của EU, đứng sau Tây Ban Nha. Ðức
và Áo là hai nước xếp sau cùng về mức tiêu thụ thuỷ sản với 14,9
kg và 14,7 kg. Các nước khu vực trung tâm châu Âu có truyền
thống tiêu thụ ít thuỷ sản hơn.
Đối với yếu tố giá: khoảng 2 năm trở lại đây, một số nước
(Hà Lan, Anh và Pháp) đã trải qua thời kỳ gọi là chiến tranh về giá
giữa các nhà bán lẻ. Ðức luôn được xem là thị trường quan tâm tới
giá cả. Giá cả tăng khiến người tiêu dùng chuyển sang tiêu thụ các
sản phẩm có giá thấp hơn. Trong môi trường cạnh tranh, nhu cầu
cho các sản phẩm đơn giản và giá rẻ được thể hiện rõ nét và thành
công của các sản phẩm cá vược sông Nile, cá rô phi và cá tra, ba sa
của Việt Nam. Những loài này thường có giá rất hấp dẫn
Bên cạnh đó, người tiêu dùng EU có xu hướng tiêu dùng có
trách nhiệm với xã hội: Với tư cách là những công dân, người tiêu
dùng ở những nước châu Âu thể hiện mối quan tâm của mình về
các hoạt động liên quan đến môi trường và xã hội của các công ty
sản xuất thực phẩm. Những người này thường thúc ép chính phủ
12
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
và các công ty quan tâm đến các vấn đề này. Một số vấn đề họ
quan tâm đến nhiều nhất là:
- Sự khai thác quá mức các ngư trường, sự suy thoái trữ lượng
thuỷ sản và sự cạnh tranh giữa các hoạt động khai thác và
bảo tồn thiên nhiên.
- Các vấn đề về vệ sinh và môi trường khi nuôi như sử dụng
kháng sinh, ô nhiễm nguồn nước, sử dụng cá làm thức ăn
động vật.
- Các khía cạnh xã hội trong nuôi trồng và khai thác như vấn
đề về giới, vị thế của các nhà sản xuất thủ công.
Trên thị trường EU hình thành 3 nhóm tiêu dùng chính.
Nhóm có khả năng thanh toán cao chiếm 20% dân số nên xu
hướng tiêu dùng của nhóm này là thích những hàng hoá có chất
lượng tốt, hiếm. nhóm có khả năng thanh toán trung bình chiếm
68% dân số nên xu hướng tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng
thấp hơn. Nhóm còn lại có khả năng thanh toán thấp nên xu hướng
tiêu thụ những mặt hàng có chất lượng thấp nhất.
II. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị
trường EU
1. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị
trường EU
13
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Từ năm 1996 – 1999, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam sang EU tăng rất nhanh với tốc độ trung bình hàng năm
54,92%. Theo số liệu thống kê của EU, năm 1996 kim ngạch nhập
khẩu thuỷ sản từ Việt Nam đạt 26,9 triệu USD, năm 1997 - 65,0
triệu USD, năm 1998 tăng lên 92,5 triệu USD. Theo số liệu thống
kê của Trung tâm Tin học Bộ Thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu thủy
sản của Việt Nam sang EU năm 1999 đạt 89,1 triệu. Trong những
năm 2000 – 2002, hoạt động xuất khẩu bị chững lại và có xu
hướng giảm sút, sau khi EU tăng cường kiểm tra dư lượng các chất
kháng sinh và hạ thấp ngưỡng phát hiện dư lượng các chất này
trong sản phẩm. Nhờ những nỗ lực khắc phục của các cơ quan
quản lý, nhờ sự nỗ lực cải tiến và quản lý chất lượng, quy trình và
điều kiện sản xuất thuỷ sản của các doanh nghiệp và nông ngư dân
Việt Nam, từ năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam đã tăng trưởng nhanh chóng trở lại. Năm 2003, kim ngạch
xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU đạt 116, 7 triệu đôla, năm
2004 - 231,5 triệu đôla, năm 2005 - 367,3 triệu đôla. Hàng thủy
sản hiện là mặt hàng có kim ngạch đứng thứ tư trong số các mặt
hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Tuy nhiên, cho đến
nay, tỷ trọng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam hàng năm chỉ bằng
0,3-0,4% trị giá nhập khẩu thủy sản của toàn EU. Khối lượng thuỷ
sản xuất khẩu của Việt Nam vào EU năm 2005 mới đạt gần 120
14
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
nghìn tấn, trị giá 367,3 triệu USD, chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu
thủy sản cả nước.
