LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước Việt Nam ta đã và đang trong thời kỳ đổi mới kinh tế
đầy sôi động. Công cuộc đổi mới này được bắt nguồn từ đại hội Đảng
lần thứ VI( năm 1986). Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
đề ra đường lối đổi mới toàn diện cho nền kinh tế, đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng và liên tục đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Đóng
góp vào thành công này có nhiều yếu tố nhưng một bộ phận vô cùng
quan trọng không thể không kể đến đó là việc mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại. Điều này được thể hiện rõ nhất trong
những năm gần đây, khi mà có nhiều công ty, nhiều tập đoàn đầu tư
vào Việt Nam, đẩy mạnh sự phát triển của kinh tế đối ngoại và của các
khu công nghiệp. Hơn nữa là việc Việt Nam đã, đang và chuẩn bị gia
nhập các liên kết kinh tế như ASEAN, WTO, AFTA,…
Xuất nhập khẩu là lĩnh vực cần thiết không thể thiếu được đối
với bất kỳ quốc gia nào. Để tăng trưởng kinh tế nhanh chóng các quốc
gia buộc phải đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu bởi vì xuất khẩu sẽ
thúc đẩy nền kinh tế trong nước còn nhập khẩu sẽ đảm bảo cho quá
trình sản xuất được liên tục, có hiệu quả góp phần mở rộng khả năng
sản xuất và tiêu dùng, từng bước ổn định và nâng cao đời sống của
nhân dân.
Việt Nam tuy là một nước giàu tài nguyên với “Rừng vàng biển
bạc” nhưng vẫn chưa đảm bảo đầy đủ nguyên liệu đầu vào cho sản
xuất trong nước. Nắm được tình trạng đó ngay từ ngày đầu thành lập,
công ty TNHH 4P đã rất chú trọng vào lĩnh vực nhập khẩu các linh
kiện điện tử, máy tính, thông tin di động…Công ty đã đầu tư rất lớn
vào lĩnh vực này và biến nó thànhngành kinh doanh chủ yếu của công
1
ty nhằm cung cấp cho các hãng sản xuất ti vi, đặc biệt là hàng LG
SEL.
Việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của
công ty TNHH 4P không những có ý nghĩa hết sức to lớn và có quyết
định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của công ty mà còn rất quan
trong đến công cuộc phát triển và đổi mới của nền kinh tế nước nhà.
Chính vì thế, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu về các hoạt động
kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH 4P em đã quyết định lựa
chọn đề tài:
“ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập
khẩu của công ty TNHH 4P”
Với đề tài này em xin được trình bày trong ba chương:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP
KHẨU VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY
4P:
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG
TY 4P
Đây là một vấn đề rất lớn, trong khi thời gian tìm hiểu chưa
được lâu nên bản thân em khó có thể tìm hiểu kỹ càng và không thể
nêu rõ hết được những thuận lợi và khó khăn mà 4P gặp phải. Chính
vì vậy em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy các cô trong
khoa, của các anh các chị trong công ty 4P và của các bạn để bài viết
của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin trân thành cảm ơn sự giúp đỡ và
2
đóng góp của các thầy các cô trong khoa, của các anh các chị trong
công ty 4P và của các bạn.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP
KHẨU VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU
I. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
CỦA DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm về hoạt động nhập khẩu:
Nhập khẩu là hoạt động đưa các hàng hoá, dịch vụ vào một nước
do chính phủ, các tổ chức hoặc cá nhân đặt mua từ các nước khác
nhau. Các chủ thể tham gia các hoạt động kinh doanh nhập khẩu gồm
các tổ chức xã hội, các tập thể, các doanh nghiệp, các cá nhân…Tuy
nhiên, phạm vi, mức độ không giống nhau và không phải bất cứ doanh
nghiệp nào cũng được tham gia mà phải đáp ứng được yêu cầu theo
luật định.
3
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu:
_ Tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá đất
nước. Bởi vì nhập khẩu đòi hỏi sự đồng bộ về ký thuật nên tạo ra dây
chuyền hiện đại kéo theo sự đổi mới trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật và
quản lý, tạo ra kỷ luật lao động chặt chẽ trong đội ngũ công nhân.
_ Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung ứng đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Đồng thời thông qua
nhập khẩu hàng hoaccs quốc gia sẽ tham gia vào thị trường cạnh tranh
quốc tế, điều này bắt buộc các tổ chức, cá nhân phải năng động, sáng
tạo để theo kịp với sự phát triển chung của toàn thế giới.
_ Làm đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, quy cách, mẫu mã…từ
đó dẫn đến việc góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân
dân. Nhập khẩu máy móc thiết bị, đầu tư xây dựng là nơi thu hút hàng
triệu lao động, vừa giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân, vừa hạn
chế tệ nạn xã hội, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh.
_ Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm
bảo phát triển nền kinh tế cân đối và ổn định. Thực tế cho thấy không
có một quốc gia nào trên thế giới có được nền kinh tế đầy đủ tất cả các
loại hàng hoá mà không cần nhập khẩu. Càng những nước giàu, nước
hiện đại thì nhu cầu nhập khẩu các loại hàng hoá càng cao. Thông
thường các quốc gia thường có các chiến lược phát triển kinh tế và tập
trung trọng điểm vào một số ngành có điều kiện tốt, còn các ngành
khác thì chỉ là bổ trợ. Do đó, vấn đề nhập khẩu để bổ xung cho các
mặt thiếu sót của nền kinh tế là điều tất yếu.
_ Phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của mỗi doanh
nghiệp, mỗi tổ chức, mỗi cán bộ tham gia hoạt động nhập khẩu.
4
Thông qua hoạt động nhập khẩu mà các luồng thông tin được khai
thông, các mối quan hệ được sử dụng tích cực. Qua các hoạt động
nhập khẩu, giữa các quốc gia có sự giao lưu, trao đổi về kinh tế, về
văn hóa, về xã hội…để từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của mỗi người.
_ Nhập khẩu tạo sự cạnh tranh của hàng hoá nội và hàng hoá
ngoại, dẫn tới nỗ lực vươn lên của các nhà sản xuất trong nước và tạo
sự phát triển thực chất của sản xuất xã hội, thanh lọc các đơn vị sản
xuất yếu kém.
_ Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Nhập
khẩu giải quyết tình trạng thiếu nhiên liệu trong nước, tạo đầu vào cho
sản xuất. Nhập khẩu hiện đại hoá công nghệ sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm dảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để xuất khẩu, đồng thời
giảm các hao phí, tiết kiêm nguyên liệu đầu vào, từ đó giảm giá thành
và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Để phát huy vai trò của nhập khẩu cần:
+ Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào hoạt động
kinh doanh quốc tế. Muốn vậy thì nhà nước cần phải có các biện pháp
quản lý chặt chẽ, đề ra các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài.
+ Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong các hoạt động nhập
khẩu. Đây là một trong những vấn đề được nhà nước quan tâm hàng
đầu trong các hoạt động nhập khẩu nói riêng và trong các hoạt động
kinh doanh quốc tế nói chung. Thông thường các doanh nghiệp khi
tham gia trao đổi buôn bán, tham gia kinh doanh trên thương trường
thì mục tiêu hàng đầu của họ là lợi nhuận. Chính vì thế, có rất nhiều
doanh nghiệp đã bỏ qua vấn đề lợi ích của xã hội, do vậy nhà nước
5
cần có các biện pháp hành chính, biện pháp kinh tế để quản lý.
+ Đảm bảo nguyên tắc ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước
ngoài trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng và đôi bên cùng có lợi.
_ Đối với doanh nghiệp thì hoạt động kinh doanh nhập khẩu góp
phần giải quyết các sản phẩm đầu vào và các sản phẩm đầu ra, tạo
điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
được tiến hành một cách bình thường.. Kinh doanh xuất nhập khẩu
phát huy được các lợi thế và những khả năng vượt trội của doanh
nghiệp, khắc phục được những hạn chế đem lại lợi nhuận cao cho
doanh nghiệp. Đây là phương thức cho các doanh nghiệp tham gia các
hoạt động kinh doanh quốc tế.
