LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đều biết rằng, hoạt động xuất khẩu có vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với
Việt Nam, xuất khẩu hàng hoá đang trở thành một vấn đề hết sức
cấp thiết cho sự Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước, cũng như
góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Thông qua hoạt động xuất
khẩu Việt Nam có thể tận dụng được các tiềm năng sẵn có để sản
xuất ra các loại hàng hoá phục vụ cho việc trao đổi buôn bán với
các quốc gia khác để thu ngoại tê. Với ngoại tệ thu được tử hoạt
động xuất khẩu, chúng ta có thể mua sắm các loại hàng hoá cần thiết
từ các nước trên thế giới nhằm phục vụ cho quá trình Công nghiệp
hoá- Hiện đại hoá cũng như thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt của
nhân dân. Chính vì vậy hoạt động xuất khẩu có vai trò hết sức quan
trọng và trong Đại hội Đảng lần thứ VI một lần nữa khẳng định việc
sản xuất hàng xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế quan
trọng trong thời kỳ đổi mới của nước ta (ba chương trình đó là: sản
xuất lương thực, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất
khẩu.). Từ đó đến nay, vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu cũng như các
hoạt động liên quan đến xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam đang trở
thành một vấn đề được nhiều người quan tâm với mục đích tìm ra
các biện pháp hữu hiệu nhất để đưa hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam ngày càng có hiệu quả. Bởi vì, thực tiễn hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam cho thấy bên cạnh một số thành tựu đạt được chúng ta
cũng đang gặp không ít những khó khăn trong hoạt động này.
1
Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp làm thế nào để tiêu thụ sản
phẩm một cách hiệu quả nhất vì nó liên quan đến sự sống còn của
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, đây là công việc hết
sức khó khăn trong giai đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế thị trường
ngày càng phát triển, những mặt hàng có lợi thế của chúng ta cung
đã vượt quá cầu đối với một số mặt hàng đồi hỏi doanh nghiệp phải
tìm cho mình các thị trường mới. Khi đã có thị trường mới doanh
nghiệp phải lựa chọn cho mình mặt hang kinh doanh có chất lượng
đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng cộng voí sự chỉ đạo và quản lý tốt
để nắm bắt những diễn biến sôi động của thị trường, xây dựng cho
mình một chiến lược kinh doanh hợp lý vừa đem lại hiệu quả cho
doanh nghệp lại vưa phù hợp với chính sách chiến lược phát triển
chung của đất nước.
Công ty xuất nhập khẩu với Lào - VILEXIM là một doanh
nghiệp ngoại thương nhà nước có chức năng chính là kinh doanh
xuất nhập khẩu tổng hợp các loại hàng hoá. Qua thời gian thực tập
tại Công ty, với sự hiểu biết của mình cùng với sự giúp đỡ của các
thầy cô giáo, các cán bộ trong Công ty và thực tiễn hoạt động của
Công ty tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng quản trị hoạt động xuất khẩu của Công ty
xuất nhập khẩu với Lào - VILEXIM”. Với cơ sở số liệu được lấy
tại Công ty, phương pháp nghiên cứu là dựa trên cơ sở lý luận kết
hợp với thực tế, từ đó rút ra những ý kiến nhận xét và đề xuất các
giải pháp. Nội dung chuyên đề thực tập ngoài phần mở đầu và phần
kết luận có kết cấu gồm ba chương:
2
Chương I
: Cơ sở lý luận chung về quản trị hoật đông xuất
khẩu hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại
Chương II : Phân tích và đánh giá giá Thực trạng hoạt động
xuất nhập khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu với
Lào - VILEXIM.
Chương III : Một số ý kiếnđề xuất nhằm nâng cao chất
lượng quản trị hoạt động xuất khẩu ở Công ty
xuất nhập khẩu với Lào - VILEXIM.
Vì trình độ và thời gian có hạn nên bài viết không tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế nhất định. Tôi mong nhận được sự góp
ý của các thầy cô giáo, của Công ty VILEXIM và bạn đọc.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các
cán bộ khoa Quản tri doanh nghiệp Trường đại học Thương mại ,
bộ môn Quản trị doanh nghiệp Thương mại. Đặc biệt tôi xin bày tỏ
sự biết ơn đến thầy giáo tiến sĩ Trần Hùng, Người đã trực tiếp
hướng dẫn tôi trong quá trình thực tập và viết chuyên đề thực tập.
