LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng trong
hoạt động thương mại đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của
mình trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ quan
trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tạo công ăn
việc làm cho người lao động.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa
chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền
đề vững chắc để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa nền kinh tế Việt
Nam mới có điều kiện thực hiện thành công các mục tiêu phát triển
kinh tế-xã hội và ổn định đời sống nhân dân.
Từ đặc điểm nền kinh tế là một nước nông nghiệp với dân số chủ
yếu tham gia vào hoạt động nông nghiệp, Việt Nam đã xác định nông
sản là mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu
cực kỳ cần thiết cho phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy nhà
nước đã tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích sự tham gia của các
Công ty trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản. Mặt hàng nông sản
là một trong những mặt hàng được Công ty SX-DV&XNK Nam Hà
Nội (HAPROSIMEX SAIGON) chú trọng trong cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu của mình. Qua thực tế thực tập tốt nghiệp tại Công ty
HAPROSIMEX SAIGON cho thấy Công ty đã tìm ra cho mình hướng
1
đi đúng trong hoạt động xuất khẩu, góp phần đưa nền kinh tế đất
nước phát triển. Song bên cạnh những thành công mà Công ty đã
đạt được vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc xuất khẩu mặt
hàng nông sản đặc biệt là hoạt động thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng
nông sản của công ty còn nhiều bất cập. Vì vậy tôi đã chọn đề tài "
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công
ty HAPROSIMEX SAIGON" làm đề tài để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở tổng kết những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động
xuất khẩu, phân tích và đánh giá tình hình xuất khẩu hàng nông sản
của Công ty trong giai đoạn 1998 - 2002 để đưa ra một số kiến nghị
và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng nông sản của
Công ty HAPROSIMEX SAIGON.
3. Đối tượng nghiên cứu: hoạt động kinh doanh mặt hàng nông sản
xuất khẩu của công ty HAPROSIMEX SAIGON
4. Phạm vi nghiên cứu: kết quả kinh doanh mặt hàng nông sản xuất
khẩu của công ty giai đoạn 1998-2002
5. Kết cấu của Luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về xuất khẩu và sự cần thiết
phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản của việt Nam
Chương II: Thực trạng xuất khẩu nông sản của công ty SX-DV&XNK
Nam Hà Nội (HAPROSIMEX SAIGON).
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông
sản của công ty HAPROSIMEX SAIGON.
2
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU VÀ
SỰ CẦN
THIẾT PHẢI THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA
VIỆT NAM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XUẤT KHẨU
1. Các lý thuyết về Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế ra đời từ hàng ngàn năm nay và quy mô của
nó ngày càng mở rộng trong nền kinh tế thế giới hiện đại. Các học giả
đã bỏ ra nhiều công sức vào việc lý giải nguyên nhân, những điều kiện
cần thiết cũng như lợi ích đạt được từ thương mại quốc tế. Cơ sở của
thương mại quốc tế bắt nguồn từ đâu? Trong trao đổi thương mại quốc
tế ai được lợi và khi nào được lợi? Giữa quốc gia phát triển cao với
quốc gia phát triển thấp hơn có nên trao đổi thương mại hay không?
Bằng cách nào mà thu được lợi ích trong thương mại quốc tế? Có
nhiều lý thuyết khác nhau đề cập đến những vấn đề này, ban đầu là
3
trường phái trọng thương, tiếp theo là lý thuyết tuyệt đối, lý thuyết về
lợi thế tương đối...Ở đây chỉ xin trình bày một số nội dung cơ bản của
các lý thuyết trên nhằm tạo nên những cơ sở lý luận cho những nghiên
cứu tiếp theo.