3. Một số hình thức nhập khẩu chủ yếu:
Trong sự phát triển đa dạng chung của toàn thế giới thì hoạt
động kinh doanh quốc tế nói chung, hoạt động kinh doanh nhập khẩu
nói riêng cũng phát triển phong phú và đa dạng dưới nhiều hình thức.
Có thể kể ra một vài hình thức nhập khẩu thông dụng đang được áp
dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp như sau:
3.1. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp tự tính toán đầu tư, nghiên cứu thị trường, tính
toán chi phí, ký kết và thực hiện hợp đồng sao cho đúng với luật pháp
quốc gia và luật pháp quốc tế. ở loại hình này, doanh nghiệp phải chịu
mọi chi phí, mọi rủi ro cũng như phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi
hoạt động nhập khẩu của mình.
3.2. Nhập khẩu uỷ thác
Là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp có
6
nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó nhưng không có quyền
tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp và phải uỷ thác cho doanh
nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập
khẩu hàng theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành
đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá
theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là lệ
phí uỷ thác. Bên uỷ thác vẫn phải tự mình nghiên cứu thị trường, lựa
chọn mặt hàng, đối tượng giao dịch và chịu mọi chi phí liên quan.
3.3. Nhập khẩu liên doanh
Là hoạt động nhập khẩu trên cơ sở liên kết kinh tế tự nguyện
giữa các doanh nghiệp( Trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập
khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các
biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động
này phát triển theo hướng có lợi cho cả hai bên.
3.4. Nhập khẩu đổi hàng
Nhập khẩu đổi hàng và trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ
yếu của buôn bán đối lưu. Đây là một hình thức nhập khẩu gắn liền
với xuất khẩu, thanh toán không bằng ngoại tệ mà bằng hàng hoá. Ở
đây mục đích nhập khẩu hàng hoá không chỉ để thu lãi từ các hoạt
động kinh doanh nhập khẩu mà còn thu lãi từ các hoạt động kinh
doanh xuất khẩu.
3.5. Nhập khẩu tái xuất
Nhập khẩu tái xuất là hình thức nhập khẩu nhưng không phải để
tiêu thụ mà để xuất sang nước thứ ba nhằm thoả mãn nhu cầu và thu
lợi nhuận. Những hàng nhập này không được qua chế biến ở nước tái
xuất, doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn
hàng xuất và nhập để làm sao thu được lợi nhuận. Như vậy nhập khẩu
7
tái xuất luôn thu hút được ba bên: Bên nhập khẩu, bên xuất khẩu và
bên tạm nhập tái xuất. Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển qua
nước tái xuất mà có thể chuyển qua nước thứ ba( nước nhập khẩu ).
Tiền trả cho nước xuất khẩu do nước tái xuất thanh toán khi nhận
được khoản thanh toán từ nước thứ ba.
4. Nội dung hoạt động nhập khẩu
_ Nhập khẩu hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình( dịch vụ)
_ Nhập khẩu trực tiếp, nhập khẩu gián tiếp Trong từng phương
thức người ta thực hiện những phương thức cụ thể khác nhau rất đa
dạng. Để thực hiện hình thức kinh doanh này người ta ký với nhau
những hợp đồng kinh doanh nhập khẩu cụ thể, hợp đồng uỷ thác cụ
thể.
_ Gia công quốc tế là một hoạt động kinh doanh thương mại,
trong đó một bên( gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu
hoặc bán thành phẩm của một bên khác( gọi là bên đặt gia công) để
chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao.
Trong gia công quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt
động sản xuất.
_ Tái xuất khẩu, chuyển khẩu, tạm nhập, tạm xuất, tái nhập, tái
xuất. Đây là hoạt động lại xuất khẩu những hàng hoá đã nhập khẩu
nhưng chưa qua chế biến ở nước nhập khẩu.