TÔI XIN CẢM ƠN TOÀN THỂ CÁN BỘ CÔNG NHÂN VIÊN
CỦA CÔNG TY VILEXIM VÌ SỰ GIÚP ĐỠ NHIỆT TÌNH
TRONG QUÁ TRÌNH TÔI THỰC TẬP TẠI CÔNG TY VÀ
XIN CHÚC CÔNG TY GẶT HÁI ĐƯỢC NHIỀU THÀNH
CÔNG.
3
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG
MẠI
I. XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hoá.
Từ sự ra đời của hoạt động thương mại quốc tế có thể nói:
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia
khác nhau trên thế giớithông qua các quan hệ mua bán quốc tế. Hoạt
động thương mại quốc tế là biểu hiện của hình thức quan hệ xã hội
ở phạm vi quốc tế và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế
giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt.
Hoạt động xuất khẩu là một mặt quan trọng của hoạt động
thương mại quốc tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới.
Nó là quá trình bán những hàng hoá của quốc gia đó cho một hay
nhiều quốc gia khác trên thế giới nhằm thu ngoại tệ.
Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn
bán trong nước đều là một qú trình trao đổi hàng hoá( bán hàng), đó
là quá trình thực hiệ giá trị hàng hoá của người sản xuất hoặc người
bán. Tuy nhiên, về hình thức và phạm vi thì hoạt động xuất khẩu có
nhiều đặc điểm khác biệt mà các nhà xuất khẩu cần nhận thấy để có
sự vận dụng hợp lý, các đặc điểm đó là:
4
Thứ nhất, khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước
ngoài. Do đó, khi muốn phục vụ họ, nhà xuất khẩu không thể áp
dụng các biện pháp giống hoàn toàn như khi chinh phục khách hàng
trong nước. Bởi vì, giữa hai loại khách hành này có nhiều điểm khác
biệt về ngôn ngữ, lối sống, mức sống, phong tục tập quán và cách
thức thoả mãn nhu cầu của khách hàng nước ngoài để đưa ra những
hàng hoá phù hợp.
Thứ hai, thị trường trong kinh doanh xuất khẩu thường phức tạp
và khó tiếp cận hơn thị trường kinh doanh trong nước. Bởi vì thị
trường xuất khẩu vượt qua phạm vi biên giới quốc gia nên về mặt
địa lý thì nó ở cách xa hơn, phức tạp hơn, có nhiều nhân tố ràng
buộc hơn.
Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu thường là
mua bán qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có
hiệu quả.
Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như
thanh toán vận chuyển, ký kết hợp đồng… đều phức tạp và chứa
đựng nhiều rủi ro. Nói tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng
quan hệ buôn bán trong nước ra nước ngoài, điều này thể hiện sự
phức tạp của nó. Hoạt động xuất khẩu có thể có thể đem lại hiệu quả
cao hơn hoạt động kinh doanh trong nước nhưng cũng chứa đựng
nhiều yếu tố rủi ro hơn.
5
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị
trường.
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia được thực hiện
bởi các đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua
doanh nghiệp ngoại thương. Do vây, thực chất của hoạt động xuất
khẩu hàng hoá của các quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hoá
của các doanh nghiệp ...
Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp
tham gia.
2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân.
Là một nội dung chính của thương mại quốc tế và là hoạt động
đầu tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò
đặc biệt quan trọng trong qúa trình phát triển kinh tế của từng quốc
gia cũng như trên toàn thế giới. Nó là một trong những nhân tố cơ
bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn lớn chủ yếu cho nhập khẩu,
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ở các nước phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự
tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy
động từ nước ngoài được coi là nguồn vốn chủ yếu của họ trong quá
trình phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc cơ hội đầu tư hoặc
vay nợ từ nước ngoài và quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và
người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là
nguồn chính để đảm bảo nước này có thể trả nợ được.
6
Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản
xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt
động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản
xuất và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế :
- Coi thị trường là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu.
Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát
triển.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp
phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế nhờ quy mô.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào
cho sản xuất mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt
động thương mại quốc tế cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả
các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiêù lần so với khả năng sản
xuất của quốc gia đó.
+ Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ
thuật công nghệ từ các quốc gia phát triển nhằm tạo điều kiện hiện
đại hoá nền kinh tế nội địa và tạo năng lực cho sản xuất mới.
+ Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa, tăng
cường hiệu quả sản xuất của tưng quốc gia. Khoa học công nghệ
ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc.
7
Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được
thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản
phẩm này, người ta phải xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước
khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất
thiết phải sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá của mình cần, mà
thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vài loại
mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà
mình cần.
- Một cách nhìn khác lại cho rằn, chỉ sản xuất những hàng hoá
thừa trong tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc
hậu và chậm phát triể, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu
chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp
trong phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất
không có cơ hội phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn
việc làm cải thiện đời sống nhân dân.
Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: xuất khẩu thu hút
hàng triệu lao động thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập
ổn định cho người lao động.
Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng
hoá đáp ứng nhu cầu hàng ngày phong phú và đa dạng của nhân
dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan
hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại có sự tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất
8
khẩu là một hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối
ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tê, bảo
hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế… phát triển theo. Ngược lại sự phát
triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu phát triển.
9
2.2 Đối với doanh nghiệp .
Với bất kỳ một doanh nghiệp nàothì công ác tiêu thụ hàng hoá
cũng là một hoạt động cần thiết để nhằm kết thúc chu kỳ kinh
doanh. Nhờ hoạt động tiêu thụ hàng hoá mà doanh nghiệp mới thu
hồi vốn kinh doanh để tạo nguồn tài chính, bù đắp được chi phí bỏ
ra và có lãi để tiếp tục thực hiện và mở rộng hoạt động kinh doanh.
Tiêu thụ hàng hoá là hoạt động chủ yếu nhất của doanh nghiệp
thương mại. Không có hoạt đông tiêu thụ hàng hoá sẽ không có
doanh nghiệp thương mại.Bởi vậy trong doanh nghiệp thương mại
các hoạt động như: marketing, hậu cần, tài chính... đều là hoạt động
mang tính mang tính hỗ trợ và việc đạt mục tiêu nàyđảm bảo cho
hoạt đông tiêu thụ đạt được mục tiêu đề ra. Tiêu thụ hàng hoá là
hoạt động tạo ra mối quan hểtực tiếp giư2ã doanh nghiệp thương
mại vàkhách hàng của mình trong và ngoài nước. Do đó thông qua
hoạt đông này doanh nghiệp có thể tạo lập được uy tín của mình đối
với khách hàng trong và ngoài nước từ đó nâng cao khả năng cạnh
tranh, mở rông thị phần, tăng thế lực kinh doanh của doanh nghiệp
trên thương trường.
Với các nà quản trị trong doanh nghệp thương mại, hoạt động
tiêu thụ hàng hoá vừa mang tính chất đúng đắn của các quyết định
quả trị như: quyết định về kế hoạch, phương án tiêu thụ, phương
thức xuất khẩu, quyết định về vốn, nhân lực...) cho chúng ta thấy
được kết quả mang lại từ các quyết định thông qua doanh số thu về.
10
Vì vậy, có thể nói hoạt đông tiêu thụ hàng hoá giống như một
tấm gương chiếu dọi mọi hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp,
nó phản ảnh đầy đủ những điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp.
2.3. Một số đặc thù của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá được coi là hoạt đông tiêu thụ hàng hoá ra
thị trường nước ngoài. Việc mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá ra
thị trường nước ngoài góp phần tăng thu ngoại tệ cho doanh nghiệp.
Đông thời cũng tạo cho sự phát triển hạ tầng cơ sở là một mục tiêu
quan trong của chính sách thương mại. Như vậy có thể khẳng định
rằng xuất khẩu hàng hoá là hoạt động bán hàng của doanh nghiệp
vượt ra khỏi biên giới quốc gia thông qua hợp đồng kinh tế đã ký
kết giữa các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế với nhau hay giữa
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế rong nước với tổ chức kinh tế
chính trị của nước ngoài hoặc giữa các chính phủ với nhau.
hoạt động xuất khẩu hàng hoácó những đặc điểm riêng biệt so
với hoạt động tiêu thụ trong nước:
- Chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật như điều ước quóc tế
về thương mại quốc tế, luật các quốc gia có các bạn hàng của
doanh nghiệp, tập quán thương mại quốc tế...
- Các phưong thức giao dịch mua bán trên thị rườngquốc tế rất
phong phú đó là giao dịch thông thường, giao dịch trung gian,
buôn bán đối lưu...
- Mọi hoạt động xuất khẩu phải thông qua hợp đông ngoại
thương bằng các văn bản. Phương thức thanh toán rất đa dạng
có thể bằng thanh toán tín dụng chứn từ hay bằng các phương
11
thứcc khác như nhờ thu, séc bảo chi. séc chuyển khoản. Và
tiền tệ dùng cho thanh toán thường là các ngoại tệ mạnh như
USD, FSF, DEM, GBP,...
- Điều kiện cơ sở giao hàng có rất nhiều hình thức như: FOB,
CIS, CFR, CFA...Ngoài ra, trong kinh doanh quốc tế hoạt
động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động mà quy mô về thị
trường rất rộng, thủ tục phức tạp, thời gian thực hiện lâu. Vì
vậy có thể xẩy ra nhiều rủi ro đối với hàng hoá xuất khẩu. Để
đề phòng rủi ro doanh nghiệp có thể mua bảo hiểmtương ứng.
chi phí mua bảo hiểmcó thể do bên bán hoặc bên mua trả tuỳ
thuộc vào điều khoản ghi trong hợp đồng.
I. NỘI DUNG CỦA QUẢN TRỊ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ Ở CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm quản trị và các chức năng của quản trị
a) khái niệm
Tuỳ theo mục đích gnhiên cứuvà tiếp cận mà khái niệm quả trị
được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo một cách chung nhất
quản trị được hiểu là tổng hợp các hoạt động khác nhau được thực
hiện nhằm mục đích đạt được mục tiêu đã xác định thông qua sự nỗ
lực phấn đáu thực hiện của người khác.
b) Chức năng quản trị
Quản trị có bốn chức năng đó là: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo
và kiểm soát
12
* Hoạch định: Là việc ra quyết định cho các hoạt động cho
tương lai. Nó bao gồm các hoạt động sau:
- Xác định mục tiêu của doanh nghiệp.
- Xác định chính sách, các chương trình và các thủ tục cần thiết
nhằm đạt được mục tiêu đã xác định.
- Xác định các giai đoạn mà doanh nghiệp phải trải qua trong
quá trình tiến tới mục tiêu.
- Xác định các phương tiện cần thiết và cần phải có để đối
tương quản trị đạt được mục tiêu.
Như vậy, hoạc định được hiểu là một quá trình hành đọng trong
hiện tại nhưng hướng tới tương lai.
* Tổ chức: Là việc xác định mô hình, phân công lao động, giao
nhiệm vụ cho mỗi thành viên trong nội bộ đối tượng quản trị. Nó
bao gồm cả việc phân công và giao nhiệm vụ cho mỗi cấp, mỗi
thành viên trong doanh nghiệp để họ thực hiện nhiệm vụ của mình
một cách hiệu quả nhất
* Lãnh đạo: Là toàn bộ những hoạt động được thực hiện nhằm
làm cho đối tượng quản trị vận động và thực hiện mục tiêu đã xác
định, tạo ra bầu sinh khi trong công việc, trong tổ chức. Yếu tố tạo
ra sinh khí được quan tâm là vì nó tồn tại lâu dài, bên lâu là nguồn
gốc tạo nên sức mạnh giúp doanh nghiệp tồn tại. Lãnh đạo bao gồm
các nội dung sau:
- Huấn luyện.
- Các hoạt động duy trì kỷ luật.
- Gây ảnh hưởng hứng thú.
13
- Gây bầu không khí tin cậy và đoàn kết
- Tìm ra các biệnu pháp kích thích người lao đông làm việc với
hiệu suất lao động cao.
* Kiểm soát: Là việc kiểm tra giám sát quá trình vận hành đi
đến mục tiêu.Kiểm soát bao gồm việc thiết lập các tiêu chuẩn đo
lường lượng hoá với các tiêu chuẩn đã đạt được so sánh kết quả đó
với các tiêu chuẩn đã đề ra và tiến hành các hoạt động điều chỉnh
cần thiết trong trường hợp có sự sai lẹch giữa kết quả đạt được với
tiêu chuẩn.
Bất kỳ một nhà quản trị nào cũng cần phải thực hiện đầy đủ bốn
chức năng trên. Giữa các chức năng đó có sự phân biệt tương đối
nhưng lại có mối liên hệ qua lại bổ sung, liên hệ và qui định lẫn
nhau. Trên thực tế, chúng được thực hiện đồng thời đan xen quyện
chặt với nhau và trở thành công việc thường xuyên hàng ngày của
nhà quản trị.
Để thực hiện đầy đủ bốn chức năng này đòi hỏi nhà quản trị phải
có tài năng, khả năng lãnh đạo và cái tài gây hứng thú cho người
khác sẵn sàng làm công tác của mình. Nhiệm vụ của nhà quản trị là
phối hợp mục tiêu của các công sự dưới quyền và các bộ phận trong
tổ chức doanh nghiệp với các mục tiêu chung của doanh nghiệp
2. Nội dung của quản trị xuất khẩu hàng hoá:
Quản trị tiêu thụ hàng hoá nói chung và quản trị hoạt động xuất
khẩu hàng hoá nói riêng trong doanh nghiệp có thể hiểu là hoạt
động quản trị của những người thuộc lực lưỡng bán hàng hay những
người hỗ trợ trực tiếp cho lực lượng bán hàng cho doanh nghiệp.
14
Quản trị xuất khẩu nhằm mục đích làm thế nào để tiêu thụ hàng
hóa ở thị trường nước ngoài một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Từ đó doanh nghiệp thu hồi được vốn kinh doanh để tái đầu tư cho
hoạt động kinh doanh ở qui mô cao hơn với việc sử dụng vốn có
hiệu quả.
Trong doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, quản trị hoạt
động xuất khẩu là một vấn đề quan trọng nhất của công tác quản trị
kinh doanh. Để quản trị xuất khẩu đạt kết quả tốt các nhà quản trị
phải tiến hành công việc sau:
2.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên
đến với bất kỳ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế
giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại
hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, hàng cung ứng giá
cả thị trường. Qua đó giúp các nhà kinh doanh giải quyết được
những vấn đề thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường, khả
năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về
thị trường so sánh, phân tích những thông tin số liệu đó để rút ra kết
luận về xu hướng vận động của thị trường. Những kết luận này sẽ
giúp cho nhà quản lý đưa ra được những nhận định đúng đắn để lập
kế hoạch kinh doanh, kế hoạch marketing.
15
Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng
xâm nhập và mở rộng thị trường. Việc nghiên cứu thị trường được
thực hiện theo hai bước là nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi
tiết thị trường.
- Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp những thông tin về
quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng
đến thị trường như môi trường kinh doanh, các yếu tố ảnh hưởng thị
trường như môi trường kinh doanh, môi trường chính trị, luật pháp,
khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường sinh
thái …
- Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những chi tiết thông tin
về tập quán mua hàng, những thói quen và những ảnh hưởng đến
hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Nghiên cứu thị trường được
tiến hành theo hai phương pháp chính: phương pháp nghiên cứu tại
bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường.
Phương pháp nghiên cứu tại bàn là phương pháp nghiên cứu
bằng cách thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản
công khai và xử lý thông tin đó. Phương pháp nghiên cứu tại hiện
trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực
tiếp, sau đó tiến hành phân tích các thông tin thu thập được. Thông
thường nghiên cứu tại hiện trường bao gồm các công việc sau:
- Phân tích tình hình cung: trước hết cần nắm sơ tình hình cung,
đó là toàn bộ khối lượng hàng hoá đã, đang và có khả năng bán ra
trên thị trường. Cần xem xét giá cả trung bình, sự phân bố hàng hoá
16
và tình hình sản phẩm của công ty đang ở giai đoạn nào trên thị
trường, xem xét tính cạnh tranh của mặt hàng đó.
- Phân tích tình hình cung cầu: Từ những thông tinh về hàng
hoá đang bán trên thị trường cần xác định xem những sản phẩm nào
có thể thương mại hoá được.
Vì vậy cần xác định:
+ Người tiêu dùng là ai, tuổi, giới tính, nghề nghiệp.
+ Lý do mua hàng của khách hàng.
+ Nhịp điệu mua hàng của khách hàng
+ Ai đó có khả năng trở thành người tiêu dùng hàng hoá của
công ty
+Sản phẩm của công ty liệu có kéo dài được chu kỳ sống hay
không.
-Phân tích những điều kiện của thị trường : Phải phân tích cẩn
thận tất cả nhưng điều kiện mà việc thương mại hoá sản phẩm của
công ty có thể gặp
như về cơ chế quản lý, về tài chính, kỹ thuật, về con người và
tâm lý…
- Lựa chọn đối tác buôn bán: Để lựa chọn các đối tác buôn bán
có hiệu quả nên tìm hiểu các nội dung sau:
+ Quan điểm kinh doanh của đối tác
+ Lĩnh vực kinh doanh của đối tác.