Năm 2006 thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam chiếm 2,05%
nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản của EU. Thêm vào đó các doanh
nghiệp của Việt Nam đang được các nhà nhập khẩu EU đánh giá
cao về chất lượng sản phẩm.
10 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu thuỷ sản của cả nước tới
EU đạt 226,8 nghìn tấn với kim ngạch đạt 761 triệu USD, tăng
25,63% về lượng và 27% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2006,
chiếm 30,20% về lượng và 23,69% về kim ngạch xuất khẩu thuỷ
sản của Việt Nam.
Trong đó, những nhóm hàng sau là có lượng và kim ngạch
tăng so với cùng kỳ năm 2006:
Cá đông lạnh tăng 41,38% về lượng và 41,92% về kim
ngạch.
Mực đông lạnh tăng 43,49% về lượng và 70,65% về kim
ngạch.
Chả cá tăng 81,33% về lượng và 83,32% về kim ngạch.
Cá khô tăng 164,65% về lượng và 102,19% về kim ngạch.
15
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Các mặt hàng có lượng và kim ngạch giảm so với cùng kỳ
năm 2006 là:
Nghêu đông lạnh giảm 21,80% về lượng và 28,28% về kim
ngạch.
Sò đông lạnh giảm 26,66% về lượng và 29,15% về kim
ngạch.
Cồi điệp giảm 79,72% về lượng và 77,36% về kim ngạch.
Như vậy, cá đông lạnh vẫn là mặt hàng thuỷ sản của Việt
Nam được EU nhập khẩu lớn nhất. Lượng nhập khẩu đạt 166
nghìn tấn với kim ngạch đạt 477,5 triệu USD, tăng 41,4% về lượng
và 41,9% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 73,17%
về lượng và 63,49% về kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam tới EU.
Tiếp theo là tôm đông lạnh với lượng xuất khẩu đạt 17,6
nghìn tấn với trị giá đạt 133 triệu USD, giảm 2,1% về lượng và
1,24% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 7,8% về
lượng và 17,68% về kim ngạch. Mực đông lạnh chiếm 6,93% về
lượng và 7,36% về kim ngạch, nghêu đông lạnh chiếm 3,04% về
lượng và 2,03% về kim ngạch. Sau đó là bạch tuộc đông lạnh, chả
cá, cá đóng hộp… là những mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam tới EU 10 tháng qua.
16
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Khối lượng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới EU trong
năm 2007 đạt 274,7 nghìn tấn với kim ngạch đạt 912,24 triệu USD,
tăng 26,53% về lượng và 27,88% về kim ngạch so với năm 2006.
EU đang là khu vực nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất của thế giới,
năm 2006 EU (25 quốc gia) nhập khẩu khoảng 38,9 tỉ USD, tăng
10,7% so với năm 2005. Ba nhà cung cấp thuỷ sản lớn nhất của thị
trường EU hiện nay là Nauy chiếm 9,57%, Trung Quốc chiếm
3,9%, Aixơlen chiếm gần 3,9%…, Việt Nam chiếm 2,05%. Ngoài
Mỹ, Marốc, Achentina là những đối thủ cạnh tranh khá lớn của
Việt Nam tại thị trường này hiện nay.
Thời gian qua, đồng USD liên tục giảm mạnh tới mức kỷ lục
so với những đồng tiền mạnh như Euro, bảng Anh, đô la Canada,
Frăng Thuỵ Sĩ, Yên Nhật và Nhân dânt ệ. Trong khi tỉ giá của
VND so với USD lại không đổi. Do đó, xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam tới khu vực thị trường không dùng đồng USD sẽ có lợi
cho doanh nghiệp về quy đổi tỉ giá. Đặc biệt là EU, khu vực có
nhiều đồng tiền mạnh (Bảng Anh, Frăng Thuỵ Sĩ, Euro) và không
dùng đồng USD. Nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản của khu vực EU vẫn
đang trong xu hướng tăng trong thời gian tới.
Dự báo, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới EU
năm 2008 sẽ đạt trên 1 tỉ USD và tiếp tục là khu vực xuất khẩu
thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam.