_ Quá cảnh hàng hoá
_ Xuất khẩu tại chỗ
_ Hiệp định thương mại đặc biệt
8
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP:
1. Hiệu quả kinh doanh
1.1. Khái niệm
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều phải xác định cho
mình các mục tiêu hoạt động kinh doanh cụ thể. Để đạt được mục tiêu
đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình một chiến
lược kinh doanh cụ thể thích hợp. Mục tiêu bao trùm lâu dài của mọi
doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. để đạt được mục tiêu này, trước
hết mọi doanh nghiệp phải xác định tính toán sao cho sử dụng các yếu
tố đầu vào và đầu ra một cách hợp lý nhằm đạt được mục đích tối đa
hoá lợi nhuận. Như vậy, hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh
doanh luôn gắn liền với các yếu tố chi phí đầu vào và kết quả đạt
được. Mọi khái niệm hiệu quả kinh doanh được đưa ra đều chỉ ra mối
liên hệ giữa kết quả đạt được và chi phí đầu vào ở những khía cạnh
khác nhau.
Như vậy hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù
kinh tế nhằm phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực như: lao động,
vốn, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,… trong các hoạt động kinh
doanh để đạt được các mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đã xác
định. Có thể biểu diễn khái niệm bằng công thức sau:
H=K/C
(1)
H: Hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh
K: Là kết quả thu được từ các hoạt động đó
C: Tổng chi phí để đạt được kết quả đó
9
Hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động sản
xuất kinh doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1. Bản chất
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất rộng phản ánh
những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để
hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ
ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả.
Có thể hiểu kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được
sau một qua trình kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh
nào đó, kết quả cần đạt được bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của
doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp có thể cân, đo, đong, đếm được thông qua các chỉ tiêu về số
lượng sản phẩm, doanh thu, thị phần…và cũng có thể là các đại lượng
chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy
tín, chất lượng sản phẩm… Những kết quả này lại không cho thấy
được trình độ quản lý, trình độ sử dụng đầu vào của doanh nghiệp.
Trong khi đó hiệu quả là một phạm trù phản ánh trình độ lợi
dụng các nguồn lực sản xuất. Ở công thức (1) ta thấy khái niệm phạm
trù hiệu quả kinh doanh bao gồm kết quả( đầu ra) và chi phí( đầu vào)
để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí
đều được tính bằng hai đơn vị hiện vật và giá trị. Tuy nhiên nếu tính
bằng đơn vị hiện vật thì rất khó xác định do tính không đồng nhất của
đơn vị đo lường, vì vậy người ta thường tính hiệu quả theo đơn vị giá
trị mà biểu hiện là tiền tệ.
Như vậy, bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của
lao động xã hội, nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh
10
doanh, phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình
kinh doanh để đạt được mục tiêu lợi nhuận. Đồng thời cũng là thước
đo trình độ tiết kiệm các yếu tố đầu vào, nguồn lực xã hội. Tiêu chuẩn
đặt ra là tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá chi phí dựa trên nguồn
lực sẵn có.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh
_ Trước hết đó là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Đây là
vấn đề quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trong nền kinh
tế.Hiệu quả kinh doanh được coi như là một trong những công cụ để
các nhà quản trị thực hiện chức năng của mình. Việc xem xét và tính
toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết việc sử dụng các
nguồn lực đạt được ở trình độ nào mà nó còn cho phép các nhà quản
trị phân tích và tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh có thể
được hiểu là nhằm tạo ra kết quả cao hơn trong cùng một nguồn lực
đầu vào hoặc tốc độ tăng của kết quả cao hơn so với tốc độ tăng của
các nguồn lực đầu vào.
_ Nguồn lực xã hội là một phạm trù khan hiếm, càng ngày người
ta càng sử dụng nhiều các nguồn lực sản xuất vào các hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm phục vụ các nhu cầu khác nhau của con người.
Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng giảm thì nhu cầu
của con người ngày càng đa dạng và tăng lên, do đó đòi hỏi các nhà
sản xuất kinh doanh phải biết tận dụng và sử dụng tiết kiệm tối đa các
nguồn lực đầu vào để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Để làm được
điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải lựa chọn và trả lời chính xác ba
câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào?.
