Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tạo việc làm cho ng...

Tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn ở huyện phú vang – tỉnh thừa thiên huế

.PDF
48
591
72

Mô tả:

ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HOC KINH TẾ KHOA KINH TẾ & PHÁT TRIỂN ---------- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC “ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN PHÚ VANG - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ ” ĐINH NHẬT THẢO CHÂU Khóa học: 2007 - 2011 ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KHOA KINH TẾ & PHÁT TRIỂN ---------- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC “ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THƯC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN PHÚ VANG - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ ” Họ tên: Đinh Nhật Thảo Châu Lớp: K41A – KTNN Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Quang Phục Niên khóa: 2007 -2011 Huế - 4/2011 1 MỤC LỤC MỤC LỤC .................................................................................................................................2 DANH MỤC VIẾT TẮT...........................................................................................................4 DANH MỤC BẢNG BIỂU.......................................................................................................5 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................6 1. Tính cấp thiết của đề tài.........................................................................................................6 2. Mục tiêu của đề tài.................................................................................................................7 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ......................................................................7 4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................................7 PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................................8 CHƯƠNG I................................................................................................................................8 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...........................................................................8 1.1. Cơ sở lý luận.......................................................................................................................8 1.1.1. An sinh xã hội và hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam ...................................................8 1.1.1.1. Khái niệm về thuật ngữ an sinh xã hội .........................................................................8 1.1.1.2. Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam ............................................................................9 1.1.2. Chính sách tạo việc làm cho người lao động trong hệ thống an sinh xã hội .................10 1.1.2.1. Khái niệm việc làm.....................................................................................................11 1.1.2.2. Khái niệm tạo việc làm cho người lao động...............................................................11 1.1.2.3. Sự cần thiết tạo việc làm cho lao động nông thôn......................................................12 1.1.2.4. Vai trò của chính sách tạo việc làm trong hệ thống an sinh xã hội ............................14 1.2. Cơ sở thực tiễn..................................................................................................................15 1.2.1. Thực trạng an sinh xã hội đối với người nông dân nước ta...........................................15 1.2.2. Kết quả của chính sách tạo việc làm ở Việt Nam những năm qua ................................17 CHƯƠNG II ............................................................................................................................20 TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở HUYỆN PHÚ VANG – TỈNH THỪA THIÊN HUẾ .................................20 2.1. Tổng quan về huyện Phú Vang.........................................................................................20 2.1.1. Điều kiện tự nhiên .........................................................................................................20 2.1.2. Khí hậu, thời tiết ............................................................................................................20 2.1.3. Địa hình, đất đai ............................................................................................................21 2 2.1.4. Dân số và lao động ........................................................................................................21 