LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện đường lối của Đảng, đặc biệt là chủ trương chuyển
dịch cơ cấu hướng về xuất khẩu, trong những năm qua, một số
doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào sản xuất hàng hoá
xuất khẩu và đã gặt hái được nhiều thành công. Thực tế cho thấy
kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng cả về quy mô và tốc độ. Cơ
cấu hàng hoá xuất khẩu nước ta ngày càng chuyển biến theo chiều
hướng đa dạng hơn, trong đó, cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu
cũng có hướng đi tương tự.
Từ đặc điểm có nền kinh tế là một nước nông nghiệp với dân
số chủ yếu tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, Việt
nam đã xác định nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu
quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu rất cần thiết cho sự phát
triển đất nước. Xuất phát từ định hướng đó của Nhà nước, Công ty
XNK và Đầu tư Hà Nội đã chú trọng mặt hàng này trong cơ cấu
xuất khẩu của mình. Trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản, công ty đã
gặt hái được nhiều thành công, song bên cạnh những thành công đó
vẫn còn những hạn chế nhất định. Vì vậy, đề tài: “Một số giải pháp
nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty XNK
và Đầu tư Hà Nội (Unimex- Hà Nội)” đã được chọn để nghiên cứu
trong chuyên đề.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm ra vai trò của
xuất khẩu đối với sự phát triển của quốc gia nói chung và sự phát
triển của Unimex Hà Nội nói riêng, đồng thời đánh giá về thực
trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty XNK và Đầu
Tư Hà Nội. Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu tại công ty.
Nội dung của chuyên đề gồm có:
Chương I: Lí luận chung về xuất khẩu của doanh nghiệp và sự
cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản hàng hoá.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu nông sản của công ty XNK
và Đầu Tư Hà Nội.
Chương III: Những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu nông sản ở Công ty XNK và Đầu Tư Hà Nội.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN HÀNG HOÁ
I. KHÁI NIỆM VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Khái niệm
Xuất khẩu là việc buôn bán hàng hoá và dịch vụ cho người
nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán với
nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một
hay hai chủ thể trong quan hệ này.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế
của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu
hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế.
Thực chất xuất khẩu không chỉ là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả
một hệ thống quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức nhằm
đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Do
vậy bên cạnh những lợi ích kinh tế mang lại khá cao thì hoạt động
xuất khẩu cũng dễ đưa đến những hậu quả khó lường vì nó phải đối
đầu với toàn bộ hệ thống kinh tế của các nước cùng tham gia xuất
khẩu. Đây là một hoạt động nằm trong sự kiểm soát của các quốc
gia cùng xuất khẩu một mặt hàng, do vậy khả năng khống chế của
mỗi quốc gia riêng biệt là vô cùng khó khăn.
Nói theo một cách khác, xuất khẩu chính là việc bán sản phẩm
hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, tăng
tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, đồng thời phát triển sản xuất kinh
doanh và nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động xuất khẩu phức
tạp hơn nhiều so với việc mua bán một sản phẩm nào đó trong thị
trường nội địa, bởi vì hoạt động xuất khẩu diễn ra trên một thị
trường vô cùng rộng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh. Do
vậy, các quốc gia khi tham gia vào hoạt động giao dịch buôn bán
quốc tế đều phải tuân theo các thông lệ quốc tế hiện hành.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại
thương, đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động
này diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện từ sản xuất hàng
tiêu dùng cho đến máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất và cả công
nghệ kỹ thuật cao. Dù ở lĩnh vực nào thì hoạt động xuất khẩu cũng
đều nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng, cả về
không gian và thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian rất
ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm. Nó có thể được tiến hành
trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác
nhau.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
a. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với một quốc gia.
* Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu nhập
khẩu.
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phụ thuộc vào 4 nhân
tố đó là: vốn, công nghệ, nhân lực và tài nguyên. Song không phải
quốc gia nào cũng có đầy đủ cả 4 yếu tố này, đặc biệt là đối với các
quốc gia đang phát triển và chậm phát triển.
Hiện nay hầu hết các quốc gia đang phát triển và chậm phát
triển đều thiếu vốn nên họ không có cơ hội để nhập khẩu công nghệ
hiện đại và không thể đầu tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực, do
đó trình độ sản xuất của họ rất thấp. Ngược lại, trình độ sản xuất
yếu kém, đến lượt nó, lại là nguyên nhân làm cho quốc gia này thiếu
vốn. Vì vậy, đây chính là một vòng luẩn quẩn của các quốc gia đang
phát triển và chậm phát triển. Để thoát khỏi vòng luẩn này buộc các
quốc gia này phải có vốn để nhập khẩu công nghệ tiên tiến mà trong
nước chưa sản xuất được và nâng cao trình độ nguồn nhân lực, qua
đó nâng cao khả năng sản xuất. Nhưng một câu hỏi được đặt ra với
các quốc gia là : Làm thế nào để có một lượng ngoại tệ cần thiết đáp
ứng cho nhu cầu này?