17
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
2. Kết quả xuất khẩu thuỷ sản
Kể từ năm 2000 trở lại đây, xuất khẩu thuỷ sản của VN sang
EU có xu hướng tăng rất mạnh, gấp 6,5 lần về khối lượng từ mức
20.290 tấn năm 2000 lên 130.277 tấn năm 2005, tương tự tăng gấp
6 lần về giá trị xuất khẩu. Từ tháng 9/2001, VN cùng một số nhà
sản xuất tôm châu á (Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan) bắt đầu
phải đối phó với việc EU áp dụng các chính sách nghiêm ngặt về
kiểm soát dư lượng kháng sinh, nhất là chloramphenicol trong sản
phẩm thuỷ sản nhập khẩu từ các nước này vào EU. Ðó là nguyên
nhân chính dẫn đến kim ngạch xuất khẩu của VN vào khối thị
trường này đã giảm sút trong năm 2002. Từ năm 2003, nhờ sự nỗ
lực cải tiến và quản lý chất lượng, quy trình và điều kiện sản xuất
thuỷ sản của các doanh nghiệp, xuất khẩu thuỷ sản của VN sang
EU đã phục hồi và tăng trở lại, đặc biệt là thời gian gần đây. Bằng
nhiều nỗ lực, ngành thuỷ sản Việt Nam đã đạt được kết quả mong
đợi. Ðến nay, số doanh nghiệp Việt Nam được công nhận đáp ứng
các yêu cầu và tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) để
xuất khẩu sản phẩm vào thị trường này đã đạt tới 209 doanh
nghiệp.
Từ năm 2003 đến năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng bình quân
hằng năm của xuất khẩu thuỷ sản VN sang thị trường này là 61%
về khối lượng và 73% về giá trị
18
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Xuất khẩu thuỷ sản của VN sang EU, năm 2000-2006
2000
2001
2002 2003
2004
2005
11 tháng
2006
90.74573.7
20116.7392
31.527433.
085649.398
20.291 26.659 28.613 38.187 73.459 130.277 196.345
Tấn
Nguồn:
FICEN71.
782
1000
USD
Khối lượng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới EU trong
năm 2007 đạt 274,7 nghìn tấn với kim ngạch đạt 912,24 triệu USD,
tăng 26,53% về lượng và 27,88% về kim ngạch so với năm 2006.
Giá trị XK thủy sản của VN sang thị trường EU đã tăng rất mạnh
trong năm qua, chiếm khoảng 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của
ngành, qua cả thị trường Hoa Kỳ (20%) để trở thành thị trường
xuất khẩu thủy sản lớn thứ hai của VN, chỉ sau Nhật Bản (25%).
3. Đánh giá chung
19
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Trong thời gian qua nói chung xuất khẩu sản lượng thuỷ sản
của Việt Nam sang thị trường EU đã không ngừng gia tăng với tốc
độ nhanh, cả về chất và lượng.
Năm 2005 đạt 433,085 triệu USD
Năm 2006 đạt 723,504 triệu USD
Năm 2007 đạt 912,240 triệu USD
( nguồn: trung tâm tin học thuỷ sản)
Tuy kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU
tăng trưởng cao trong những năm vừa qua, nhưng hàng thủy sản
của ta chiếm thị phần rất nhỏ trên thị trường này, còn cách xa tiềm
năng xuất khẩu của Việt Nam. Nhu cầu nhập khẩu thủy sản hàng
năm của EU rất lớn, nhưng yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng và vệ
sinh thực phẩm đối với mặt hàng này lại rất cao. Một vài lô hàng
thủy sản của Việt Nam xuất khẩu vào EU vẫn chưa an toàn (nhiễm
khuẩn, nhiễm bẩn, bị phát hiện có dư lượng hoá chất, kháng
sinh,...) và chất lượng chưa được ổn định. Đã xảy ra một số trường
hợp doanh nghiệp Việt Nam làm giả chất lượng hàng thủy sản. Do
vậy, EU chỉ nhập khẩu những sản phẩm từ những doanh nghiệp
chế biến thủy sản ở Việt Nam đã được cấp chứng chỉ đủ tiêu chuẩn
chất lượng và vệ sinh. Nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản khác
của Việt Nam chưa tiếp cận được thị trường này.
20
- Xem thêm -