2.1.5. Kinh tế - xã hội ..............................................................................................................21 2.2. Đánh giá tình hình thực hiện chính sách tạo việc làm cho lao động nông thôn, đảm bảo an sinh xã hội ở huyện Phú Vang giai đoạn 2006 - 2010............................................................23 2.2.1. Chương trình lao động việc làm ....................................................................................23 2.2.1.1. Kết quả thực hiện.........................................................................................................24 2.2.1.2. Tồn tại: ........................................................................................................................31 2.2.2. Chương trình xuất khẩu lao động ..................................................................................32 2.2.2.1. Kết quả thực hiện........................................................................................................32 2.2.2.2. Tồn tại:........................................................................................................................34 CHƯƠNG III...........................................................................................................................35 MỘT SÔ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG THÔN Ở HUYỆN PHÚ VANG - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ35 3.1. Phương hướng phát triển chương trình tạo việc làm của tỉnh Thừa Thiên Huế và huyện Phú Vang trong giai đoạn 2011 – 2015 ...................................................................................35 3.1.1. Mục tiêu của tỉnh ...........................................................................................................35 3.1.2. Mục tiêu của huyện........................................................................................................36 3.2. Giải pháp khắc phục những tồn tại trong giai đoạn vừa qua ............................................37 3.3. Giải pháp để thúc đẩy phát triển nhanh chính sách tạo việc làm trong giai đoạn 2011-2015 ở huyện Phú Vang- tỉnh Thừa Thiên Huế ...............................................................................38 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................411 1. Kết luận: ..............................................................................................................................41 2. Kiến nghị: ............................................................................................................................42 TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................................455 PHỤ LỤC………………………………………………………………………………….....46 3 DANH MỤC VIẾT TẮT - ASXH : An sinh xã hội - BHXH : Bảo hiểm xã hội - TTH : Thừa Thiên Huế - CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa - UBND : Ủy ban nhân dân - ILO : Tổ chức lao động quốc tế - BHYT : Bảo hiểm y tế - LĐ-TB&XH : Lao động – Thương binh & Xã hội 4 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1: Kết quả tạo việc làm cho lao động năm 2006……………………...….trang 24 Bảng 2: Kết quả tạo việc làm cho lao động năm 2007………………...…….…trang 25 Bảng 3: Kết quả tạo việc làm cho lao động năm 2008……………………..…..trang 26 Bảng 4: Kết quả tạo việc làm cho lao động năm 2009…………………....……trang 27 Bảng 5: Kết quả tạo việc làm cho lao động năm 2010……………………....…trang 28 Bảng 6: Tổng hợp kết quả tạo việc làm cho lao động giai đoạn 2006 – 2010 tại huyện Phú Vang – tỉnh TTH………...…………………………………………………trang 30 Bảng 7: Tổng hợp tình hình xuất khẩu lao động giai đoạn 2006 – 2010 tại huyện Phú Vang– tỉnh TTH………………………………………………………………...trang 33 5 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài An sinh xã hội (ASXH) thể hiện quyền cơ bản của con người và là công cụ để xây dựng một xã hội hài hòa, văn minh. ASXH có nguyên tắc cơ bản là đảm bảo sự đoàn kết, chia sẻ và tương trợ cộng đồng đối với các rủi ro trong đời sống, do vậy có tác dụng thúc đẩy sự đồng thuận, bình đẳng và công bằng xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống ASXH thông qua tác động tích cực của các chính sách chăm sóc sức khỏe, an toàn thu nhập và các dịch vụ xã hội, sẽ nâng cao năng suất lao động, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu lao động nói riêng và toàn bộ quá trình phát triển kinh tế nói chung. Do vậy, hệ thống ASXH mà đặc biệt là cơ chế Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã hình thành rất sớm ở Việt Nam ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều này đã khẳng định tầm nhìn của những người lãnh đạo và chính sách xã hội của nhà nước ta – nhà nước của giai cấp công – nông, của những người lao động. Ngày nay, nước ta đang theo đuổi cơ chế nền kinh tế thị trường, có định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Trước mắt, nước ta đã đạt được những thành công nhất đinh và nền kinh tế đang trên đà phát triển. Tuy nhiên hệ thống ASXH vẫn chưa hoàn thiện đầy đủ. Có thể nói, cho đến nay hệ thống ASXH của chúng ta còn ở mức sơ khai, độ bao phủ mỏng; các lợi ích của ASXH chưa được phân phối công bằng, thiệt thòi vẫn thuộc về người nghèo, về nông dân. Thực trạng đó, đã hạn chế không nhỏ đến hiệu quả của các chương trình xã hội khác, nhất là chương trình tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn. Do đó, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những giải pháp tích cực trong việc thực hiện các chính sách ASXH để giúp người nông dân đối phó với những rủi ro do thiên tai, lao động và sức khỏe, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động, thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Một trong những chính sách nổi bật trong hệ thống ASXH là chính sách tạo việc làm cho người dân lao động. Chương trình này nhằm tạo việc làm mới và bảo đảm việc làm cho người lao động có yêu cầu; thực hiện các biện pháp để trợ giúp 6 người lao động nhanh chóng có được việc làm, người thiếu việc làm có đủ việc làm, đặc biệt có chính sách trợ giúp cụ thể các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động; thông qua đó giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm cho người lao động, nhằm từng bước thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Tại huyện Phú Vang – tỉnh Thừa Thiên Huế (TTH), với quy mô dân số là hơn 186.000 dân, tốc độ phát triển dân số còn khá cao: 2%, nguồn lao động bổ sung vào lực lượng lao đông hàng năm khoảng 2.000 lao động, hiện nay có hơn 86.000 lao động. Nhưng tạo việc làm cho người lao động thấp so với nhu cầu, vì thế đây là một trong những gánh nặng về kinh tế - xã hội ở huyện Phú vang. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn ở huyện Phú Vang – tỉnh Thừa Thiên Huế”, để xem xét một cách đúng đắn việc thực hiện chính sách tạo việc làm tại huyện Phú Vang, đảm bảo ASXH và tác động đến lao động nông thôn như thế nào, đồng thời để rút ra được những kinh nghiệm và giải pháp mới trong việc thực hiện. 2. Mục tiêu của đề tài - Tìm hiểu các vấn đề lý luận và thực tiễn về ASXH và chính sách tạo việc làm trong hệ thống ASXH. - Đánh giá tình hình thực hiện chính sách tạo việc làm tại huyện Phú Vang – tỉnh TTH. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: chính sách tạo việc làm cho lao động nông thôn. - Phạm vi nghiên cứu: huyện Phú Vang – Tỉnh TTH. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp so sánh. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp tổng hợp số liệu. 7 PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. An sinh xã hội và hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam 1.1.1.1. Khái niệm về thuật ngữ an sinh xã hội Ở Việt Nam, thuật ngữ “an sinh xã hội” được xuất hiện vào những năm 70 trong một số sách nghiên cứu về pháp luật của các học giả Sài Gòn. Sau năm 1975, thuật ngữ này được dùng nhiều hơn và đặc biệt là từ những năm 1995 trở lại đây nó được dùng rộng rãi hơn. ASXH là một thuật ngữ được dịch ra từ cụm từ social security (tiếng Anh) hoặc từ sécurites sociale (tiếng Pháp). Điều đầu tiên cần phải làm rõ: “an sinh xã hội” nghĩa là gì ? Theo ILO (tổ chức lao động quốc tế), đó là: Sự bảo vệ mà xã hội thực hiện đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại sự cùng quẫn về kinh tế và xã hội dẫn đến sự chấm dứt hay giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất việc làm, mất sức lao động, tuổi già hoặc cái chết; những dịch vụ về chăm sóc y tế và những quy định về hỗ trợ đối với những gia đình có con nhỏ gặp phải khó khăn trong cuộc sống. Theo khái niệm được rút ra từ những khái niệm, quan niệm khác nhau về ASXH thì ASXH là một hệ thống các cơ chế chính sách, các giải pháp của nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho ho giảm hoặc mất nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì các nguyên nhân khác rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ, bần cùng hóa và cung cấp những dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng, thông qua các hệ thống chính sách về BHXH, BHYT, trợ giúp xã hội và trợ giúp đặc biệt. Ở Việt Nam , thuật ngữ ASXH được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác nhau như: 8 bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an toàn xã hội… ASXH lấy con người làm trung tâm, vừa tạo điều kiện cơ bản và thuận lợi giúp cho các đối tượng đặc biệt có cơ hội để phát huy hết thế mạnh của cá nhân đồng thời thể hiện thái