Thực tiễn cho thấy, để có đủ một lượng ngoại tệ đáp ứng cho
nhu cầu này, các quốc gia có thể sử dụng các nguồn huy động vốn
chính sau:
- Nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ.
- Nguồn đầu tư nước ngoài.
- Nguồn vay nợ, viện trợ.
- Nguồn từ các dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ ngân hàng, du
lịch.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát triển chậm lại
như hiện nay thì các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển sẽ
gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động được nguồn vốn từ các
hoạt động đầu tư, vay nợ, viện trợ và các dịch vụ thu ngoại tệ. Thêm
vào đấy, với các nguồn vốn này các quốc gia phải chịu những thiệt
thòi và những ràng buộc về chính trị nhất định. Vì vậy, nguồn vốn
quan trọng nhất mà các quốc gia này có thể trông chờ là nguồn thu
từ hoạt động xuất khẩu.
* Hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của các quốc gia.
Để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì các quốc gia thường
phải lựa chọn các mặt hàng sản xuất ở quốc gia đó có lợi thế hơn so
với sản xuất tại các quốc gia khác. Đây chính là những mặt hàng có
sử dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, lao động rẻ, ứng dụng nền sản
xuất trong nước. Chính vì vậy mà hoạt động xuất khẩu phát huy
được lợi thế của quốc gia.
Ta có thể chứng minh điều này ở ví dụ sau:
Giả sử có sự khác biệt năng suất lao động trong sản xuất lúa
mỳ (w) và vải (c) giữa Anh và Mỹ như sau:
Bảng 1: Lợi thế kinh tế đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia
Sản phẩm
Mỹ
Anh
Lúa mì (giạ/người/giờ)
6
1
Vải (mét/người/giờ)
4
5
Mỹ và Anh cùng có 2 giờ lao động, nếu không chuyên môn
hoá thì Mỹ sản xuất được 6w và 4c, Anh sản xuất được 1w và 5c.
Trong khi đó nếu Mỹ tập trung vào sản xuất lúa mì và Anh sản xuất
vải thì Mỹ sẽ có 12w, Anh sẽ có 10c, giả sử lượng trao đổi là 5w =
5c thì Mỹ sẽ được 7w và 5c, còn Anh sẽ được 5w và 5c. Như vậy cả
2 nước đều có thể tăng lượng hàng hóa cho tiêu dùng.
Nhưng các nước chỉ có thể thu được lợi ích nếu tiến hành hoạt
động thương mại quốc tế, tức hoạt động xuất nhập khẩu. Vì thế, có
thể kết luận là hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tạo cơ hội cho các nước
phát huy lợi thế của mình.
* Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Thông thường các nhà xuất khẩu sẽ tập trung vào xuất khẩu
những mặt hàng có lợi thế của đất nước. Khi lợi nhuận thu được từ
xuất khẩu mặt hàng ấy càng lớn thì số người tập trung vào sản xuất
mặt hàng ấy ngày càng nhiều. Do vậy cơ cấu sản xuất trong nước sẽ
thay đổi. Sự thay đổi này không chỉ diễn ra trong ngành mà còn diễn
ra ở cả những ngành phụ trợ cho ngành hàng xuất khẩu. Ví dụ, khi
hoạt động xuất khẩu hàng nông sản phát triển thì nó kéo theo sự
phát triển của ngành sản xuất phân bón, ngành vận tải, ngành công
nghiệp thực phẩm phát triển kéo theo ngành trồng trọt chăn nuôi
phát triển; ngành dệt may phát triển kéo theo ngành trồng bông đay
cũng phát triển.
* Hoạt động xuất khẩu giải quyết được công ăn việc làm, tạo
nguồn thu nhập, nâng cao mức sống và trình độ của người lao động.
Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động mang lại
nguồn lợi nhuận lớn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. chính
vì vậy số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và xuất
khẩu hàng hoá không ngừng tăng. hàng năm ngành xuất khẩu giải
quyết việc làm cho một số lượng lớn lao động. Thêm vào đó, do có
điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức quản lý mới,
khoa học công nghệ hiện đại nên trình độ của người lao động cũng
được cải thiện để đáp ứng với yêu cầu chung của thị trường quốc tế.
* Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của quốc gia trên
trường quốc tế
Để đánh giá uy tín của một quốc gia người ta thường dựa vào
4 tiêu chí là: GDP, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán.
Hoạt động xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm cần
bằng cán cân thanh toán, do vậy là một trong bốn tiêu chí để đánh
giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Cao hơn nữa hoạt động
xuất khẩu làm tăng tích luỹ ngoại tệ của một quốc gia và có thể biến
quốc gia trở thành quốc gia xuất siêu và tạo sự đảm bảo trong thanh
toán cho đối tác, tăng được uy tín trong kinh doanh. Qua hoạt động
xuất khẩu, hàng hoá của quốc gia được bày bán trên thị trường thế
giới, khuyếch trương tiếng vang và sự hiểu biết từ nước ngoài.
Ngoài ra hoạt động xuất khẩu còn làm tiền đề cho các hoạt động
kinh tế đối ngoại khác như: dịch vụ, ngân hàng, đầu tư, hợp tác liên
doanh… và làm cho quan hệ giữa các quốc gia trở nên chặt chẽ hơn.
b. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp.
* Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tham
gia vào cuộc cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã hàng hoá trên
thị trường thế giới. Chính yếu tố này buộc doanh nghiệp phải năng
động, sáng tạo hơn, phải không ngừng nâng cao trình độ quản trị
kinh doanh, tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị… để tự hoàn
thiện mình.
* Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở
rộng quan hệ buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài từ đó người lao
động trong doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực chuyên môn của
mình, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm quản lý của đối tác.
* Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh
nghiệp để mở rộng và nâng cao trình độ sản xuất đồng thời tạo việc
làm và thu nhập ổn định cho người lao động trong doanh nghiệp.
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
a. Xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu các hàng hoá hoặc
dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản
xuất trong nước tới các khách hàng nước ngoài thông qua các tổ
chức của mình. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là : các doanh
nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng, với thị
trường nước ngoài, biết được yêu cầu của khách hàng và tình hình
bán hàng ở đó nên có thể chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Ngoài ra hình thức xuất khẩu này làm tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp do giảm chi phí trung gian.
b. Xuất khẩu uỷ thác.
Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (Bên nhận uỷ thác)
nhận xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và
nhận được một khoản thù lao theo thoả thuận với đơn vị có hàng
xuất khẩu (Bên uỷ thác). Ưu điểm của hình thức này là: Đơn vị có
hàng xuất khẩu không phải bỏ ra một khoản vốn lớn để đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài, do đó sẽ không gặp nhiều rủi ro trong kinh
doanh. Tuy nhiên họ lại không trực tiếp liên hệ với khách hàng và
thị trường nước ngoài nên không chủ động trong sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm. Ngoài ra họ thường phải đáp ứng những yêu sách của
bên nhận uỷ thác.
c. Buôn bán đối lưu.
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, bên bán hàng đồng thời là bên mua hàng và lượng
hàng hoá mang trao đổi thường có giá trị tương đương nhau. Mục
đích của hoạt động buôn bán đối lưu không nhằm thu về một khoản
ngoại tệ mà là nhằm mục đích có được một lô hàng có giá trị tương
đương với lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp cho
doanh nghiệp tránh được sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị
trường ngoại hối đồng thời có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ
để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
d. Xuất khẩu theo nghị định thư.
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà
Nhà nước giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại
hàng hoá nhất định cho Chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định
thư đã được ký kết giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép
doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên
cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức
này thường không có rủi ro trong thanh toán.
e. Xuất khẩu tại chỗ.
Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt
qua biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. ở
hình thức này, doanh nghiệp không cần phải đích thân ra nước
ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại tìm
đến với doanh nghiệp, do vậy doanh nghiệp tránh được những thủ
tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển,
không phải mua bảo hiểm hàng hoá. Hình thức này thường được áp
dụng đối với quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ chức
nước ngòai đóng tại quốc gia đó.
f. Gia công quốc tế.
Là hình thức xuất khẩu trong đó có một bên nhập nguyên liệu
hoặc bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên khác (bên đặt gia
công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua
đó thu được một khoản lệ phí như thoả thuận của cả 2 bên. Trong
hình thức này, bên nhận gia công thường là các quốc gia đang phát
triển, có lực lượng lao động dồi dào, có tài nguyên thiên nhiên
phong phú. Họ sẽ có lợi vì tạo thêm công ăn việc làm cho người lao
động, có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc để nâng cao năng
suất sản xuất. Còn đối với nước đặt gia công thì khai thác được giá
nhân công rẻ và nguyên phụ liệu khác từ nước nhận gia công.
g. Tái xuất khẩu.