+ Khả năng về vốn và cơ sở vật chất của họ
+ Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ
17
+ Những người chịu trách nhiệm trong kinh doanh và phạm vi
trách nhiệm của họ đối với công ty.
2.2.Lập phương án kinh doanh:
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu
tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh phải lập phương án kinh
doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị
nhằm đạt được những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xác
định phương án kinh doanh bao gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức
tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó
khăn.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ điều kiện và phương thức kinh
doanh. Sự lựa chọn này phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân
tích tình hình có liên quan.
- Đề ra mục tiêu cụ thể như sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá
bán là bao nhiêu, thâm nhập vào thị trường nào.
- Đề ra biện pháp và công cụ thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu:
Những biện pháp này bao gồm đầu tư vào sản xuất, cải tiến mẫu mã
bao bì hàng hoá, ký hợp đồng kinh tế, tham gia hội chợ quốc tế, tổ
chức quảng cáo, mở rộng mạng lưới đại lý, lập chi nhánh ở nước
ngoài…
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh tế thông
qua các chỉ tiêu cơ bản như:
+ Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ
+ Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi
18
+ Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn
+ Điểm hoà vôn
2.3. Lựa chọn hình thức xuất khẩu
Thông thường người ta sử dụng các hình thức xuất khẩu sau:
* Xuất khẩu trực tiếp: Là phương thức xuất khẩu trong đó người
mua và người bán có quan hệ trực tiếp với nhau để bàn bạc, thoả
thuận về hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao dịch khách. Người
xuất khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường nước ngoài để tính
toán đầy đủ chi phí đảm bảo kinh doanh xuất khẩu có lãi, đúng
phương hướng chính sachpháp luật của quốc gia và quốc tế.
*Xuất khẩu uỷ thác: Là hoạt động xuất khẩuhình thành giữa một
doanh nghiệp có nhu cầu xuất khẩu mộyt số loại hàng hoá nhưng
không có quyền tham gia quan hệ xuất khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho
một doanh nghiệp khác có chức năng giao dịch thương mại quốc tế
tiến hành xuất khẩu hàng hóa tiến hành theo yêu cầu của mình. Bên
nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán cho bên nhận uỷ thác và được
hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác.
Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu này là doanh nghiệp xuất
khẩu (nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn,không phải xin hạn nghạch
(nếu có) , không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng hoá mà
chỉ đứng ra thay mặt bên uỷ tháckhiếu nại đòi bồi thường khi có tổn
thất về hàng hoá.
*Buôn bán đối lưu: Là phương thức trong đó xuất khẩu kết hợp
chặt chẽ với nhập khẩu, thanh toán trong trường hợp này không
phảo bằng tiền mà bằng hàng hoá, người bán đông thời là người
19
mua. Lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Hoạt động này rất có
lợi bởi cùng một hợp đồng có thể tiến hành cùng một lúc hoạt động
xuất khảu và nhập khẩu. Do đó doanh ngiêp có thể thu lợi từ cả hai
hoạt động này. Hàng hoá xuất và nhập thường tương đương nhau về
giá trị, tính quý hiếm, bạn hàng và người mua là một.
*Tái xuất: Đây là hoạt động nhập vào trong nước nhưng không
phải tiêu thụ tại thị trương nội địa mà để tái xuất sang quốc gia thứ
ba nhằm thu được chênh lệch giá. Những hàng nhập này không
được qua chế biến ở nước tái xuất.
Đặc điểm của hoạt động này là luôn luôn thu hút ba nước: nước
xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Doanh nghiệp tái xuất
phí thanh toán chi phí, ghép nối được bạn hàng nhập khẩu và bạn
hàng xuất khẩu đảm bảo có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi
phí đã bỏ ra để tiến hành hoạt động tái xuất. Có trường hợp hàng
hoá không chuyển về nước tái xuất mà chuyển thẳng từ nước xuất
khẩu đến nước nhập khẩu nhưng tiền trả luôn cho người tái xuất thu
từ nước nhập khẩu trả cho nước xuất khẩu.
*Gia công quốc tế : Là phương thức sản xuất hàng hoá xuất
khẩu trong đó người đặt gia công nước ngoàicung cấp máy móc
thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, phụ liệu hoặc bán thành phẩm theo
mẫu hàng và định mức cho trước. Người nhân gia công ở trong
nước tổ chức quá trính sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách
hàng. Toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho
người đặt gia công để thu tiền gia công.
20
- Xem thêm -