Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn lịch sử lớp 4....

Tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn lịch sử lớp 4.

.PDF
23
12
98

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD & ĐT NGA SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHÂN MÔN LỊCH SỬ Ở LỚP 4B TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA THIỆN Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Thiện SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Lịch sử và Địa lí THANH HÓA, NĂM 2019 MỤC LỤC 1. Mở đầu Trang 1 1.1. Lí do chọn đề tài 1 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 2. Nội dung SKKN 3 2.1. Cơ sở lí luận 3 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN 4 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 5 2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 16 3. Kết luận, kiến nghị 18 3.1. Kết luận 18 3.2. Kiến nghị 18 Tài liệu tham khảo 20 Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được hội đồng đánh giá xếp loại cấp phòng Gd & Đt, cấp sở Gd & Đt và các cấp cao hơn xếp loại từ C trở lên 21 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Bước sang thế kỉ 21, do tốc độ phát triển của xã hội hết sức nhanh chóng với những biến đổi liên tục và sự tăng khối lượng tri thức một cách nhanh chóng, đặc biệt trong các lĩnh vực thông tin truyền thông, công nghệ vật liệu, điện/điện tử tự động hóa, phương pháp dạy học tiếp cận nội dung dần trở nên lạc hậu. Để chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối mặt và đứng vững trước những thách thức của đời sống, vai trò của giáo dục ngày càng trở nên quan trọng. Xu thế thiết kế chương trình theo hướng tiếp cận năng lực được khá nhiều quốc gia quan tâm, vận dụng trong giai đoạn hiện nay. Tiếp cận năng lực chủ trương giúp người học không chỉ biết học thuộc, ghi nhớ mà còn phải biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri thức học được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Nói cách khác phải gắn với thực tiễn đời sống. Nếu như tiếp cận nội dung chủ yếu yêu cầu người học trả lời câu hỏi: Biết cái gì, thì tiếp cận theo năng lực luôn đặt ra câu hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết. Nói cách khác, nói đến năng lực là phải nói đến khả năng thực hiện, là phải biết làm chứ không chỉ biết và hiểu.[1] Dạy học phát triển năng lực học sinh là một xu thế tất yếu của giáo dục. Việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý. Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân. [1] Thế nhưng, một thực trạng dau lòng trong nhiều năm vừa qua là chất lượng dạy học luôn thành vấn đề nóng của dư luận, được nhiều báo đài phản ánh trung thực. Đó là tình trạng hầu hết lớp trẻ không nắm được lịch sử dân tộc, nhiều bài thi ở các cấp học, đặc biệt bài thi tốt nghiệp lớp 12 chỉ được điểm 0, điểm 1.. Tình trạng này thật đáng báo động khi 9 năm học lịch sử ( từ lớp 4 đến lớp 12) mà các em không nắm được gì, hỏi đến nhân vật lịch sử hay sự kiện nào cũng không biết… Bởi vậy, nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học luôn là một trong những vấn đề quan trọng của tất cả các giáo viên đứng lớp trong đó có giáo viên dạy môn lịch sử. Dạy như thế nào, học như thế nào để đạt được hiệu quả học tập tốt nhất là điều mong muốn của tất cả thầy cô giáo chúng ta. Muốn thế phải đổi mới phương pháp, biện pháp dạy và học. Người giáo viên phải tổ chức một cách linh hoạt các hoạt động của học sinh từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc giờ học, từ cách ổn định lớp, ôn bài cũ đến cách học bài mới, củng cố, dặn dò. Những hoạt động đó giúp học sinh tái hiện các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử nhằm lĩnh hội kiến thức, bản chất lịch sử một cách tự giác, chủ động, tích cực, sáng tạo và ngày càng yêu thích, say mê môn học. 1 Vậy làm thế nào để phát huy năng lực tái hiện các sự kiện, hiện tượng, nhân vật, lịch sử của học sinh trong dạy- học lịch sử? Để quá trình hoạt động chung, thống nhất giữa thầy và trò nhịp nhàng sẽ làm cho học sinh nắm vững hơn những tri thức lịch sử, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách cho các em là vấn đề được nhiều giáo viên dạy môn Lịch sử hết sức quan tâm và trăn trở.Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo chủ đề định hướng phát triển năng lực cho học sinh nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với tinh thần học hỏi và chia sẻ với các đồng chí, đồng nghiệp. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích tìm ra các giải pháp để khắc phục những tồn tại, tháo gỡ khó khăn giúp học sinh yêu thích và học tốt hơn môn Lịch sử. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài này nghiên cứu, tổng kết về các giải pháp hiệu quả trong dạy học Lịch sử góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu cơ sở lí luận: Đọc và tìm hiểu các vấn đề lí luận liên quan đến đề tài qua các tài liệu tham khảo - Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh học tập trên lớp qua các buổi học hằng ngày, qua dự giờ đồng nghiệp trong trường. - Phương pháp phỏng vấn: Trực tiếp phỏng vấn giáo viên và học sinh để tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn trong quá trình dạy và học lịch sử - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Điều tra điều tra khảo sát thực tế qua giáo viên chủ nhiệm và học sinh các lớp 4, lớp 5 - Phương pháp thống kê: Thống kê kết quả học tập của học sinh qua hồ sơ sổ sách, qua tổng hợp số liệu các bài khảo sát. 2 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận Dạy học theo tiếp cận trang bị kiến thức là chú trọng vào việc truyền thụ tri thức khoa học theo các môn học đã được quy định trong chương trình dạy học, chú trọng trang bị cho học sinh hệ thống tri thức khoa học khách quan. Cách dạy này chưa chú trọng vai trò chủ thể của người học và khả năng ứng dụng tri thức đã học vào tình huống thực tiễn. Mục tiêu dạy học theo tiếp cận trang bị kiến thức đôi khi không chi tiết và không nhất thiết phải quan sát, đánh giá một cách cụ thể. Việc quản lí chất lượng giáo dục theo cách này chủ yếu tập trung vào nội dung dạy học. Ưu điểm của dạy học tiếp cận trang bị kiến thức là cho học sinh một hệ thống tri thức khoa học. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển toàn diện phẩm chất người học, chú trọng năng lực vận dụng tri thức vào những tình huống thực tiễn. Trong chương trình dạy học phát triển năng lực, mục tiêu học tập thường được mô tả qua các thuộc tính nhân cách chung và các kết quả yêu cầu cụ thể, hay qua hệ thống các năng lực. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. Dựa vào kết quả mong muốn ấy, chương trình đưa ra những hướng dẫn về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học. Cách tiếp cận này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức. Việc quản lí chất lượng giáo dục theo định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, là những năng lực mà người học cần có sau quá trình học tập. Ưu điểm của dạy học phát triển năng lực là tạo điều kiện quản lí chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định, nhấn mạnh năng lực vận dụng của học sinh [1] Nghiên cứu dạy học theo định hướng phát triển năng lực tôi thấy cần chú ý hơn một số nguyên tắc sau: - Chương trình lấy việc học làm gốc, lấy người học làm chủ thể của quá trình dạy học. Để thực hiện được việc rèn luyện năng lực, chương trình được đặt trên nền tảng của một nguyên lý là kiến thức phải được học sinh tự kiến tạo, chứ không phải qua con đường chuyển giao, truyền đạt từ giáo viên. Một lẽ rất tự nhiên là không ai học hộ được người khác. Hơn nữa, mọi lý luận dạy học đều thừa nhận một