Với hình thức này, một nước sẽ xuất khẩu những hàng hoá đã
nhập từ một nước khác sang nước thứ 3. Ưu điểm của hình thức này
là doanh nghiệp có thẻ thu được một khoản lợi nhuận cao mà không
phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng, khả năng
thu hồi vốn cao. Hình thức này được áp dụng khi có sự khó khăn
trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.
II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG
HOÁ.
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá cho nước ngoài nhằm phát
triển sản xuất kinh doanh , tăng lợi nhuận và cải thiện đời sống. Tuy
nhiên để thực hiện thành công hoạt động xuất khẩu không phải là
một việc dễ vì nó vô cùng phức tạp. Chính vì vậy hoạt động xuất
khẩu phải được tổ chức theo từng nghiệp vụ cụ thể. Mỗi nghiệp vụ
phải được nghiên cứu trong mối quan hệ lẫn nhau nhằm tranh thủ
nắm bắt những lợi thế và đảm bảo hiệu quả nhất.
Sau đây là một số nội dung chủ yếu của hoạt động xuất khẩu:
1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường.
a. Nghiên cứu thị trường hàng hoá.
Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để
tìm hiểu triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể, kể cả
phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị
trường là quá trình thu thập thông tin số liệu về thị trường , so sánh
phân tích những số liệu đó và đưa ra kết luận.Những kết luận này sẽ
giúp cho nhà quản lý đưa ra kết luận đúng đắn để lập kế hoạch
marketing. Công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu
trong việc thực hiện phương châm hành động :” chỉ bán cái thị
trường cần chứ không bán cái có sẵn”. Hay có thể nói xác định đúng
đắn nhu cầu khách hàng.
Xuất phát từ hai loại thông tin về thị trường kinh doanh hàng
hoá mà chúng ta cần nắm được là thông tin sơ cấp và thông tin thứ
cấp. Cần áp dụng hai phương pháp nghiên cứu thị trường cơ bản là:
Nghiên cứu tại hiện trường và nghiên cứu tại bàn.
Nghiên cứu tại hiện trường là cách thu thập thông tin thị
trường trực tiếp từ khách hàng thông qua các cuộc phỏng vấn điều
tra.
Nghiên cứu tại bàn là cách thu thập thông tin thị trường thông
qua phương tiện thông tin đại chúng, các xuất bản phẩm hoặc các cơ
quan có liên quan.
Khi nghiên cứu thị trường cần phải phân tích kĩ tình hình cung
cầu trên thị trường các nhân tố khác của thị trường như các yếu tố
về quan hệ chính trị giữa hai nước, về thể chế tài chính về văn hoá
các nước đó.
b. Dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch
trên phạm vi thị trường nhất định trong một khoảng thời gian nhất
định . Dung lượng thị trường biến động chủ yếu là do ảnh hưởng
của ba nhóm nhân tố sau:
* Nhóm nhân tố làm dung lượng thị trưòng thay đổi có tính
chu kì: gồm có : sự vận động tình hình kinh tế của các nước xuất
khẩu, tính thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá.
Do đặc điểm của sản xuất lưu thông và tiêu dùng là khác nhau nên
ảnh hưởng của nhân tố thời vụ đến thị trường hàng hoá cũng rất đa
dạng về phạm vi và mức độ
* Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài tới đến dung lượng thị
trường như : tiến bộ khoa học công nghệ, chế độ chính sách của nhà
nước, thị hiếu và tập quán người tiêu dùng .
* Nhóm các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị
trường: sự đầu cơ trên thị trường làm đột biến tình hình cùng, cầu,
sự biến động của thiên nhiên …
c.Giá cả hàng hoá trên thị trường
Nghiên cứu thị trường còn phải nghiên cứu giá cả của hàng
hoá, xác định và dự đoán khuynh hướng biến động của giá cả thị
trường thế giới.
Giá cả quốc tế là gía mua bán hàng trên thị trường không kèm
theo điều kiện. Xác định đúng đắn giá cả hàng hoá có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với kinh doanh xuất khẩu . Trong kinh doanh
quốc tế việc xác định giá cả hàng hoá là vô cùng phức tạp do việc
buôn bán diễn ra trong một thời gian dài , hàng hoá vận chuyển qua
nhiều nước khác nhau với các chính sách thuế khắc nhau. Khi
nghiên cứu giá cả, đối với những hàng hoá không có trung tâm buôn
bán lớn thì có thể căn cứ vào gía cả của nước xuất khẩu, hoặc nước
nhập khẩu biểu hiện bằng đồng tiền có khả năng chuyển đổi cao.