1.1. Lý thuyết của trường phái trọng thương
Lý thuyết trọng thương là nền tảng cho các tư duy kinh tế từ năm
1500 đến năm 1800. Lý thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một
quốc gia được đo bằng bằng lượng tài sản mà quốc gia đó cất giữ và
thường được tính bằng vàng. Theo lý thuyết này, Chính phủ phải là
người trực tiếp tham gia vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nước để
đạt được sự gia tăng của cải của mỗi nước. Từ đó đi tới chính sách là
phải tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu và nếu thành công họ
sẽ nhận được giá trị thặng dư mậu dịch được tính theo vàng từ các
nước khác. Những người trọng thương cho rằng thương mại quốc tế
chỉ có lợi cho một bên và gây thiệt hại cho bên kia, nói cách khác là
quốc gia nào xuất khẩu được nhiều thì có lợi, còn quốc gia nào nhập
khẩu nhiều thì bị thiệt hại. Đến giai đoạn cuối trường phái trọng
thương có điều chỉnh quan niệm của họ và cho rằng có thể tăng cường
mở rộng nhập khẩu nếu như qua đó thúc đẩy việc xuất khẩu nhiều hơn
nữa, tức là nếu cán cân thương mại vẫn nghiêng ngày càng nhiều về
phía xuất khẩu. Lý luận của trường phái trọng thương là một bước tiến
đáng kể trong tư tưởng về kinh tế học vì nó đánh giá được tầm quan
trọng của xuất khẩu và nhấn mạnh vai trò của Chính phủ trong việc
thúc đẩy xuất khẩu. Những tư tưởng này đã góp phần quan trọng vào
việc mở rộng thương mại quốc tế.
4
Nhìn chung quan điểm của trường phái trọng thương ít tình lý
luận và thường chỉ mới được nêu ra dưới hình thức những lời khuyên
thực tiễn về chính sách kinh tế, nặng tính kinh nghiệm vì dựa trên cơ
sở những quan sát đối với các hoạt động buôn bán của nước Anh và
Hà Lan vào thời gian bấy giờ. Ảnh hưởng của lý thuyết trọng thương
đã bị mờ nhạt đi sau năm 1800.
1.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Không như trường phái trọng thương, AdamSmith cho rằng: “sự
giàu có của mỗi quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn
hơn là phụ thuộc vào vàng”. Theo Adam Smith, nếu thương mại
không bị hạn chế theo nguyên tắc phân công thì các quốc gia có lợi
ích từ thương mại quốc tế - nghĩa là mỗi quốc gia có lợi thế về mặt
điều kiện tự nhiên hay do trình độ sản xuất phát triển cao sẽ sản xuất
ra những sản phẩm nhất định mà mình có lợi thế với chi phí thấp hơn
so với các nước khác. Ông phê phán sự phi lý của lý thuyết trọng
thương và chứng minh rằng: mậu dịch sẽ giúp cả hai bên đều gia tăng
tài sản. Theo ông, nếu mỗi quốc gia đều chuyên môn hoá vào những
ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, thì họ có thể sản xuất được
những sản phẩm có chi phí thấp hơn so với nước khác để xuất khẩu,
đồng thời lại nhập khẩu về những hàng hoá mà nước này không sản
xuất được hoặc sản xuất được nhưng chi phí sản xuất cao hơn giá
nhập khẩu. Nhờ sự chuyên môn hoá các nước có thể gia tăng hiệu quả
của họ do người lao động lành nghề, do công việc của họ được lặp lại
nhiều lần, người lao động không phải mất thời gian trong việc chuyển
sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác, do làm một công việc lâu
5
dài, người lao động sẽ có nhiều kinh nghiệm và có các sáng kiến, các
phương pháp làm việc tốt hơn. Mặc dù Adam Smith cho rằng, thị
trường chính là nơi quyết định nhưng ông vẫn nghĩ lợi thế của một
nước có thể là do lợi thế tự nhiên hay do nổ lực cả nước đó.
1.2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
Theo lý thuyết này, mỗi quốc gia có nhiều hiệu quả thấp hơn so
với các nước khác trong việc sản xuất các loại sản phẩm mà vẫn có thể
tham gia vào hoạt động xuất khẩu vì nó có thể tạo ra lợi ích không nhỏ
mà nếu bỏ qua quốc gia đó sẽ mất đi cơ hội để phát triển. Nói cách
khác trong điểm bất lợi vẫn có những điểm thuận lợi để khai thác khi
tham gia vào hoạt động xuất khẩu, những quốc gia có hiệu quả thấp
trong việc sản xuất ra các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá sản
xuất hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập
về những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó gặp rất nhiều khó khăn và
bất lợi. Từ đó tiết kiệm được nguồn lực của mình và thúc đẩy sản xuất
trong nước.