Bởi vì thị trường chỉ chấp nhận cho phép tồn tại những doanh nghiệp
có quyết định sản xuất đúng loại sản phẩm với số lượng và chất lượng
11
hợp lý. Nếu doanh nghiệp xác định tốt ba câu hỏi trên thì sản phẩm
tạo ra của doanh nghiệp sẽ tiêu thụ tốt trên thị trường, không lãng phí
các nguồn lực sản xuất. Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực sản
xuất thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là không thể thiếu được trong
mỗi doanh nghiệp, nó thực sự là vấn đề ssống còn đối với mỗi doanh
nghiệp.
_ Trong điều kiện kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt do đó muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải luôn
tạo ra và duy trì các lợi thế cạnh tranh, đó là chất lượng và sự khác
biệt hoá. Để duy trì lợi thế về giá cả, doanh nghiệp phải sử dụng tiết
kiệm các nguồn lực sản xuất hơn các doanh nghiệp khác cùng ngành.
Doanh nghiệp càng sử dụng tiết kiệm các nguồn lực thì càng có các
thuận lợi để nâng cao lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù
phản ánh tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất
xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm lâu dài của
doanh nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh là đòi hỏi khách
quan để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa
hoá lợi nhuận.
1.3. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
_ Đối với nền kinh tế quốc dân thì việc nâng cao hiệu quả kinh
tế nói chung và hiệu hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói
riêng là một phạm trù kinh tế đặc biệt quan trọng, phản ánh yêu cầu
của quy luật tiết kiệm thời gian, phản ánh trình độ sử dụng lực lượng
sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị trường. Trình
độ phát triển của lực lượng sản xuât càng cao thì quan hệ sản xuất
ngày càng hoàn thiện, ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng. Càng
nâng cao hiệu quả sử dụng thì càng hoàn thiện quan hệ sản xuất, yêu
cầu của quy luật kinh tế ngày càng được thoả mãn.
12
_ Đối với bản thân doanh nghiệp thì nâng cao hiệu quả kinh
doanh là mục tiêu cơ bản của mọi doanh nghiệp, nó giúp doanh
nghiệp bảo toàn và phát triển vốn. Nói cách khác, nó là cơ sở để
doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất mở rộng, cải tạo, hiện đại hoá cơ
sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất kinh doanh, cải thiện dời
sống cho nhân dân, tích luỹ cho ngân sách, tăng uy tín và thế lực của
công ty trên thương trường.
_ Đối với cá nhân thì nó là động cơ thúc đẩy kích thích người lao
động hăng say lao động, giúp cho năng suất lao động ngày càng cao.
Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ giúp cho đời sống của mọi
người được cải thiện khi được sử dụng các sản phẩm có chất lượng
cao, giá thành rẻ. Hơn nữa việc nâng cao năng suất sẽ giúp cho mọi
người có thu nhập cao, cải thiện đời sống.
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
Có nhiều cách phân loại hiệu quả kinh doanh tuỳ thuộc vào mục
tiêu phân loại và các chỉ tiêu khác nhau:
_ Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối và hiệu quả kinh doanh tương
đối
_ Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận
_ Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh
ngành
_ Hiệu quả kinh doanh tài chính và hiệu quả kinh doanh xã hội
13
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao hiệu quả hoạt động
nhập khẩu
3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
3.1.1. Nguồn lao động của doanh nghiệp
Đây là một nhân tố rất quan trọng, có quyết định trực tiếp đến
hiệu quả của việc thực hiện các nhiệm vụ, công việc của công ty. Nếu
công ty có đội ngũ cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn cao,
nhiệt tình trong công việc thì sẽ đạt hiệu quả kinh doanh cao. Để có
được đội ngũ cán bộ có trình độ, tinh thần, ý thức trách nhiệm cao,...
thì buộc doanh nghiệp phải chăm lo đến việc đào tạo, bồi dưỡng và
nâng cao trình độ chuyên môn của lực lượng lao động. Bố trí sắp xếp
lao động cả về cật chất lẫn tinh thần. Đặc biệt là trong các hoạt động
kinh doanh nhập khẩu, khi mà các công việc có liên quan trực tiếp đến
các vấn đề mang tính quốc tế với sự khác biệt về ngôn ngữ, về văn
hoá,… thì việc đào tạo và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công
nhân viên lại càng phải được quan tâm. Đó là những nhiệm vụ hàng
đầu của mỗi doanh nghiệp để có thể tạo dựng một đội ngũ lao động có
hiệu suất cao, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh.