Đối với những hàng hoá thuộc đối tượng buôn bán của sở giao dịch
hoặc trung tâm bán đấu giá thì có thể tham khảo ở các trung tâm
giao dịch đó.
2.Lựa chọn đối tác giao dịch
Khi đã lựa chọn được thị trường, mặt hàng kinh doanh , doanh
nghiệp cần lựa chọn bạn hàng để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh
của mình. Khi nghiên cứu bạn hàng không nên chỉ dựa vào sự
quảng cáo hay sự tự giác giới thiệu của họ mà phải tiến hành điều
tra theo nhiều phương pháp khác nhau , đặc biệt phải biết được mục
đích của khách hàng đó , khả năng tài chính sản phẩm , và chất
lượng cũng như quan điểm của họ về chữ “tín” trong kinh doanh với
bạn hàng.
Trong việc lựa chọn đối tượng giao dịch tốt nhất là nên lựa
chọn đối tác trực tiếp , tránh đối tượng trung gian, trừ trường hợp
doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường mới mà minh chưa có
kinh nghiệm .
Việc lựa chọn bạn hàng có căn cứ khoa học là điều kiện cần
thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng kinh doanh song nó cũng
phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người giao dịch.
3. Lập kế hoạch kinh doanh .
Trên cơ sở kết quả thu gom được trong qúa trình nghiên cứu
tiếp cận thị trường , đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh
cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm
đạt tới mục tiêu đã định trong kinh doanh.Việc xây dựng phương án
bao gồm:
* Đánh giá tình hình thị trường, dựa trên sự đánh giá đó doanh
nghiệp sẽ phác hoạ nên bức tranh tổng quát về hoạt động kinh
doanh , những thuận lợi và khó khăn.
* Lựa chọn mặt hàng thời cơ, điều kiện và phương thức kinh
doanh, sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích
tình hình có liên quan.
* Đề ra mục thiêu cụ thể : Sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá
bán bao nhiêu , thâm nhập thị trường nào.
* Đề ra những biện pháp, cách thực hiện để đạt được những
mục tiêu đó. Đó có thể là những biện pháp trong nước và những
biện pháp ngoài nước .
Một kế hoạch kinh doanh có khoa học dựa trên sự phân tích
chuẩn xác và đúng đắn về thị trường , bạn hàng cũng như nội lực
của doanh nghiệp sẽ quyết định nhiều đến thành công trong kinh
doanh cuả doanh nghiệp.
4. Kí kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu
a. Kí kết hợp đồng xuất khẩu .
Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu , tìm
hiểu đối tác và đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên quan
thì doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác sẽ thực hiện bước
tiếp theo là kí kết hợp đồng. Khi kí kết hợp đồng doanh nghiệp cần
căn cứ vào :
* Các định hướng kế hoạch của nhà nước , các chính sách, chế
độ và các chuẩn mực kinh tế hiện hành.
* Khả năng phát triển của định mức kinh doanh, chức năng
hợp đồng kinh tế các bên .
b. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi kí hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tổ
chức thực hiện hợp đồng minh kí. Căn cứ vào nội dung hợp đồng ,
doanh nghiệp tiến hành các công việc phải làm, ghi thành bảng theo
dõi tiến độ thực hiện hợp đồng.
Các bước tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu sẽ được thể
hiện ở hình sau:
Hình 1: Các bước tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu .
Chuẩn
bị hàng
hoá
Giải
quyết
khiếu
nại
Xin giấy phép
xuất khẩu
Hoàn
thành bộ
CTTT
Mua
bảo
hiểm
Thuê
tàu
Kiểm
nghiệm hàng
hoá
Giao
hàng
lên tàu
Làm thủ
tục
hải quan
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU.
Bất kỳ một hoạt động thương mại nào cũng chịu ảnh hưởng
sâu sắc của môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể
tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp, song cũng có thể tạo ra những khó khăn, kìm hãm sự phát
triển của hoạt động này.
Đối với hoạt động xuất khẩu – một trong những hoạt động
quan trọng của thương mại thì ảnh hưởng của môi trường kinh
doanh đến hoạt động này càng trở nên mạnh mẽ bởi trong thương
mại quốc tế, các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh rất phong phú
và phức tạp. Ta có thể phân chia các nhân tố thuộc môi trường kinh
doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thành
các nhóm sau:
- Xem thêm -