Cái cốt lõi của quy luật lợi thế so sánh của D.Ricardo chính là sự
khéo léo lựa chọn kiểu kết hợp giữa cái ưu thế của mình và cái ưu thế
của nước khác nhằm đạt được hiệu quả tối đa. Chính thông qua trao
đổi thương mại quốc tế khi mà có thể lựa chọn kiểu kết hợp này, khai
thác lợi thế tuyệt đối và cả lợi thế tương đối của mỗi nước. Khi xây
dựng lý thuyết lợi thế tương đối, D.Ricardo dựa trên một số giả thiết đã
được đơn giản hoá như: thế giới chỉ có 2 quốc gia, chỉ sản xuất 2 mặt
hàng, mỗi quốc gia có lợi thế về sản xuất 1 mặt hàng, lao động có thể
di chuyển tự do trong mỗi nước nhưng không di chuyển giữa 2 nước,
6
chi phí sản xuất không đổi, chi phí vận chuyển bằng 0, thương mại
hoàn toàn tự do...
Trên cơ sở nghiên cứu một số lý thuyết về thương mại quốc tế
điển hình, chúng ta có thể nhận thấy được rằng hoạt động xuất khẩu là
một trong những nội dung chính của các lý thuyết này. Hoạt động xuất
khẩu có vai trò quan trọng tác động đến sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia. Vì thế mà các quốc gia đều luôn coi hoạt động xuất khẩu là
hoạt động quan trọng có tính chiến lược của mình.
2. Khái niệm hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, là việc
buôn bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng
tiền tệ làm phương tiện thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở
đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc
gia.
Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi
điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến hàng hoá sản
xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng
hoá hữu hình cho đến hàng hoá vô hình. Tất cả các hoạt động trao đổi
này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động này còn diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về không gian và
thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một ngày hay kéo dài hàng năm,
có thể diễn ra trên phạm vi lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của
từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng
hoá mang lại lợi ích cho các quốc gia, do đó các quốc gia đều tích cực
7
tham gia mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ
bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển.
Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì
xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp thường áp
dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn
hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước
ngoài . Do vậy mà xuất khẩu được xem như chiến lược kinh doanh
quan trọng của các công ty.
Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất
khẩu trong đó có thể là:
+ Sử dụng khả năng vượt trội ( hoặc những lợi thế) của công ty.
+ Giảm được chi phí cho 1 đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng
sản xuất.
+ Nâng cao được lợi nhuận của công ty.
+ Giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch,
các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật.. hay năng lực của các tổ chức
kinh doanh quốc tế chưa đủ thực hiện các hình thức cao hơn thì hình
thức xuất khẩu được lựa chọn vì ở xuất khẩu lượng vốn ít hơn, rủi ro
thấp hơn và thu được hiệu quả kinh tế cao trong thời gian ngắn.
3. Các hình thức xuất khẩu
3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Trong hình thức này, các nhà xuất khẩu trực tiếp giao dịch và ký
kết hợp đồng bán hàng cho các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài
được nhà nước và Pháp luật cho phép. Với hình thức này không có sự
8
tham gia của bất kỳ một tổ chức trung gian nào
Hình thức xuất khẩu trực tiếp có ưu điểm là:
-Các doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách
hàng, với thị trường nước ngoài, nhờ đó biết được yêu cầu của khách
hàng và tình hình bán hàng ở đó nên có thể chủ động trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm
- Tận dụng được hết tiềm năng, lợi thế để sản xuất hàng xuất
khẩu.
- Lợi nhuận thu được không phải phân chia, giảm được chi phí
trung gian.
Nhưng trong hình thức xuất khẩu trực tiếp này đòi hỏi các doanh
nghiệp xuất khẩu phải có một số các điều kiện: có khối lượng hàng
hoá lớn, thị trường ổn định, có năng lực thực hiện xuất nhập khẩu.
3.2. Xuất khẩu uỷ thác
Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận
xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận
được một khoản thù lao theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu
(bên ủy thác). Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một
doanh nghiệp có hàng hoá muốn xuất khẩu, nhưng vì doanh ngiệp
không được phép tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu hoặc
không có điều kiện để tham gia. Theo hình thức này, quan hệ giữa
người bán và người mua được thông qua người thứ ba gọi là trung
gian (người trung gian phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới).
Ưu điểm của hình thức này là:
- Giúp cho các doanh nghiệp có thể xuất khẩu được những mặt
9
hàng mà họ có khả năng sản xuất nhưng không có điều kiện thực hiện
xuất khẩu.
- Đơn vị có hàng xuất khẩu (bên uỷ thác) không phải bỏ ra một
khoản vốn lớn để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài do đó rủi ro trong
kinh doanh là không cao.
- Những người trung gian hiểu biết thị trường, luật pháp, tập quán
địa phương nhờ đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và giảm
bớt rủi ro cho người uỷ thác
Nhược điểm của hình thức này:
- Lợi nhuận bị phân chia
- Thông tin chậm hoặc đôi khi thiếu chính xác.
- Bên uỷ thác không trực tiếp liên hệ với khách hàng và thị trường
nước ngoài nên không chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Do đó nên sử dụng các hình thức xuất khẩu uỷ thác trong các
trường hợp cần thiết như: khi thâm nhập vào thị trường mới hoặc khi
đưa ra thị trường một loại sản phẩm mới...để tránh rủi ro cao
3.3. Buôn bán đối lưu.
Đây là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt
chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, lượng
hàng hoá mang trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích của hình
thức này không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một
lượng hàng hoá có giá trị bằng giá trị lô hàng xuất khẩu. Hình thức
xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh được sự biến động của tỉ giá
hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng thời có lợi khi các bên không
có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.Có rất
10
nhiều loại hình buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ,
chuyển giao nghĩa vụ , mua lại sản phẩm
3.4. Gia công xuất khẩu (gia công quốc tế)
Là hình thức xuất khẩu, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia
công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (gọi
là bên đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia
công và qua đó thu được một khoản phí như thỏa thuận của cả hai bên.
Ưu điểm của hình thức này là giúp bên nhận gia công tạo công
ăn việc làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên
tiến để phát triển sản xuất. Đây là hình thức được áp dụng phổ biến ở
các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào, có tài nguyên
thiên nhiên phong phú. Đối với nước đặt gia công cũng được hưởng
lợi vì họ tận dụng được nguồn nhân công rất lớn với giá rẻ, tận dụng
được nguồn nguyên vật liệu sẵn có của bên nước nhận gia công.
3.5. Xuất khẩu theo nghị định thư:
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà nhà
nước giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hóa
nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được
ký giữa hai chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm
được các khoản chi phi trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn
hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức này thường không có rủi ro trong
thanh toán.
3.6. Xuất khẩu tại chỗ
Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua
biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. Ở hình
11
thức này doanh nghiệp không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm
phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại tìm đến với
doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp tránh được những thủ tục rắc rối
của hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, không phải
mua bảo hiểm hàng hóa. Hình thức này thường được áp dụng với
nước có thế mạnh về du lịch, có nhiều tổ chức nước ngoài đóng tại
quốc gia đó.
4. Nội dung chính của hoạt động xuất khẩu hàng hoá: bao gồm các bước
Bước 1
NGHIÊN CỨU THỊ
TRƯỜNG
Bước 2
LẬP KẾ HOẠCH
XUẤT KHẨU
Bước 3
ĐÀM PHÁN VÀ KÝ
KẾT
HỢP ĐỒNG XUẤT
KHẨU
Bước 4
THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
XUẤT KHẨU
12
Bước 5
THANH LÝ HỢP ĐỒNG
XUẤT KHẨU
Hình 1 : Các bước thực hiện xuất khẩu hàng hoá
4.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường:
4.1.1. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu (bán gì?)
Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên, các
doanh nghiệp có ý định gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế thì
trước tiên phải xác định được mặt hàng mà mình sẽ đưa ra. Mục đích
của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để lựa chọn được những mặt
hàng kinh doanh phù hợp năng lực và khả năng của doanh nghiệp
đồng thời đáp ứng được nhu cầu thị trường, từ đó mới mang lại hiệu
quả cao trong kinh doanh.