độ, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo ra cơ hội giúp họ hòa nhập vào cộng đồng. ASXH góp phần ổn định phát triển và tiến bộ xã hội. Ngày nay: hệ thống ASXH không chỉ là phương tiện bảo trợ, tái phân bổ thu nhập và trợ cấp để đảm bảo nhu cầu cơ bản cho người dân mà con hướng vào việc phòng tránh và bảo vệ từng cá nhân trước những rủi ro và sự yếu thế. Phương pháp tiếp cận mang tính đổi mới này được gọi là hệ thống “ASXH năng động”, tập trung đầu tư vào “vốn con người”. Mục tiêu chính của ASXH là phát triển dịch vụ xã hội bền vững và dễ tiếp cận hơn, không chỉ chú trọng đến dịch vụ bảo trợ mà còn tăng cường các biện pháp phòng tránh và hỗ trợ việc làm, tạo việc làm mới, mang lại hiệu quả cao hơn về kinh tế, xã hội và hòa nhập cộng đồng tốt hơn. 1.1.1.2. Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam Hệ thống ASXH của Việt Nam (tạm gọi như vậy) thực tại gồm khá nhiều “mảng” vấn đề. Theo tôi có thể chia thành 3 nhóm sau đây: - Nhóm các chế độ về BHXH: gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện quan niệm trên nguyên tắc có đóng thì có hưởng và cùng chia sẻ rủi ro. Đối tượng tham gia là những người lao động theo quy định, các mức đóng góp tạo nên một quỹ chung. Các thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp phải các sự cố và đủ điều kiện để hưởng. Mọi chi phí cho các chế độ được chi trả bởi nguồn quỹ chung. - Nhóm các chế độ về trợ cấp xã hội: gồm các chế độ cứu trợ xã hội cho những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do gặp phải những rủi ro trong cuộc sống. Nguồn chi trả cho các chế độ trợ cấp xã hội được lấy từ ngân sách Nhà nước. - Nhóm các chương trình xã hội khác: gồm chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình tạo việc làm, chương trình y tế (phòng, chữa bệnh, y tế cộng đồng…) và gồm cả các loại quỹ tiết kiệm và các loại bảo hiểm khác. Ba nhóm trên hình thành một hệ thống ASXH của nước ta. Tuy vậy, mỗi nhóm các chế độ lại có những đặc điểm khác biệt và có phạm vi tác động riêng. Tuy một số trường hợp trợ cấp mà hệ thống BHXH cung cấp có thể không đủ cho việc trang trải 9 các nhu cầu cơ bản của đối tượng được thụ hưởng, BHXH là một trong những “cột trụ” chính của ASXH. Nhưng dùng BHXH để giải quyết các vấn đề không thuộc phạm vi của BHXH sẽ làm cho BHXH ít tác dụng và xoá nhoà ranh giới của mỗi thành phần trong cả hệ thống và như vậy vô hình chung đã làm mất đi các “tấm đệm” tầng tầng, lớp lớp trong hệ thống ASXH. Trong quá trình chuyển đổi kết cấu nền kinh tế, các chế độ thuộc nhóm trợ giúp xã hội tồn tại một cách hết sức cần thiết, điều đó không chỉ đối với các nước Đông Nam Á mà còn là nhu cầu của hầu hết các nước đang phát triển. Tuy vậy, do hạn chế về khả năng kinh tế nên các nước có nền kinh tế chuyển đổi thì nhu cầu về ASXH trong thời kỳ đầu chính lại không phải chủ yếu là những khoản trợ giúp mà lại là các chương trình phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết việc làm để mọi người có thể kiếm được thu nhập từ việc làm. Trừ một số tỉ lệ ít ỏi trong toàn bộ dân số mà chủ yếu là những người tàn tật, người không còn khả năng lao động, không có nguồn thu nhập và không nơi nương tựa được hưởng các loại trợ cấp có tính chất trợ giúp xã hội. Với sự xuất hiện và ngày càng phát triển của kinh tế thị trường khoảng cách về thu nhập, về mức sống ngày càng có sự phân hoá lớn. Sự đầu tư và các biện pháp thay đổi cơ cấu công nghệ để cạnh tranh và tồn tại đã làm gia tăng số người mất việc làm, sự nghèo khó xuất hiện cùng với giàu có ngày càng tăng thì nhu cầu trợ giúp xã hội không hề giảm mà càng lớn hơn trước rất nhiều. Do đó việc tập trung đầu tư cho “tấm lưới” trợ giúp xã hội phải là một ưu tiên đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Cùng với BHXH, trợ giúp xã hội hệ thống các chương trình kinh tế – xã hội ngắn hạn và dài hạn cần được triển khai một cách đa dạng. Sự phong phú đa dạng của các chương trình sẽ là một sự bổ sung quan trọng cho hai nhóm BHXH và trợ giúp xã hội phát huy tác dụng che chắn cho các đối tượng được thụ hưởng các chế độ. Trong thời gian khoảng mười năm trở lại đây ở nước ta đã thấy rõ tác động của các chương trình tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ vay vốn… Có thể nói mô hình và các giải pháp về ASXH mà Việt Nam đang thực hiện là phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội và rất thành công, thậm chí có những bước đột phá. 1.1.2. Chính sách tạo việc làm cho người lao động trong hệ thống an sinh xã hội 10 1.1.2.1. Khái niệm việc làm Để có thể đề ra được một chính sách việc làm đúng đắn, trước hết phải làm rõ khái niệm về việc làm. Thật ra, khái niệm việc làm không phải là vấn đề mới, nhiều nhà kinh tế học đã nêu