3.1.2. Vốn kinh doanh nhập khẩu
Nếu công ty có nguồn vốn lớn( đặc biệt là vốn lưu động) và ổn
định thì sẽ nắm bắt kịp thời cơ hội kinh doanh, có khả năng ký kết các
hợp đồng lớn, khả năng thanh toán tốt, tạo được uy tín với các đối tác.
Thực tế cho thấy nhiều công ty khi tham gia vào các hoạt động mang
tầm cỡ quốc tế thì thường gặp phải tình trạng thiếu vốn trầm trọng do
các hợp đồng thường có giá trị lớn và thời hạn thanh toán nhanh.
Trong các hợp đồng kinh doanh nhập khẩu nói chung hay trong các
hợp đồng kinh tế nói riêng thì việc thiếu vốn sẽ gặp rất nhiều khó
14
khăn, thường bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh do không chủ động. Mặt
khác việc thiếu vốn sẽ dẫn tới việc phải vay vốn từ nhiều phía và phải
trả lãi xuất cho các khoản vay đó. Chính vì vậy dẫn tới nhiều chi phí
không cần thiết.
3.1.3.Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin trong các hoạt động
nhập khẩu
Thông tin có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là trong các hoạt động kinh doanh
nhập khẩu. Nếu thông tin kịp thời, chính xác sẽ là cơ sở vững chắc để
doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, đồng thời giúp cho
doanh nghiệp có thể nắm bắt và nghiên cứu đầy đủ hơn về môi trường
kinh doanh. Qua đó giúp cho doanh nghiệp có thể nắm bắt và vận
dụng được những cơ hội kinh doanh tốt, phòng tránh được các rủi ro.
Việc có được những thông tin đầy đủ và chính xác sẽ giúp cho doanh
nghiệp đưa ra những quyết định chính xác trong quản lý và nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Do vậy, việc tổ chức khoa học hệ thống thông
tin nội bộ sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời cho doanh nghiệp những
thông tin trong kinh doanh, và tiết kiệm các chi phí.
3.1.4. Nhân tố quản trị các hoạt động kinh doânh nhập khẩu của
doanh nghiệp
Nhân tố quản trị có tác động tới hiệu quả các hoạt động kinh
doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Công tác quản trị được tiến hành
tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp có hướng đi đúng, định hướng các mục
tiêu kinh doanh ngắn hạn và dài hạn hợp lý. Từ đó làm cơ sở để đem
lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Một cơ cấu tổ chức bộ máy
quản lý doanh nghiệp hợp lý không những giảm thiểu các chi phí
15
không cần thiết trong quản lý mà còn là một nhân tố nâng cao hiệu
quả các hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nếu doanh nghiệp có được
một cơ cấu quản lý tối ưu sẽ xây dựng được và lựa chọn một cách hợp
lý các phương án huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực đầu vào phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
3.2.1. Nhân tố cạnh tranh
Nền kinh tế thị trường với nền kinh tế mở, khuyến khích sản
xuất phát triển kinh doanh ngày càng làm tăng mức độ ảnh hưởng của
yếu tố cạnh tranh đối với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tốt, chiếm ưu thế trên thị trường,
đảm bảo tốt về chất lượng lẫn giá thành sẽ chiếm vị trí cao trong
thương trường và thu được nhiều lợi nhuận. Và ngược lại doanh
nghiệp nào không có khả năng cạnh tranh tốt trong thương trường thì
sẽ có lợi nhuận thấp, kinh doanh không hiệu quả và dẫn tới tình trạng
phá sản. Đặc biệt, đối với các công ty tham gia các hoạt động kinh
doanh quốc tế thì mức độ cạnh tranh càng gay gắt, bởi vì đó là một thị
trường rất rộng lớn, nhiều chủng loại, mẫu mã đạp, giá thành rẻ,…
Đứng trước một hợp đồng nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó, doanh
nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ xem nhập loại hàng hoá nào, mẫu mã,
chất lượng và giá cả ra sao,… để từ đó có những chiến lược cụ thể
nhằm cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường.
Cạnh tranh được xét theo hai góc độ: Cạnh tranh trong nội bộ
ngành trong nước và cạnh tranh với đối thủ nước ngoài. Trong cùng
một thời điểm nhất định, nếu tồn tại nhiều doanh nghiệp cùng nhập
khẩu một loại mặt hàng và tiêu thụ ở thị trường nội địa thì sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến giá cả và khả năng tiêu thụ, do đó ảnh hưởng trực
16
tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhà sản xuất
nước ngoài khi thâm nhập vào thị trường nội địa cũng trở thành một
đối thủ cạnh tranh lớn đối với doanh nghiệp trong nước. Họ cạnh tranh
bằng giá cả, chất lượng, mẫu mã, uy tín… nhằm thu hút khách hàng,
từ đó tạo ra việc giảm doanh số tiêu thụ của các doanh nghiệp nội địa.
Để đảm bảo cạnh tranh tốt nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhập khẩu thì chính bản thân các
doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực vươn lên, tăng cường khả
năng cạnh tranh của mình với các đối thủ trong và ngoài nước. Muốn
như vậy thì ngay từ đầu, ngay từ khâu lựa chọn lĩnh vực kinh doanh,
doanh nghiệp nên có hướng lựa chọn đúng đắn và tìm hiểu kỹ càng để
có thể đưa ra các biện pháp cạnh tranh vừa lành mạnh vừa có hiệu
quả.
3.2.2. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh về mặt giá trị chi phí sản
xuất của doanh nghiệp với giá cả thị trường thế giới và dẫn tới tác
động tương quan giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu với khả năng
cạnh tranh của công ty.
Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm xuống, tức là đồng bản tệ
có giá trị thấp đi so với đồng ngoại tệ. Nếu không có các yếu tố khác
ảnh hưởng sẽ làm cho giá cả của hàng nhập khẩu đắt hơn so với thực
tế bởi vì trị giá đồng nội tệ mà người nhập khẩu phải bỏ ra sẽ lớn hơn
so với mức bình thường. Việc tỷ giá hối đoái bị giảm xuống sẽ tác
động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Việc
tăng thêm các khoản chi phí bằng đồng ngoại tệ để nhập khẩu các loại
hàng hoá tiêu dùng hay nguyên vật liệu sản xuất, các nhà kinh doanh
nhập khẩu buộc phải tăng chi phí kinh doanh. Hơn nữa, nếu tăng chi
17
phí sẽ làm giảm cầu trên thị trường và khách hàng sẽ chuyển sang
dùng các loại hàng hoá có thể thay thế khác, dẫn tới việc tồn đọng,
khó tiêu thụ của các loại hàng hoá nhập khẩu. Xét về hiệu quả kinh tế
xã hội, việc giảm tỷ giá hối đoái sẽ là một thuận lợi cho các nhà kinh
doanh xuất khẩu do có thể thu về một lượng ngoại tệ có giá trị so với
đồng nội tệ lớn hơn mức bình thường.
Ngược lại khi tỷ giá hối đoái tăng lên, nghĩa là đồng nội tệ sẽ có
giá trị tăng lên so với đồng ngoại tệ, nếu không có các yếu tố khác ảnh
hưởng thì sẽ là một thuận lợi cho các nhà kinh doanh nhập khẩu
nhưng lại là một bất lợi cho các nhà kinh doanh xuất khẩu.
3.2.3. Thuế nhập khẩu
Có nhiều cách đánh thuế khác nhau như: tính và thu một số tiền
nào đó đối với mỗi một đơn vị hàng hoá hoặc tính theo tỷ lệ phần
trăm(%) đối với tổng giá trị hàng hoá hoặc cũng có thể kết hợp cả hai
biện pháp trên.
Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu là nhằm phát triển và
bảo vệ sản xuất trong nước, tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia.
Ngoài ra nó có vai trò rất quan trọng trong việc bảo hộ các ngành còn
non trẻ, chưa có khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Thuế
nhập khẩu sẽ làm cho giá trị của hàng hoá nhập khẩu trên thị trường
trong nước sẽ lớn hơn rất nhiều so với giá thực tế, chính điều này đã
làm cho hàng hoá tự lựa chọn người tiêu dùng trong nước. Điều này
dẫn đến tình trạng giảm mức cầu của người tiêu dùng đối với hàng
hoá nhập khẩu.