Mặt hàng được lựa chọn ngoài yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn phù
hợp với thị trường quốc tế còn phải phù hợp với khả năng cung ứng
của doanh nghiệp. Chính điều này đòi hỏi phải có sự phân tích, đánh
giá kỹ khả năng nội tại của doanh nghiệp cũng như dự đoán được
thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp khi đưa mặt hàng này vào thị
trường quốc tế. Khi lựa chọn mặt hàng xuất khẩu các nhà kinh doanh
phải chú ý nghiên cứu những vấn đề sau:
Mặt hàng thị trường đang cần là gì ? Để trả lời câu hỏi này đòi hỏi
các nhà doanh nghiệp phải nhạy bén, biết sử dụng, thu thập, phân
13
tích thông tin về thị trường xuất khẩu, vận dụng được các quan hệ
bán hàng để từ đó có được thông tin cần thiết về mặt hàng, chủng
loại, quy cách, mẫu, mã...
Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào? Việc tiêu dùng các
mặt hàng thường tuân theo một tập quán tiêu dùng nhất định, phụ
thuộc vào thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động
của quan hệ cung cầu của mặt hàng đó.
Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Chu kỳ sống
của mỗi sản phẩm bao gồn bốn giai đoạn: triển khai, tăng trưởng,
bão hoà, suy thoái. Do vậy, nhà xuất khẩu đang ở giai đoạn nào của
chu kỳ sống để từ đó có biện pháp thích hợp nhằm tăng doanh thu.
4.1.2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu (bán ở đâu)
Việc lựa chọn thị trường để xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với
việc nghiên cứu thị trường trong nước, bởi ngoài việc nghiên cứu về
quy luật vận động của thị trường... còn phải nghiên cứu một số vấn đề
khác như: điều kiện tiền tệ, tín dụng điều kiện vận tải (của thị trường
nước ngoài mà mình hướng tới)...Việc lựa chọn thị trường phải chú ý
một số vấn đề sau:
Thị trường và dung lượng thị trường: nhà xuất khẩu phải tìm hiểu
và nắm được các thông tin về các nhân tố làm thay đổi thị trường và
dung lượng thị trường như:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao dịch
trên phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định. Dung
lượng thị trường thường biến động do chịu ảnh hưởng của ba nhóm
nhân tố sau:
14
-Nhóm nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu
kỳ: Đó là sự vận động của tình hình kinh tế các nước xuất khẩu, tính
thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Việc nghiên
cứu ảnh hưởng này có ý nghĩa quan trọng quyết định việc định thời
gian, địa điểm và đối tác giao dịch.
-Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường,
các nhân tố thuộc nhóm này rất nhiều, chúng ảnh hưởng đến dung
lượng thị trường rất dài. VD: tiến bộ khoa học cong nghệ, chế độ
chính sách của nhà nước, thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng
-Nhóm các nhân tố ảnh hưởng có tính tạm thời tới dung lượng thị
trường bao gồm sự đầu cơ trên thị trường gây đột biến về cung cầu và
sự biến động của các chính sách chính trị-xã hội và các yếu tố biến
động của thiên nhiên.
Vấn đề biến động giá cả trên thị trường.
Việc phân tích và xác định xu hướng biến động giá cả trên thị
trường quốc tế là cơ sở để giúp các nhà sản xuất xác định được mức
giá tối ưu cho mặt hàng xuất khẩu. Do đó, người xuất khẩu phải nắm
vững và có đầy đủ thông tin về sự biến động giá cả của hàng hoá trên
thị trường quốc tế cũng như giá nguồn hàng cung cấp trong nước để
có biến pháp thích hợp tăng hiệu qủa trong việc xuất khẩu hàng hoá.
Trong kinh doanh quốc tế, việc xác định giá cả của hàng hoá càng
trở nên phức tạp, do hàng hoá vận chuyển trong thời gian dài và qua các
nước, các khu vực khác nhau với những điều kiện khác nhau (thuế quan,
chi phí vận chuyển...). Để thích ứng với sự biến động của giá cả thị
trường, các nhà kinh doanh phải luôn linh hoạt trong việc định giá cho
15
hàng hoá. Thông thường các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thường
định giá bán hàng hoá dựa trên ba căn cứ vào:
-Căn cứ vào giá thành và các chi phí khác (chi phí vận chuyển,
mua bảo hiểm, chi phí bao bì, đóng gói...)