lên quan điểm của họ về khái niệm việc làm. Tuy nhiên hiểu thế nào là việc làm, điều này không giống nhau ở nhiều điểm thời gian và không gian khác nhau. Hiện đang tồn tại nhiều cách tiếp cận hoặc diễn giải khác nhau về khái niệm việc làm. - Theo ILO thì: Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật. - Điều 13 Chương II Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan niệm rằng: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Theo quan điểm riêng của tôi, đây là một khái niệm chuẩn xác vì: Theo khái niệm này, việc làm là các hoạt động lao động được thể hiện ở các dạng sau: + Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương hoặc hiện vật cho công việc đó. + Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do chính thành viên sở hữu, quản lý hoặc có quyền sử dụng; hoặc các hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hay một phần. + Làm các công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó, bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do chủ hộ hoặc thành viên trong hộ sở hữu, quản lý hay có quyền sử dụng; hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong chủ hộ làm chủ hoặc quản lý. 1.1.2.2. Khái niệm tạo việc làm cho người lao động Lịch sử phát triển xã hội loài người cho thấy, bất cứ một quốc gia nào, đều có nhu cầu sử dụng hợp lý nguồn lao động của mình, để khai thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế của đất nước. Người lao động là một nguồn lực quan trọng, là một 11 trong những yếu tố cơ bản để phát triển. Và đối với mỗi con nguời, lao động là rất quan trọng, thông qua quá trình lao động sẽ đem lại của cải, vật chất và các giá trị tinh thần khác cho bản thân cũng như cho toàn xã hội. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn trong lĩnh vực kinh tế phải tập trung phát huy cao độ khả năng của nguồn lực quan trọng đó. Nếu có những sai phạm về chủ trương, chính sách, biện pháp thì nguồn lao động rất có thể trở thành gánh nặng, thậm chí gây trở ngại, tổn thất cho nền kinh tế. Theo Giáo trình Lao động việc làm - ĐH Kinh Tế Quốc Dân (Năm 2000), chúng ta có khái niệm: Tạo việc làm cho người lao động: là tạo ra môi trường và các điều kiện cụ thể để người lao động tự do làm ăn, nâng cao thu nhập, tự tạo việc làm cho bản thân mình và cho người khác theo đúng pháp luật, phát huy đến mức cao nhất nhân tố con người với khả năng sáng tạo vô hạn Khái niệm này chỉ rõ: - Xã hội (nhà nước, doanh nghiệp, gia đình…) có trách nhiệm tạo môi trường, tiền đề cần thiết để phát triển nơi làm việc. - Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm cho mình và cho người khác, tự do lao động, nhưng phải theo đúng luật pháp của nhà nước. - Việc làm của người lao động là yếu tố phát huy cao nhất nhân tố của con người. 1.1.2.3. Sự cần thiết tạo việc làm cho lao động nông thôn Nông nghiệp từ lâu đã là một lĩnh vực hoạt động sản xuất quan trọng để đảm bảo cuộc sống của con người. Hiện nay mặc dù con người đã đạt được trình độ phát triển rất cao về công nghệ và khoa học kỹ thuật cũng như nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhưng nhiều nước trên thế giới vẫn phải sống vào hoạt động nông nghiệp là chủ yếu. Việc phát triển nông nghiệp cũng như nhiều vấn đề liên quan đến nông dân, nông thôn là những đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm. Việt Nam là nước đi lên từ nền sản xuất nông nghiệp, đất nước trong thời gian dài phải gánh chịu nhiều hậu quả của chiến tranh, đến nay nền kinh tế đang từng bước phát triển, với dân số trên 86 triệu người. Chính vì vậy việc giải quyết việc làm cho người lao động là vấn đề cấn thiết quan trọng đối với Việt Nam. Nông thôn là nơi dân số chiếm tỷ lệ cao và tập trung nhiều lao động nên tình trạng dư thừa lao động, thiếu 12 việc làm thường xuyên xảy ra, đây là khó khăn, trở ngại lớn cho quá trình CNH-HĐH đất nước, là lực cản chính trong công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, là nguyên nhân sâu xa phát sinh các tiêu cực, tệ nạn xã hội. Thực tế của nhiều nước trên thế giới cho rằng khi đã giải quyết được việc làm cho người lao động thì không những tạo ra sự phát triển ổn định cho nền kinh tế, mà đời sống của người lao động ngày càng được nâng cao về mọi mặt, đảm bảo ASXH, từ đó làm giảm áp lực tiêu cực cho xã hội. Ở Việt Nam tạo việc làm cho người lao động được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Tại nhiều kỳ Đại hội của Đảng vấn đề tạo việc làm cho lao động ở nông thôn đã được đề cập đến, cụ thể tại Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX của Đảng công sản Việt Nam đã đưa ra nghị quyết: “ Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định phát huy yếu tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng cuả nhân dân”. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trường, chính sách tạo việc làm cho người lao động, với định hướng phát triển nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cho người lao động. Mặc dù vậy vấn đề tạo việc làm cho người lao động vẫn đang cần sự quan tâm, giải quyết của toàn xã hội. Ở Việt Nam, thực tế số dân tập trung ở khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ tương đối cao ( 80% tổng dân số), với gần 70% lao động sống và làm việc ở nông thôn, và số lao động qua đào tạo chỉ chiếm khoảng 12% so với trên 25% ở khu vực thành thị. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, ở nông thôn dân trí thấp hơn 2 lần, nhân tài thấp hơn 8,6 lần, và nhân lực, trong đó có đào tạo nghề, thấp hơn 10 lần so với thành thị. Đó còn chưa kể tới một thực tế, hiện nay, tình trạng lao động ở nông thôn mới sử dụng khoảng 80% thời gian lao động; tỷ lệ thất nghiệp chiếm khoảng 6%; trong khi đó thực trạng đất nông nghiệp có xu hướng giảm xuống do quá trình chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất ở, quy hoạch các khu công nghiệp và gia tăng dân số... Đi đôi với vấn đề này là sự tăng nhanh dân số ở khu vực nông thôn, hàng năm số lao động bổ sung không ngừng tăng lên, vì sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, tính mùa vụ trong sản xuất tạo ra nhiều thời gian nông nhàn với ngươi lao động nên xảy ra nhiều tiêu cực, tệ nạn trong xã hội. Chính vì vậy việc tạo việc làm không chỉ là yêu cầu cấp bách của riêng khu vực nông thôn mà đang là bức xúc của toàn xã hội nên cần được giải quyết. 13 1.1.2.4. Vai trò của chính sách tạo việc làm trong hệ thống an sinh xã hội Qua những bất cập của hệ thống ASXH ở nước ta đã phân tích ở trên và sự cần thiết tạo việc làm cho lao động nông thôn, để đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước, góp phần đảm bảo ASXH, Chính Phủ đã tiến hành thực hiện các chính sách đào tạo chuyển nghề cho lao động nông thôn và đào tạo nâng cao trình độ cho nông dân để còn tiếp tục làm nông nghiệp. Hàng năm, chúng ta phải tập trung đào tạo chuyển nghề cho lao động nông thôn từ 700 đến 800 nghìn người và 300 nghìn nông dân tiếp tục làm nông nghiệp. Cơ sở, trường lớp đào tạo hiện còn chưa đáp ứng, cái khó nhất là đào tạo lao động phi nông nghiệp có việc làm và thu nhập ổn định cao hơn làm ruộng ở quê. Lao động sau đào tạo chủ yếu làm việc tại các doanh nghiệp, có thể ở thành phố, thị xã, đô thị nhỏ làm việc trong doanh nghiệp ở nông thôn và đầu tư vào nông nghiệp đang là thách thức lớn. Theo thống kê chưa thật đầy đủ, ở nước ta hiện nay có gần 40 nghìn doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn trong đó chỉ có gần 1500 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm 3,7% số doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn. Vốn đầu tư số doanh nghiệp trên có khoảng 32 nghìn tỉ đồng chiếm 6% vốn của doanh nghiệp đầu tư ở nông thôn và chỉ có 0,9% vốn của các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy mấy năm gần đây, nhất là năm 2010, Chính phủ đã có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Cần phải coi đây là công việc thường xuyên, lâu dài về việc đào tạo chuyển nghề cho lao động nông thôn gắn đào tạo chuyển nghề với doanh nghiệp. Thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tháng 10 – 2008, Chính phủ đã ra nghị quyết ban hành chương trình hành động của Chính phủ, trong đó có mục tiêu: tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm nhằm nâng cao thu nhập một bước cho người nông dân. Nhằm cụ thể hóa chương trình hành động trên, tháng 11 – 2009 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Đề án nêu rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là đào tạo nghề cho lao động 14 nông thôn là sự nghiệp của Đảng và Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn, khuyến khích huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đây là cơ sở, lah hành lang pháp lý để các hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn phát triển nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn và tạo ra cơ hội tìm kiến, tự tạo việc làm thích hợp cho người lao động. Các chính sách đào tạo nghề cho lao động có tính xã hội và nhân văn sâu sắc, do đó nhận được sự đồng thuận của rất cao các tầng lớp nhân dân. Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, các ngành, các địa phương đã có những hoạt động thiết thực, sáng tạo, tạo ra nhiều mô hình dạy nghề và hình thức dạy nghề thích hợp. Một số mô hình bước đầu triển khai có hiệu quả. Hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn không chỉ huy động các cơ sở chuyên dạy nghề mà còn huy động được “chất xám” của các viện nghiên cứu, các trường đại học, huy động được sự tham gia giảng dạy của những lao động kỹ thuật từ các doanh nghiệp, các nghệ nhân trong các làng nghề. Qua thí điểm một số mô hình đào tạo nghề cho lao động chuyên canh ở một số địa phương vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long hoặc Trung du miền núi như Lạng Sơn, Cao Bằng, Tây Ninh, Gia Lai... cho thấy kỹ năng nghề của nông dân được nâng lên, do đó năng suất lao động, chất lượng cây trồng và thu nhập của người lao động tăng lên rõ rệt. Những kết quả bước đầu này đã tạo động lực để thu hút những lao động nông thôn khác trong thôn bản tham gia các khóa đào tạo nghề được tổ chức tại địa bàn. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Thực trạng an sinh xã hội đối với người nông dân nước ta Ở nước ta, trong điều kiện xã hội hiện nay, ASXH được hiểu là “sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình, trước hết và chủ yếu nhằm đảm bảo thu nhập, sức khỏe và các điều kiện sinh sống thiết yếu khác thông qua các biện pháp như: BHYT, BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội…”. Thế nhưng, trên thực tế các chính sách ASXH ở vùng nông thôn và cho người nông dân còn khá nhiều bất cập: 15 - Về bảo hiểm cho nông dân: Mặc dù BHXH đã được thực hiện ở nước ta từ năm 1947, được mở rộng vào năm 1993 từ phạm vi khu vực nhà nước sang khu vực doanh nghiệp tư nhân, công ty liên doanh, nhưng hiện nay, hầu hết người nông dân do mức thu nhập thấp, không ổn định nên chưa mặn mà và không tham gia vào thị trường BHXH. Chính vì vậy, cuộc sống của họ thường rất bấp bênh khi gặp rủi ro về kinh tế. Hiện nhu cầu tham gia vào thị trường BHXH của nông dân là tương đối lớn, song phần đông họ chỉ muốn tham gia vào chế độ tử tuất mà thôi. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền về BHXH chưa được quan tâm đúng mức, do đó không chỉ người nông dân và lao động tự do, mà ngay cả cán bộ công chức nhà nước cũng chưa nhận thức đầy đủ về vai trò và nội dung cơ bản của chính sách BHXH. Ngoài ra, công tác tổ chức thực thi còn không ít bất cập… Do đó, người nông dân thiếu tin tưởng và số lượng tham gia vào thị trường này có chiều hướng giảm sút. - Về BHYT: BHYT ở nước ta hiện nay độ bao phủ vẫn đang ở mức thấp (dưới 20% dân số) và chủ yếu là loại hình BHYT bắt buộc. Còn độ bao phủ của BHYT tự nguyện tới người nông dân (chiếm khoảng 70% dân số) ở mức rất thấp và hầu như bỏ ngỏ. Cho đến nay, số lượng nông dân có khả năng mua BHYT tự nguyện rất thấp (dưới 5%). Đa phần người nông dân nghèo chỉ có thể tham gia loại hình bảo hiểm này nếu có sự trợ giúp của nhà nước thông qua các chương trình BHYT miễn phí. - Về bảo hiểm tai nạn lao động: là nước chịu nhiều thiên tai nhất là lũ lụt, giông bão, hạn hán nên hàng năm Việt Nam có trên một triệu người cần được cứu trợ. Tuy vậy, số người tham gia vào loại hình bảo hiểm tai nạn lao động và chính sách bảo hiểm, hỗ trợ của nhà nước trên lĩnh vực này còn rất hạn chế. Có khoảng 85% lao động nông thôn chưa có điều kiện tiếp cận với loại hình bảo hiểm này. Do vậy, những người lao động nông thôn bị tai nạn lao động hầu như không có khả năng làm việc hoặc tìm việc khác để mưu sinh. Và họ từ là những lao động chính, là trụ cột trong gia đình trở thành gánh nặng gia đình. Mặt khác, việc làm của nông dân thường không ổn định và bị lệ thuộc nhiều vào thời tiết, địa lý và họ có nguy cơ mắc các bệnh hiểm nghèo cao do thường xuyên tiếp xúc với các chất độc hại như: thuốc trừ sâu, phân hóa học… Đặc biệt là, ngư dân, họ thường gặp phải những tai nạn trên biển do bão, lốc. Đây là những 16 thiệt hại lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của ngư dân, cần có giải pháp hữu hiệu để bảo đảm cho cuộc sống của họ. - Các quỹ hỗ trợ xã hội khác: Ngoài các loại hình bảo hiểm trên, một số quỹ hỗ trợ xã hội khác như: Quỹ Hỗ trợ tuổi già, Quỹ Thăm hỏi của các tổ chức chính trị xã hội, Quỹ Bảo đảm xã hội, Quỹ Dự phòng, cứu trợ thiên tai và cứu đói lúc giáp hạt… Đã phát huy tác dụng trong việc duy trì, bảo đảm ASXH cho nông dân. Các quỹ này đã giúp nông dân giảm thiểu những tổn thất sau các đợt thiên tai, hoặc trợ giúp các gia đình nông dân đang phải đương đầu với những khó khăn về kinh tế (năm 2007, riêng Quỹ Dự phòng cứu trợ, thiên tai và cứu đói lúc giáp hạt đã chi 200 tỷ để cứu trợ thiên tai, chiếm 2,4% tổng chi tiêu cho cứu trợ xã hội, cứu trợ thiếu ăn lúc giáp hạt trên 100 tỷ đồng)… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong quản lý, sử dụng các quỹ hỗ trợ này. Thường thì khi không xảy ra thiên tai, các địa phương có xu hướng sử dụng quỹ không đúng mục đích, làm cho quỹ luôn ở tình trạng thiếu hụt; đến khi xảy ra thiên tai, không đáp ứng được nhu cầu cứu trợ, thậm chí còn bị thất thoát. Vì vậy, đa