chân lý là người học chính là kiến trúc sư của kiến thức và năng lực của chính mình. Điểm then chốt của đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nước ta, quyết định sự thành bại của công cuộc đổi mới này là chương trình giáo dục phải lấy người học làm gốc, lấy sự học là điểm xuất phát của mọi quyết định.Mỗi học sinh đều có thể được học những gì mình quyết định. Mỗi học sinh đều có thể được học những gì mình muốn, theo cách mình lựa chọn, theo một lộ trình và tùy theo đặc trưng tâm, sinh lý, hoàn cảnh sống của từng người dưới sự hướng dẫn của giáo viên.Cách thiết kế chương trình giáo dục nói chung, các môn học nói riêng, cách thức tổ chức thực hiện chương trình, phương pháp dạy học môn học, cách kiểm tra - đánh giá… phải tuân thủ nguyên lý này thì mới có thể tạo ra lớp người có năng lực thực sự, có bản sắc riêng, có hoài bão, có tầm nhìn hướng ra thế giới, 3 làm cơ sở để tạo đào tạo nguồn nhân lực có sức cạnh tranh cao phục vụ cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa. [4] - Kiến thức và năng lực bổ sung cho nhau: Kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, những loại kiến thức khác nhau, tạo nguồn để học sinh có được các giải pháp tối ưu hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. - Chỉ dạy học những vấn đề cốt lõi: Rèn luyện năng lực đòi hỏi phải có đủ thời gian, học sinh phải sử dụng nhiều lần, lặp đi lặp lại mới có thể tăng cường năng lực cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.Nếu chương trình tập trung rèn luyện năng lực thì cũng có nghĩa chỉ nên tập trung vào số lượng năng lực chọn lọc và lượng kiến thức tương ứng để học sinh có đủ thời gian rèn luyện, kiến tạo và phát triển những năng lực đó, không dàn trải như trong chương trình giáo dục hiện nay.Việc lựa chọn cách tiếp cận theo năng lực trong trường phổ thông còn làm hàm ý trong thời gian học tập tại trường, học sinh phải được rèn luyện, kiến tạo những năng lực cho phép họ từ kiến tạo những kiến thức, kĩ năng mới để thích nghi với môi trường sống luôn thay đổi sau này. Đây chính là lý do để xác định là các năng lực xuyên suốt chương trình đào tạo với tư cách là công cụ để học tập suốt đời. - Dạy học tích hợp: Thế giới hiện đại có đặc trưng là sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng trong tất cả các lĩnh vực khoa học và đời sống. Do vậy, mức độ năng lực cần thiết để thích ứng với thực tế đó cũng ngày càng tăng.Và dĩ nhiên là những kiến thức đơn giản đơn lẻ được truyền đạt từ giáo viên không còn phù hợp nữa. Phải học tích hợp, học phương pháp luận, học cách kiến tạo kiến thức để rèn luyện khả năng kết hợp các nguồn kiến thức khác nhau, học sinh mới có khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp trong cuộc sống lao động sau này. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Thực trạng chung hiện nay ta thấy một bộ phận không nhỏ lớp trẻ Việt Nam rất mơ hồ về lịch sử nước nhà trong khi lịch sử Trung Quốc lại khá rõ. Điều đó đã làm đau đầu bao nhà nghiên cứu, làm trăn trở bao nhà giáo dục và làm cả xã hội phải lo lắng cho lớp chủ nhân tương lai của đất nước lớn lên mà không biết đến truyền thống, nguồn gốc dân tộc mình. Việc dạy Lịch sử của giáo viên còn chưa đầu tư, thời lượng lại quá ít mà đôi khi còn bị bớt xén để học các môn Toán, Tiếng Việt vì các kiến thức, kĩ năng các môn đó các em còn yếu. Trong tiết dạy giáo viên không có đủ bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, không có máy chiếu và các phương tiên hỗ trợ … nên đa số chỉ “dạy chay”. Mặc dù đa số giáo viên hiện nay đều tâm huyết và có trách nhiệm cao đối với nghề dạy học nhưng khả năng của mỗi người là có hạn và không giống nhau. Một số giáo viên chưa có điều kiện để nắm vững tiến trình lịch sử nước nhà cũng như chương trình Lịch sử 4, 5; chưa có đủ sách vở, đồ dùng, tài