- Căn cứ vào sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng.
-Căn cứ vào giá cả hàng hoá cạnh tranh.
4.1.3. Lựa chọn đối tác kinh doanh (bán cho ai?)
Trong hoạt động xuất khẩu, để có thể thâm nhập vào thị trường
nước ngoài một cách thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro,
doanh nghiệp phải thông qua một hay nhiều công ty đang hoạt động
trên thị trường đó, họ có kinh nghiệm thị trường mình cần hướng tới
cũng như địa vị pháp lý để đảm bảo cho hai bên hoạt động một cách
thuận lợi.
Nhưng khi lựa chọn đối tác cần phải chú ý tới:
- Quan điểm kinh doanh của đối tác
- Lĩnh vực kinh doanh của đối tác
- Khả năng về tài chính.
- Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh.
- Những người đại diện cho Công ty kinh doanh và phạm vi trách
nhiệm của họ đối với Công ty nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện
của Công ty.
Khi lựa chọn đối tác giao dịch, phương án tối ưu là trực tiếp giao
dịch, ký kết hợp đồng với bạn hàng kinh doanh hạn chế những hoạt
động trung gian. Nên ưu tiên những bạn hàng đã có quan hệ làm ăn
quen thuộc. Trong một số trường hợp có thể sử dụng các trung gian
16
nếu xét thấy cần thiết và có hiệu quả đó là khi chúng ta thâm nhập vào
thị trường mới.
Việc lựa chọn đối tác sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc
để dẫn đến thành công trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
4.2. Xây dựng kế hoạch xuất khẩu
Dựa vào kết quả thu được từ việc nghiên cứu thị trường, các đơn
vị kinh doanh xuất khẩu cần xây dựng một kế hoạch kinh doanh cụ
thể. Đây là bước chuẩn bị trên giấy tờ, dự đoán về diễn biến của quá
trình xuất khẩu hàng hoá cũng như mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện
quá trình này. Kế hoạch kinh doanh là phương án hoạt động cụ thể của
doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu xác định trong kinh doanh.
Nội dung của công việc xây dựng kế hoạch kinh doanh gồm:
Đánh giá tổng quát về thị trường và đối tác buôn bán, dựa trên
những kết quả phân tích về thị trường và đối tác để từ đó rút ra các
mặt thuận lợi và những khó khăn của Công ty khi tham gia vào quan
hệ buôn bán này.
Lựa chọn mặt hàng, thời gian, địa điểm và điều kiện cũng như
phương thức kinh doanh. Bước này đòi hỏi phải chi tiết cụ thể dựa
trên phân tích các thông tin có liên quan.
Đề ra các mục tiêu cụ thể khi tiến hành kinh doanh các mục tiêu
này có thể là mục tiêu về doanh số, lợi nhuận, mục tiêu về uy tín...
Đây là bước thực hiện cần thiết bởi vì phải xác định rõ mục tiêu thì từ
đó mới có cơ sở để xây dựng các biện pháp cụ thể để đạt mục tiêu đã
đề ra.
Xây dựng các biện pháp, cách thức thực hiện để đạt mục tiêu đề ra.
17
Đó là các biện pháp trong nước (đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì,
chất lượng sản phẩm, tăng giá thu mua...), các biện pháp ở ngoài nước
(quảng cáo, tăng cường quan hệ bạn hàng, lập chi nhánh ở nước
ngoài...) trên cơ sở phân tích khả năng tài chính của doanh nghiệp
Một kế hoạch kinh doanh có khoa học dựa trên cơ sở phân tích
chuẩn xác và đúng dắn về thị trường, bạn hàng cũng như về nội lực
của Công ty mình sẽ góp phần vào thành công trong kinh doanh.
4.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu
Đàm phán và kí kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu
quan trọng của hoạt động xuất khẩu. Nó quyết định đến khả năng, đều
kiện thực hiện những công đoạn mà doanh nghiệp thực hiện trước đó,
đồng thời cũng quyết định đến tính khả thi hay không khả thi của các
kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp.
Việc đàm phán phải căn cứ vào nhu cầu thị trường, vào đối thủ
cạnh tranh, khả năng, điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp cũng như
mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác. Nếu đàm phán diễn ra tốt
đẹp thì kết quả của nó là hợp đồng sẽ được kí kết. Một cam kết trong
hợp đồng sẽ là những pháp lý quan trọng, vững chắc và đáng tin cậy để
các bên thực hiện đúng lời cam kết của mình.
Đàm phán có thể được thực hiện thông qua thư tín, qua điện thoại
hay gặp gỡ trực tiếp và được tiến hành qua các bước sau: chào hàng,
hoàn giá, xác nhận và chấp nhận
Khi ký kết hợp đồng cần lưu ý các điểm sau:
- Văn bản hợp đồng thường do một bên soạn thảo, bên kia cần
xem xét kỹ lưỡng và cho ý kiến, nên dùng ngôn ngữ mà hai bên cùng
18
thông thạo.
- Người ký hợp đồng phải có đủ thẩm quyền và phải chịu trách
nhiệm về nội dung đã ký.
- Hợp đồng cần phải được trình bày rõ ràng, nội dung phải phản ánh
đúng sự thoả thuận, không để tình trạng mập mờ suy luận nhiều cách
khác nhau.
- Các điều khoản trong hợp đồng phải tuân thủ đúng pháp luật
quốc tế, cũng như pháp luật của các bên tham gia ký kết.
4.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi đã ký kết hợp đồng, người xuất khẩu sẽ tổ chức thực hiện
hợp đồng mình đã ký kết. Căn cứ vào nội dung hợp đồng, doanh nghiệp
tiến hành sắp xếp các công việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến
độ thực hiện hợp đồng
Xin giấy
phép XK
Giải quyết
tranh chấp
Chuẩn bị
hàng XK
Thanh toán
hợp đồng
Kiểm tra
chất lượng
hàng XK
Giao hàng
Làm thủ
tục hải quan
Thuê tầu
Mua bảo
hiểm
Hình 2 : Các bước tiến hành việc thực hiện hợp đồng xuất
khẩu
4.4.1. Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá
Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành
các khâu khác trong quá trình xuất khẩu hàng hoá với xu hướng mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, Nhà nước tạo diều kiện thuận lợi cho
các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
19
4.4..2. Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Bước nay bao gồm các khâu nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng, lựa
chọn khu vực đặt hàng, địa điểm tập kết giao hàng, phương thức mua
bán nhằm có được hàng đúng chất lượng, đúng thời gian và thuận tiện
cho vấn đề tài chính, huy động vốn. Việc thu gom hàng được tập trung
thành lô hàng xuất khẩu thông qua việc mua đứt bán đoạn , gia công,
hàng đổi hàng, đại lý thu mua, hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu. Công tác
thu mua là một công đoạn quan trọng, do đó cần xây dựng công tác
thu mua hợp lý thông qua các đại lý các chi nhánh của mình. Như vậy
sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm dược chi phí thu mua, nâng cao năng
suất và hiệu quả thu mua.
Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu có một ý nghĩa quan trọng bởi nó
đảm bảo được phẩm chất hàng hoá khi vận chuyển, tạo điều kiện nhận
biết và phân loại hàng hoá, đông thời gây ấn tượng có thể làm người
mua thích thú. Trong kinh doanh quốc tế người ta dùng nhiều loại bao
bì khác nhau, thông thường được phân loại theo dụng cụ của nó như:
hòm, bao, kiện, ...
Kẻ kí mã hiệu hàng hoá xuất khẩu: kí mã hiệu là những kí hiệu
bằng chữ, bằng số hoặc bằng vẽ hình được ghi trên bao bì nhằm thông
báo những thông tin cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ, bảo quản.
Kí mã hiệu cần phải sáng sủa, rõ ràng, dễ đọc, không phai mờ, không
ảnh hưởng tới phẩm chất của hàng hoá.
4.4.3. Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu
Đây là công việc cần thiết, nhằm bảo đảm quyền lợi của nhà
nhập khẩu, ngăn chặn kịp thời các hậu quả xấu, phân định trách nhiệm
20
- Xem thêm -