3.2.4.Hạn ngạch
Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của nhà nước về số lượng
hoặc giá trị một mặt hàng nào đó được nhập khẩu trong một thời gian
18
nhất định( thường là một năm). Hạn ngạch nhập khẩu thường đưa đến
tình trạng hạn chế số lượng nhập khẩu và ảnh hưởng đến giá nội địa
của hàng hoá. Do việc hạn chế số lượng nhập khẩu của hạn ngạch, các
nhà sản xuất trong nước sẽ thực hiện một quy mô sản xuất với hiệu
quả thấp hơn so với điều kiện thương mại tự do. Đối với cả chính phủ
và các doanh nghiệp thì hạn ngạch sẽ giúp cho việc xác định trước số
lượng nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu có tác động tương đối giống với thuế quan
nhập khẩu tức là do hạn ngạch nên giá cả của hàng nhập khẩu sẽ tăng
lên. Hạn ngạch có tác động khác thuế quan ở hai điểm:
_ Thứ nhất, chính phủ sẽ bị thất thu ngân sách từ các khoản thuế
nhập khẩu do việc nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó có giới hạn.
Giá cả của hàng hoá nhập khẩu tăng lên là do mức độ khan hiếm của
hàng hoá trên thị trường, người được hưởng lợi lại là các doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
_ Thứ hai, hạn ngạch có thể làm cho các doanh nghiệp kinh
doanh nhập khẩu biến thành những nhà độc quyền. Và do đó họ có thể
áp dụng chế độ giá độc quyền và hưởng lợi nhuận không chính đáng.
Hạn ngạch làm hạn chế số lượng nhập khẩu của các doanh
nghiệp. Với mức cung thấp, giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện
thương mại tự do. Vì vậy, nếu tính về kết quả thu được từ việc bán
một đơn vị hàng hoá nhập khẩu ở thị trường nội địa thì các doanh
nghiệp này có kết quả kinh doanh khá cao. Tuy nhiên, đó là xét theo
góc độ lợi ích trước mắt, về lâu dài thì không có lợi cho doanh nghiệp
vì quy mô của doanh nghiệp không thể phát triển một cách tối đa
được. Hạn ngạch cho biết trước số lượng hàng nhập khẩu, từ đó các
doanh nghiệp có thể tự chủ đưa ra các chiến lược kinh doanh cụ thể
19
nhằm nâng cao đến mức tối đa hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của
doanh nghiệp.
3.2.5. Ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng
Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đang ngày càng khẳng
định được vai trò và tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc
dân, đặc biệt trong các hoạt động ngoại thương. Sự phát triển nhanh
chóng, hiện đại của hệ thống ngân hàng có tác dụng rất lớn đến việc
quản lý, cung cấp vốn, thanh toán của doanh nghiệp. Các quan hệ uy
tín, nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng đã tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu bảo đảm về mặt lợi
ích. Đồng thời, do có lòng tin với ngân hàng mà các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh,
cho vay với khối lượng vốn lớn đáp ứng kịp thời cho các hoạt động
kinh doanh của mình, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt
được những cơ hội kinh doanh.
3.2.6. Ảnh hưởng của hệ thống giao thông vận tải và liên lạc
Sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc và giao thông vận
tải có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động kinh doanh nhập khẩu của
doanh nghiệp. Nó đã đơn giản hoá thủ tục, nâng cao tính kịp thời,
nhanh gọn của công tác xuất nhập khẩu.
Sự phát triển của các phương tiện giao thông vận tải là điều kiện
thuận lợi để vân chuyển hàng hoá, hiện đại hoá các phương tiện vận
chuyển, bỗ xếp,… góp phần đẩy nhanh hoàn thành các khâu của quá
trình nhập khẩu. Điều này còn có thể giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc
độ quay vòng của vốn kinh doanh, giảm các chi phí hao hụt không cần
thiết.
3.2.7. Ảnh hưởng bởi các chính sách của chính phủ
20
- Xem thêm -