phần nông dân gặp khó khăn thiên tai chưa được hưởng đầy đủ số tiền mà nhà nước và xã hội trợ cấp cho họ. - Các hình thức hỗ trợ không chính thức: Đối với loại hình này, ngoài các tổ chức thuộc cơ quan, phải kể đến các tổ chức phi Chính phủ, tổ chức nhân đạo và sự trợ giúp của các thành viên gia đình, dòng họ và hàng xóm. Mặc dù, hệ thống này chưa phát triển mạnh nhưng có những đóng góp quan trọng trong việc trợ giúp lương thực và hỗ trợ thiết thực khác khi sự cố xảy ra. Tuy nhiên, hình thức này ngày càng có chiều hướng không còn quá quan trọng nữa vì quy mô quan hệ trong gia đình đã thay đổi và người lao động nông thôn đang có xu hướng chuyển dịch mạnh sang hình thức làm công ăn lương. 1.2.2. Kết quả của chính sách tạo việc làm ở Việt Nam những năm qua Giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những mục tiêu chính của các chính sách phát triển kinh tế, đảm bảo ASXH của nước ta. Trong thời gian qua, cùng với những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế, vấn đề tạo việc làm cho người lao động cũng đã đạt được một số kết quả đáng kể. * Về tỷ lệ thất nghiệp: 17 Hàng năm, chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị được thống kê thông qua các cuộc điều tra về lao động – việc làm, điều tra thực trạng sử dụng và nhu cầu lao động. Năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 4,65%. Năm 2009, do những tác động của cuộc khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị có xu hướng gia tăng, là 4,66%, tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực thành thị giảm xuống còn 4,43%/năm vào năm 2010. Tỷ lệ thất nghiệp tính chung cho lực lượng lao động ở nước ta trong thời gian qua là thấp. Tỷ lệ thất nghiệp chung này năm 2003 là 2,25%, 3 năm tiếp theo có xu hướng giảm đi nhưng không dáng kể, đến năm 2007 tăng lên 2,52%. Và hiên nay, tỷ lệ thất nghiệp chung cho cả nước là 2,88%. * Về tỷ lệ tạo việc làm: Theo Tổng cục thống kê, tỷ lệ dân số cả nước từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động tăng từ 76,5% lên 77,3% năm 2010. Trong đó, tỷ lệ lao động khu vực nông - lâm - thủy sản giảm từ 51,9% năm 2009 xuống 48,2% năm 2010. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 21,6% lên 22,4%. Khu vực dịch vụ tăng từ 26,5% lên 29,4%. Hiện nay, hàng năm đã tạo việc làm cho từ 1,5- 1,7 triệu lao động, ngành chiếm nhiều lao động nhất tại Việt Nam là ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản với gần 23 triệu lao động (năm 2008). Theo dự báo, việc làm trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có chiều hướng giảm và sẽ ở mức 21,1 triệu lao động vào năm 2020. Trên thực tế đã xuất hiện dòng di cư lao động từ nông thôn ra đô thị. Trong 10 năm qua, tỷ lệ lao động khu vực đô thị đã tăng 3,8% trong tổng lực lượng lao động, nhưng tỷ lệ lao động làm việc tại các hộ gia đình, cơ sở sản xuất, kinh doanh quy mô nhỏ lại tăng 2,9%. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam đã giảm trong giai đoạn 2007 - 2009. Và theo dự báo, đến năm 2015 một số ngành nghề sẽ tăng nhu cầu như tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; hoạt động kinh doanh bất động sản; hoạt động khoa học công nghệ; hoạt động đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội… * Mục tiêu của chương trình quốc gia tạo việc làm năm 2011 – 2015: 18 Chương trình Mục tiêu Quốc gia về việc làm từ nay đến 2015 đặt ra mục tiêu hỗ trợ tạo việc cho 1-1,2 triệu lao động; phấn đấu mỗi năm đưa khoảng 80.000100.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó khoảng 40.000 lao động là người nghèo, đối tượng chính sách. Chương trình cũng đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý Nhà nước về dạy nghề và việc làm; tăng cường đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Dự kiến tổng kinh phí thực hiện Chương trình là 49.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương cấp là 35.000 tỷ đồng, còn lại là ngân sách địa phương và huy động từ các tổ chức quốc tế và 3.700 tỷ đồng từ Quỹ Quốc gia về việc làm giai đoạn 20062010 chuyển sang. Theo nhận định của ILO tại Việt Nam những số liệu phân tích xu hướng lao động tại Việt Nam chưa bảo đảm được sự kịp thời, nhưng bản chất thị trường lao động chưa thay đổi trong nhiều năm qua do tồn tại tự nhiên, do đó báo cáo sẽ ít nhiều tác động vào các chính sách điều hành thị trường lao động. Chính vì vậy, các chính sách về thị trường lao động tại Việt Nam cần được xây dựng trên nền tảng những số liệu chính xác và kịp thời. Muốn đạt được mục tiêu vươn tới nước có mức thu nhập trung bình, phải thực hiện các chính sách thị trường lao động tốt để bảo đảm việc làm bền vững, giảm tỷ lệ đói nghèo phổ biến. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan