LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, thu nhập quốc
dân mỗi năm một tăng cao, thu nhập bình quân đầu người mỗi năm
một gia tăng, đồng thời nền kinh tế cũng hoạt động sôi động và khốc
liệt hơn. Do đó để đứng vững trong nền kinh tế mang đầy tính cạnh
tranh khốc liệt này là một điều hoàn toàn không hề đơn giản đối với
một đơn vị kinh doanh, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đã quen
với sự bao cấp của Nhà nước. Trước tình hình đó, nhiều doanh nghiệp
đã không trụ nổi và đã bị phá sản. Nhưng bên cạnh đó vẫn có không ít
các doanh nghiệp không chỉ đứng vững trong thị trường mà còn đưa ra
được những biện pháp hữu hiệu làm tăng doanh thu hàng năm cho
doanh nghiệp, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên, góp phần
thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, thúc đẩy
sự tăng trưởng của nước nhà. Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập
khẩu (PROSIMEX) – Bộ Thương mại là một trong các doanh nghiệp
đó. Đây là doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực
kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong những năm qua Công ty đã luôn
phát triển và tạo uy tín tốt với các bạn hàng trong và ngoài nước, và
nhập khẩu đã góp phần không nhỏ vào sự thành công này của Công
ty. Doanh thu bán hàng nhập khẩu hàng năm chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng doanh thu của toàn Công ty (70%) do đó nhập khẩu là một lĩnh
vực thực sự quan trọng của toàn Công ty.
Để đánh giá một cách chính xác tình hình và vai trò của hoạt
động nhập khẩu của Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu em
1
xin chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty Sản xuất Kinh
doanh xuất nhập khẩu (PROSIMEX) - Bộ Thương mại" làm đề tài
cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo người trực tiếp hướng dẫn em
trong quá trình thực tập và làm khóa luận. Em cũng xin cảm ơn các cô
chú trong Công ty Prosimex, những người đã giúp đỡ em rất nhiều
trong thời gian thực tập tại Công ty. Do hạn chế về khả năng bản thân
và thời gian nghiên cứu nên bản luận văn này còn nhiều thiếu sót. Em
rất mong nhận được sự chỉ bảo góp ý và giúp đỡ của các thầy cô giáo
cùng toàn thể các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn !
2
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ SỞ VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
NHẬP KHẨU
I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập
khẩu
1.1. Khái niệm
Nhập khẩu là khâu cơ bản của hoạt động ngoại thương. Nhập
khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán diễn ra trên phạm vi toàn thế
giới. Nhập khẩu không chỉ là hoạt động buôn bán riêng lẻ mà là một
hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có tổ chức bên
trong và bên ngoài. Nhập khẩu là thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, đặc biệt trong tình
hình thế giới hiện nay xu hướng liên kết toàn cầu và khu vực làm cho
mức độ ảnh hưởng, tác động của từng quốc gia đối với nhau và của
từng khu vực kinh tế thế giới ngày một tăng.
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia,
vì vậy nó phức tạp hơn mua bán trong nước: Mua bán trung gian
chiếm tỷ trọng lớn; đồng tiền thanh toán là ngoại tệ, thường là ngoại tệ
mạnh; hàng hoá phải chuyển qua biên giới, cửa khẩu của quốc gia
khác; hoạt động buôn bán phải tuân theo những tập quán, thông lệ
quốc tế cũng như địa phương.
Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là có được hiệu quả cao từ
việc nhập khẩu vật tư hàng hoá... phục vụ cho quá trình tái sản xuất
3
mở rộng và nâng cao đời sống trong nước, đồng thời đảm bảo sự phát
triển liên tục, nâng cao năng suất lao động, bảo vệ các ngành sản xuất
ở trong nước, giải quyết sự khan hiếm ở thị trường nội địa. Mặt khác
thông qua thị trường nhập khẩu đảm bảo sự phát triển ổn định những
ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong
nước chưa đảm bảo nguyên liệu cho chúng, tạo những năng lực mới
cho sản xuất, khai thác thế mạnh của quốc gia mình, kết hợp hài hoà
có hiệu quả nhập khẩu và cán cân thanh toán.
1.2. Đặc điểm
Nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia trên thế
giới. Hoạt động buôn bán phát triển theo những tập quán thông lệ
quốc tế, giao dịch buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau.
Thương mại quốc tế có quan hệ trực tiếp đến quan hệ chính trị
các nước nhập khẩu và các nước xuất khẩu, vì vậy hoạt động nhập
khẩu là cơ hội để doanh nghiệp của các nước khác nhau có mối quan
hệ làm ăn lâu dài, nhập khẩu là hoạt động lưu thông hàng hoá, dịch vụ
giữa các quốc gia. Vì vậy nó thường xuyên bị chi phối bởi các chính
sách luật pháp của mỗi quốc gia. Nhà nước quản lý hoạt động nhập
khẩu thông qua các công cụ như: Chính sách thuế, hạn ngạch, phụ
thu,... và các văn bản pháp luật, các quy định danh mục hàng hoá được
phép nhập khẩu.
2. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
4
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập
khẩu tác động trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong
nước.
Nhập khẩu là một nghiệp vụ của hoạt động ngoại thương. Nó là
việc mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu
trong nước hoặc tái sản xuất trong nước. Nhập khẩu thể hiện mối liên
hệ không thể thiếu giữa các nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh
tế thế giới.
Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không thể
sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu
còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất
trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu.
Trong điều kiện kinh tế nước ta, vai trò quan trọng của nhập
khẩu được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
- Bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế đảm bảo
phát triển kinh tế cân đối ổn định.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân
dân. Ở đây nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về
hàng tiêu dùng, vừa phải đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm
ổn định cho người lao động.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác
động này được thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất
hàng hoá xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hàng hoá xuất
khẩu Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là các nước nhập khẩu.
5
- Nhập khẩu tạo thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ, làm
đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng, quy cách, cho
phép thoả mãn hơn nhu cầu trong nước.
Để phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu cần phải:
- Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào các hoạt
động dưới sự quản lý của nhà nước.
- Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu,
nghĩa là không chỉ chạy theo mục đích lợi nhuận mà bỏ qua mục đích
kinh tế xã hội.
- Đảm bảo nguyên tắc ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước
ngoài. Trong hoạt động cần phải chú ý tạo uy tín và không chỉ với các
nước trong khu vực và với các nước khác trên thế gới trên cơ sở tôn
trọng, bình đẳng, cùng có lợi.
3. Các hình thức nhập khẩu
3.1. Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một
doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập
khẩu một số loại hàng hoá nhưng không có quyền tham gia xuất nhập
khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp
giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình.
Bên nhận uỷ thác được hưởng phần trăm thù lao do hai bên thoả thuận
gọi là phí uỷ thác.
Trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp nhận uỷ thác
không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải nghiên cứu
thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ
6
thác để tìm cách giao dịch với bạn hàng nước ngoài khi có tổn thất
phát sinh.
Khi nhận uỷ thác thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu (nhận uỷ
thác) phải lập hai hợp đồng:
+ Một hợp đồng nua bán hàng hoá với nước ngoại gọi là hợp
đồng ngoại thương.
+ Một hợp đồng giữa hai bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác được
gọi là hợp đồng nội thương.
Khi tiến hàng nhận uỷ thác thì đại diện các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được
tính doanh số, không phải tính thuế giá trị gia tăng (VAT).
3.2. Nhập khẩu tái xuất
Là hoạt động nhập hàng nhưng không phải để tiêu dùng trong
nước mà để xuất khẩu sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận.
Nhưng hàng hoá nhập khẩu về này không được qua xử lý hay chế biến
ở nước tái xuất. Như vậy nhập tái xuất luôn thu hút cùng ba nước
tham gia là nước nhập khẩu, nước tái xuất và nước xuất khẩu.
Hoạt động nhập khẩu tái xuất có những đặc điểm sau đây:
+ Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn
hàng nhập và bạn hàng xuất, đảm bảo sao cho có thể thu được số tiền
lớn hơn tổng chi phí đã bỏ ra để tiến hành hoạt động.
+ Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng: một hợp
đồng xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu, giữa chúng có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau, hợp đồng nhập khẩu là cơ sở để thực hiện hợp
đồng xuất khẩu; không phải chịu thuế xuất nhập khẩu đối với mặt
hàng kinh doanh nhưng phải chịu thuế VAT.
7
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch
xuất nhập khẩu, doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu.
+ Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển qua nước tái xuất mà
có thể được chuyển thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu
(nước thứ ba) còn gọi là phương thức chuyển khẩu nhưng tiền trả phải
luôn do người tái xuất thu của người nhập khẩu, chỉ giữ lại phần
chênh lệch giữa số tiền xuất khẩu và số tiền nhập khẩu. Ngoài ra nhiều
khi người tái xuất còn thu đựoc nhiều lợi tức về tiền hàng do thu
nhanh trả chậm.
Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín
dụng giáp lưng ( Back to Back L/C).
3.3. Nhập khẩu đổi hàng
Nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ
chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với
xuất khẩu, thanh toán ở đây không phải bằng tiền mà bằng hàng hoá.
Mục đích ở đây không phải thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn
nhằm để xuất được hàng hoá, thu lãi từ hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động nhập khẩu đổi hàng có những đặc điểm sau đây:
+ Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến
hành cùng đồng thời hoạt động nhập và xuất, do đó có thể thu lãi từ cả
hai hoạt động này.
+ Hàng hoá xuất nhập tương đương nhau về mặt giá trị, tính quý
hiếm, giá cả và điều kiện giao hàng.
+ Bạn hàng bán cũng là bạn hàng mua.
8
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch
nhập và kim ngạch xuất, doanh số tiêu thụ trên cả hàng hoá xuất và
hàng hoá nhập.
+ Biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng có thể là:
- Dùng thư tín dụng đối ứng (Recipocal Letter of Credit): Đây là
một loại L/C mà trong nội dung của nó có điều chỉnh quy định: L/C
này chỉ có hiệu lực khi người hưởng mở một L/C khác có kim ngạch
tương đương.
- Phạt về việc giao thiếu hay giao chậm.
3.4. Nhập khẩu tự doanh
Hoạt động nhập khẩu tự doanh là hoạt động nhập khẩu độc lập
của một doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu thị
trường trong nước và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí, chính
sách, luật pháp của quốc gia cũng như quốc tế.
Hoạt động nhập khẩu tự doanh có những đặc điểm sau đây:
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải chịu trách nhiệm toàn bộ
các hoạt động của mình. Vì thế nó đòi hỏi phải có sự xem xét kỹ
lưỡng mọi vấn đề từ khâu nghiên cứu thị trường đầu vào, đầu ra cho
đến việc ký kết thực hiện hợp đồng, bán hàng thu tiền về... Trong hợp
đồng này, doanh nghiệp phải tự bỏ vốn và phải cân nhắc các khoản
thu chi để đảm bảo kinh doanh có lãi.
+ Khi nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp xuất nhập khẩu được
tính kim ngạch xuất nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hoá thì được tính
doanh số và chịu thuế giá trị gia tăng (VAT).
+ Thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại
thương để giao dịch với bên nước ngoài. Còn các hợp đồng bán hàng
9
trong nước thì sau khi hàng về sẽ lập sau hoặc bán với hình thức khác
như bán buôn.
3.5. Nhập khẩu liên doanh
Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một
cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) phối hợp cùng nhau để tiến hành giao
dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động
nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất
cho cả hai bên (các bên) cùng phân chia lỗ lãi tuỳ theo trách nhiệm
của mỗi bên.
Hoạt động nhập khẩu liên doanh có những đặc điểm sau đây:
+ So với nhập khẩu tự doanh thì ở loại hình này các doanh
nghiệp ít chịu rủi ro hơn bởi vì mỗi doanh nghiệp tham gia liên doanh
chỉ phải góp một phần vốn nhất định. Quyền hạn và trách nhiệm của
mỗi bên chỉ được phân bổ dựa trên phần vốn góp đó. Rủi ro (nếu có)
sẽ được san sẻ cho các bên và như thế các doanh nghiệp thành viên
phải chịu phần rủi ro ít hơn. Việc phân chia chi phí, lỗ lãi sẽ được dựa
trên phần vốn góp và các thoả thuận giữa các nước với nhau.
+ Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu
sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi tiêu thụ hàng hoá thì
được tính doanh số trên giá trị hàng hoá nhập theo tỷ lệ vốn góp của
mình đồng thời chịu mọi khoản thuế trên phần doanh số đó.
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải lập ra hai hợp
đồng:
- Một hợp đồng ngoại thương mua hàng với nước ngoài.
10
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất
thiết là phải Nhà nước).
Sự phân chia như trên đây là căn cứ vào chủ thể của hoạt động
nhập khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán trong hoạt động
này thì có thể là mua bán thanh toán bằng hàng. Mua bán tiền-hàng là
cách thông thường, truyền thống. Thanh toán bằng hàng (còn gọi là
buôn bán đối lưu) là một hình thức còn tương đối mới mẻ với chúng ta
và trong phạm vi ở đây cũng nên tìm hiểu hình thức này.
3.6. Một số hình thức khác
+ Tạm xuất tái nhập (qua gia công sửa chữa ở nước ngoài).
+ Nhận nguyên vật liệu, giao sản phẩm gia công quốc tế.
+ Dịch vụ kiểm tra và chuyển giao công nghệ mới (thuê chuyên
gia).
II. HIỆU QUẢ KINH DOANH VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ
1. Hiệu quả kinh doanh
1.1. Khái niệm, bản chất hiệu quả kinh doanh
1.1.1. Khái niệm
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm hiệu quả kinh doanh.
Có quan điểm cho rằng: "Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không
thể tăng sản lượng của một lượng hàng hoá mà không cắt giảm sản
lượng của một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm
trong giới hạn khả năng sản xuất của nó". Thực chất quan điểm này đã
đề cập tới khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản
xuất xã hội. Trên góc độ này rõ ràng phân bổ các nguồn lực kinh tế
sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả
năng sản xuất làm cho nền kinh tế có hiệu quả và rõ ràng xét trên
11
phương diện lý thuyết thì đây là mức hiệu quả cao nhất mà mỗi nền
kinh tế có thể đạt được trên giới hạn năng lực sản xuất của doanh
nghiệp.
Một số nhà quản trị học lại quan niệm hiệu quả kinh doanh được
xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt
được kết quả đó. Manfred Kuhn cho rằng: Tính hiệu quả được xác
định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí
kinh doanh.
Quan điểm khác lại cho rằng: Hiệu quả là một phạm trù kinh tế,
nó xuất hiện và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội xã hội chủ
nghĩa. Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần
thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục đích nhất
định.
Trong những hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau thì
bản chất của phạm trù hiệu quả và những yếu tố hợp thành phạm trù
hiệu quả vận động theo những khuynh hướng khác nhau.
Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu về tư liệu
sản xuất và do vậy quyền lợi về kinh tế, chính trị... đều dành cho nhà
tư bản. Chính vì thế việc phấn đấu tăng hiệu quả kinh doanh thực chất
là đem lại lợi nhuận nhiều hơn nữa cho nhà tư bản nhằm nâng cao thu
nhập cho họ, trong khi thu nhập của người lao động có thể thấp hơn
nữa. Do vậy, việc tăng chất lượng sản phẩm không phải là để phục vụ
trực tiếp người tiêu dùng mà để thu hút khách hàng nhằm bán được
ngày càng nhiều hơn và qua đó thu được lợi nhuận lớn hơn.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phạm trù hiệu quả vốn tồn tại vì
sản phẩm sản xuất xã hội sản xuất ra vẫn là hàng hoá. Do các tài sản
12
đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, toàn dân và tập thể, hơn nữa
mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng khác mục đích của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục đích của nền sản xuất xã hội chủ
nghĩa là đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong
xã hội nên bản chất của phạm trù hiệu quả cũng khác với tư bản chủ
nghĩa.
Xét trên bình diện các quan điểm kinh tế học khác nhau cũng có
nhiều ý kiến khác nhau về hiểu như thế nào về hiệu quả kinh doanh.
- Nhà kinh tế học Adam Smith cho rằng: "Hiệu quả là kết quả
đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá".
Như vậy, hiệu quả được đồng nghĩa với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt
động kinh doanh, có thể do tăng chi phí mở rộng sử dụng nguồn lực
sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì theo
quan điểm này doanh nghiệp cũng đạt hiệu quả.
- Quan điểm nữa cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là tỷ lệ so sánh
tương đối giữa kết quả và chi phí để đạt được kết quả đó. Ưu điểm của
quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả
kinh tế. Tuy nhiên chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất
giữa kết quả và chưa phản ánh được hết mức độ chặt chẽ của mối liên
hệ này.
- Quan điểm khác nữa lại cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là
mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã
hội cho rằng quỹ tiêu dùng với ý nghĩa là chỉ tiêu đại diện cho mức
sống của mọi người trong các doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả kinh doanh". Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu
của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống
13
vật chất và tinh thần cho người dân. Nhưng khó khăn ở đây là phương
tiện để đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó.
Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả
kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
(nhân tài, vật lực, tiền vốn...) để đạt được mục tiêu xác định. Trình độ
lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh gia trong mối quan hệ
với kết quả tạo ra để xem xét xem với mỗi sự hao phí nguồn lực xác
định có thể tạo ra ở mức độ nào. Vì vậy, có thể mô tả hiệu quả kinh
doanh bằng các công thức chung nhất sau đây:
K
H=
C
Trong đó:
H: Hiệu quả kinh doanh
K: Kết quả đạt được
C: Hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đó.
Hiệu quả kinh doanh theo khái niệm rộng là một phạm trù kinh
tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp. Như vậy cần phân định sự khác nhau và mối liên hệ
giữa "kết quả" và "hiệu quả".
Bất kỳ hành động nào của con người nói chung và trong kinh
doanh nói riêng đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích cụ
thể nào đó, kết quả đạt được trong kinh doanh mà cụ thể là trong lĩnh
vực sản xuất, phân phối lưu thông mới chỉ đáp ứng được phần nào tiêu
dùng của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, kết quả đó được tạo ra ở mức
độ nào, với giá nào là vấn đề cần xem xét vì nó phản ánh chất lượng
của hoạt động tạo ra kết quả. Mặt khác nhu cầu tiêu dùng của con
14
người bao giờ cũng có xu hướng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm
được nhiều nhất. Vì vậy nên khi đánh giá hoạt động kinh doanh tức là
đánh giá chất lượng của hoạt động kinh doanh tạo ra kết quả mà nó có
được.
Như vậy, hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh: So sánh
giữa đầu vào và đầu ra, so sánh giữa chi phí kinh doanh bỏ ra và kết
quả kinh doanh thu được. Đứng trên góc độ xã hội, chi phí xem xét
phải là chi phí xã hội, do có sự kết hợp của các yếu tố lao động, tư liệu
lao động và đối tượng lao động theo một tương quan cả về lượng và
chất trong quá trình kinh doanh để tạo ra sản phẩm đủ tiêu chuẩn cho
tiêu dùng....
Tóm lại, hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt
động kinh doanh, trình độ nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá
trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào tốc độ biến động của
từng nhân tố.
1.1.2. Bản chất
Từ khái niệm về hiệu quả nêu ở trên đã khẳng định bản chất của
hiệu quả kinh doanh là phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực
của doanh nghiệp để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội và nó
chính là hiệu quả của lao động xã hội được xác định trong mối tương
quan giữa lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với lượng hao phí
lao động xã hội bỏ ra. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải
được xem xét một cách toàn diện cả về không gian và thời qian, cả về
mặt định tính và định lượng. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh
nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không được làm
15
giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ, chu kỳ kinh doanh
tiếp theo. Điều đó đòi hỏi bản thân doanh nghiệp không được vì lợi
ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Trong thực tế kinh doanh,
điều này dễ xảy ra khi con người khai thác sử dụng nguồn tài nguyên
thiên nhiên, môi trường và cả nguồn lao động. Không thể coi tăng thu
giảm chi là có hiệu quả khi giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc các
chi phí cải tạo môi trường, đảm bảo môi trường sinh thái, đầu tư cho
giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực....
Hiệu quả kinh doanh chỉ được coi là đạt được một cách toàn
diện khi hoạt động của các bộ phận mang lại hiệu quả không ảnh
hưởng đến hiệu quả chung ( về mặt định hướng là tăng thu giảm chi ).
Điều đó có nghĩa là tiết kiệm tối đa các chi phí kinh doanh và khai
thác các nguồn lực sẵn có làm so đạt được kết quả lớn nhất.
2.1 Phân loại hiệu quả kinh doanh
2.1.1 Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội
của nền kinh tế quốc dân
Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả kinh doanh thu được từ
các hoạt động thương mại của từng doanh nghiệp kinh doanh. Biểu
hiện chung của hiệu quả kinh doanh cá biệt là lợi nhuận mà mỗi doanh
nghiệp đạt được.
Hiệu quả kinh tế - xã hội mà hoạt động kinh doanh đem lại cho
nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của nó vào việc phát triển sản
xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ
ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời
sống nhân dân.
16
Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có
quan hệ nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc
dân chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các
doanh nghiêp. Mỗi doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế,
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sẽ đóng góp vào hiệu quả chung
của nền kinh tế. Ngược lại, tính hiệu quả của bộ máy kinh tế sẽ là tiền
đề tích cực, là khung cơ sở cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp đạt kết quả cao. Đó chính là mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng, giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể. Tính hiệu quả của nền
kinh tế xuất phát từ chính hiệu quả của mỗi doanh nghiệp và một nền
kinh tế vận hành tốt là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hoạt
động và ngày một phát triển.
Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình các doanh nghiệp
phải thường xuyên quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo
lợi ích riêng hài hoà với lợi ích chung. Về phía các cơ quan quản lý
nhà nước, với vai trò định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế cần
có các chính sách tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể hoạt
động đạt hiệu quả cao nhất trong khả năng có thể của mình.
2.1.2 Hiệu quả chi phí bộ phận và hiệu quả chi phí tổng hợp
Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn liền với môi
trường kinh doanh của nó nhằm giải quyết những vấn đề then chốt
trong kinh doanh như: Kinh doanh cái gì? Kinh doanh cho ai? Kinh
doanh như thế nào và chi phí bao nhiêu?...
Mỗi doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình
trong những điều kiện riêng về tài nguyên, trình độ trang thiết bị kỹ
thuật, trình độ tổ chức, quản lý lao động, quản lý kinh doanh mà Paul
17
Samuelson gọi đó là "hộp đen" kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Bằng khả năng của mình họ cung ứng cho xã hội những sản phẩm với
chi phí cá biệt nhất định và nhà kinh doanh nào cũng muốn tiêu thụ
hàng hoá của mình với số lượng nhiều nhất. Tuy nhiên, thị trường
hoạt động theo quy luật riêng của nó và mọi doanh nghiệp khi tham
gia vào thị trường là phải chấp nhận “luật chơi” đó. Một trong những
quy luật thị trường tác động rõ nét nhất đến các chủ thể của nền kinh
tế là quy luật giá trị. Thị trường chỉ chấp nhận mức hao phí trung bình
xã hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá sản phẩm. Quy
luật giá trị đã đặt tất cả các doanh nghiệp với mức chi phí cá biệt khác
nhau trên một mặt bằng trao đổi chung, đó là giá cả thị trường.
Suy đến cùng, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội, nhưng đối
với mỗi doanh nghiệp mà ta đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh
thì chi phí lao động xã hội đó lại được thể hiện dưới các dạng chi phí
khác nhau: giá thành sản xuất, chi phí sản xuất Bản thân mỗi loại chi
phí này lại được phân chia một cánh tỷ mỷ hơn. Vì vậy, khi đánh giá
hiệu quả kinh doanh không thể không đánh giá hiệu quả tổng hợp của
các loại chi phí trên, đồng thời cần thiết phải đánh giá hiệu quả của
từng loại chi phí hay nói cánh khác là đánh giá hiệu quả của chi phí bộ
phận.
2.1.3 Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối
Việc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích cơ bản:
Một là, thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các dạng chi phí
khác nhau trong hoạt động kinh doanh.
Hai là, để phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác
nhau trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó.
18
Từ hai mục đích trên mà người ta phân chia hiệu quả kinh doanh
ra làm hai loại:
Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng
phương án kinh doanh cụ thể bằng cánh xác định mức lợi ích thu được
với lượng chi phí bỏ ra.
Hiệu quả tương đối được xác định bằng cánh so sánh các chỉ tiêu
hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau, hay chính là mức
chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án.
Việc xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả
tương đối (so sánh). Tuy vậy, có những chỉ tiêu hiệu quả tương đối
được xác định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối.
Chẳng hạn, việc so sánh mức chi phí của các phương án khác nhau để
chọn ra phương án có chi phí thấp nhất thực chất chỉ là sự so sánh
mức chi phí của các phương án chứ không phải là việc so sánh mức
hiệu quả tuyệt đối của các phương án.
2.1.4 Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài
Căn cứ vào lợi ích nhận được trong các khoảng thời gian dài hay
ngắn mà người ta phân chia thành hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu
dài. Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong một thời gian
ngắn. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong một thời gian
dài. Doanh nghiệp cần phải tiến hành các hoạt động kinh doanh sao
cho nó mang lại cả lợi ích trước mắt cũng như lâu dài cho doanh
nghiệp. Phải kết hợp hài hoà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, không
được chỉ vì lợi ích trước mắt mà làm thiệt hại đến lợi ích lâu dài của
doanh nghiệp
2. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
19
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, do đó quan điểm về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
của doanh nghiệp cũng dựa trên quan điểm hiệu quả kinh doanh nói
chung, hay hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là mức độ tiết kiệm chi phí
và mức tăng hiệu quả kinh tế tính riêng cho hoạt động kinh doanh
nhập khẩu hay nói cách khác nó phản ánh trình độ sử dụng nguồn
nhân lực để đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất.
Từ khái niệm trên có thể đưa ra công thức đánh giá hiệu quả
kinh doanh nhập khẩu:
- Dạng thuận:
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu = Kết quả đầu ra/Chi phí đầu
vào
Chỉ tiêu này biểu thị mỗi đơn vị đầu vào có khả năng tạo ra bao
nhiêu đơn vị đầu ra.
- Dạng nghịch:
Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu = Chi phí đầu vào/Kết quả đầu ra
Chỉ tiêu này cho biết để có một đơn vị đầu ra cần bao nhiêu đơn
vị đầu vào.
Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như giá trị tổng sản
lượng, doanh thu thuần, lợi tức gộp... Yếu tố đầu vào bao gồm: lao
động, đối tượng lao động, vốn kinh doanh...
Bản chất của hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là nần cao năng
suất lao động xã hội và tiết kiệm nguồn lực xã hội tính riêng cho hoạt
động nhập khẩu. Đây là hai mặt của mối quan hệ mật thiết của vấn đề
hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu, gắn liền với hai quy luật
tương ứng của nền sản xuất xã hội là quy luật tăng năng suất lao động
20
- Xem thêm -