liệu và thời gian nghiên cứu, năng lực giảng dạy còn hạn chế, dạy học chưa tập trung phát triển năng lực học sinh nên chưa khơi dậy được hứng thú và nhu cầu học tập cho các em… Việc học Lịch sử của học sinh cũng từ đó mà ảnh hưởng rất nhiều. Chương trình Lịch sử được đưa vào dạy ở Tiểu bắt đầu từ lớp 4. Bướclên lớp 4 là học sinh 4 đã bước sang giai đoạn hai của quá trình giáo dục ở Tiểu học, học sinh được làm quen với các môn học mới như Khoa học, Lịch sử và Địa lí nên các em gặp nhiều bỡ ngỡ và khó khăn, đặc biệt với phân môn Lịch sử. Bên cạnh đó, đa số học sinh lớp 4 của trường Tiểu học Nga Thiện đều thuộc con em gia đình làm nghề nông, điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ văn hoá thấp, đầu tư cho việc học rất hạn chế… Hậu quả là sách vở, đồ dùng học tập của các em thiếu thốn, trong học tập còn nhút nhát, rụt rè, tiếp thu còn chậm và thụ động, thời gian tự học ở nhà quá ít vì các em còn phải tham gia lao động cùng với gia đình. Mà thời lượng dành cho phân môn Lịch sử là còn ít (1 tiết/ tuần) nên học sinh học chưa kịp nhớ đã quên, còn rất mơ hồ về các năm tháng, sự kiện, nhân vật lịch sử. Sau gần 1 tháng tôi tiến hành khảo sát ở hai lớp khối 4 trường Tiểu học Nga Thiện, lớp 4B do tôi chủ nhiệm và thu được kết quả như sau: Nội dung Không có hứng thú với môn học Có hứng thú, yêu thích môn học Chưa nắm được các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử Nắm được các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử Nắm vững các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử Lớp 4A SL 15 12 (Sĩ số 27) Lớp 4B TL (%) SL 55,6 14 45,4 13 (Sĩ số 27) TL (%) 51,9 48,1 14 51,9 13 48,1 12 45,4 11 40,8 1 3,7 3 11,1 Từ bảng số liệu trên, tôi tiến hành tìm hiểu nguyên nhân từ nhiều phía và từ kinh nghiệm bản thân dạy học lớp 4 hơn mười năm nay, tôi thấy nguyên nhân chủ yếu là: Giáo viên dạy học chưa thực sự lấy học sinh làm trung tâm, chưa thực sự tập trung phát triển năng lực hoc sinh, chưa khơi gợi được hứng thú học tập cho các em;hầu hết học sinh chưa chăm học, còn xem nhẹ Lịch sử hoặc có học là để đối phó chứ thực sự chưa yêu thích môn học vì chưa ý thức được tầm quan trọng của nó. Hơn nữa, đa số phụ huynh chưa quan tâm mà phó mặc việc học của con em mình cho giáo viên và nhà trường, sách vở không sắm đủ, chưa hỗ trợ con em học ở nhà…Bởi vậy, học sinh thường xuyên có tình trạng nhầm lẫn kiểu “Râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Trước thực trạng trên, tôi tiến hành đi sâu nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp và áp dụng vào dạy học để giúp đỡ học sinh học tập sao cho hiệu quả nhất. 2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề Trong quá trình giảng dạy ở lớp 4, tôi nhận thấy rằng việc hình thành kiến thức lịch sử để tiến tới phát triển năng lực, bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự cường dân tộc cho mỗi học sinh chính là cái đích của dạy lịch sử mà mỗi giáo viên mong muốn. Giáo viên cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy lịch sử. Vì vậy tôi đã mạnh dạn áp dụng các giải pháp sau: 2.3.1.Bản thân giáo viên cần không ngừng học tập nâng cao trình độ 5 Để dạy đúng, đủ kiến thức Lịch sử 4, trước hết người giáo viên cần nắm được mục tiêu của chương trình, nội dung chương trình sách giáo khoa và phải nắm được tiến trình lịch sử Việt Nam. Nội dung chương trình sách giáo khoa Lịch sử 4 bao gồm những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu phản ánh những cột mốc đánh dấu sự phát triển của các giai đoạn lịch sử, những thành tựu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước (kinh tế, văn hoá, chính trị…) của ông cha ta từ buổi đầu dựng nước và giữ nước đến buổi đầu thời Nguyễn [2]. Vì vậy, người giáo viên muốn dạy hay, dạy giỏi thì còn cần nắm vững chi tiết tiến trình lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước và giữ nước cho tới ngày nay cũng như nắm vững lịch sử nhân loại. Có nắm vững các kiến thức lịch sử thì người giáo viên mới có cái nhìn tổng thể, toàn diện về lịch sử, hiểu được các chặng đường thăng trầm, biến động của đất nước, của thế giới qua các thời kì… và có thể lí giải chính xác nhất những băn khoăn, thắc mắc của học sinh. Một điểm quan trọng nữa là người giáo viên phải không ngừng bồi dưỡng chuyên môn nhiệp vụ, tiếp cận, học hỏi, đổi mới các phương pháp dạy học nhằm mục đích tập trung phát triển năng lực người học, đó là cái đích mà mỗi giáo viên cần xác định hướng tới. Để thực hiện tốt các nội dung trên, người giáo viên phải có quá trình học hỏi, tích luỹ lâu dài qua các cấp học, ngành học đã được tham gia, qua các buổi học chuyên đề, luôn luôn tự học tự nghiên cứu, ôn tập bằng nhiều hình thức (tự học, qua sách vở, đài, báo, ti vi, phim ảnh, qua mạng Internet, qua học hỏi cấp trên, đồng nghiệp…) 2.3.2.Lựa chọn những phương pháp dạy học đặc trưng riêng cho mỗi dạng bài của chương trình Lịch sử 4phải theo định hướng phát triển năng lực học sinh Trong chương trình Lịch sử 4, qua nghiên cứu tôi thấy để dạy học phát triển năng lực học sinh có thể phân chia các dạng bài học theo một số dạng cơ bản sau: a. Các bài có nội dung về nhân vật lịch sử. * Mục tiêu: Giúp học sinh - Biết và hiểu: Công lao, những đóng góp của một số nhân vật đối với lịch sử dân tộc. - Có khả năng kể lại hoặc mô tả một cách khái quát những đóng góp của các nhân vật lịch sử đã học hoặc sưu tầm những câu chuyện về họ. - Tự hào, ghi nhớ công ơn của các nhân vật lịch sử. * Nội dung: Bao gồm các bài sau: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938); Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân; Quang Trung đại phá quân Thanh ( Năm 1789).[2] * Lựa chọn phương pháp dạy học Chương trình lịch sử Tiểu học không giới thiệu tiểu sử các nhân vật lịch sử, mà thông qua cuộc đời hoạt động và sự nghiệp của nhân vật để làm sáng tỏ những sự kiện cơ bản của lịch sử dân tộc. Ví dụ Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước vào năm 968… Như vậy nhân vật lịch sử bao giờ cũng 6 gắn liền với sự kiện lịch sử, giáo viên phải biết khai thác tốt các sự kiện để làm nổi bật những hoạt động và công lao to lớn của nhân vật. Một số điểm cần lưu ý: Mỗi bài đều có hình ảnh (tranh vẽ, chân dung) nhân vật lịch sử giúp học sinh nắm bắt được diện mạo, hình thức bên ngoài của nhân vật. Giáo viên cần sử dụng và khai thác triệt để những bức ảnh này nhằm phục vụ nội dung bài học. - Khi trình bày về nhân vật, phải cho học sinh biết nhân vật đó là người như thế nào? (Sinh ra khi nào? Ở đâu? Làm gì? Có tính cách gì nổi bật? Tài năng, đức độ ra sao?....) - Kể chuyện hoặc miêu tả những hoạt động của họ để làm cơ sở cho việc đánh giá khách quan công lao của các nhân vật đối với lịch sử. Khi kể chuyện hay tường thuật, miêu tả tình tiết các hoạt động, có thể kết hợp phân tích để học sinh hiểu hơn nội dung, bản chất sự kiện. - Trên cơ sở khai thác những nội dung đó, giáo viên tiến hành giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối với nhân vật lịch sử một cách tự nhiên, có hiệu quả nhất. Thông thường, đối với dạng bài này phương pháp chủ đạo là kể chuyện, miêu tả, tường thuật kết hợp với hỏi đáp để khắc sâu hình ảnh nhân vật trong tâm trí học sinh [3].  Ví dụ: Khi dạy bài “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938)”: Hoạt động 1: Vài nét về tiểu sử của Ngô Quyền. - Sau khi kết thúc bài học trước, tôi yêu cầu học sinh về nhà tìm hiểu trước bài mới, tìm hiểu trước vài nét tiểu sử Ngô Quyền. Khi vào bài, học sinh sẽ thi nhau nêu hiểu biết của mình về Ngô Quyền và tình hình nước ta lúc bấy giờ. Nếu trường hợp học sinh không kể được, tôi sẽ dẫn dắt, gợi mở cho các em bằng các câu hỏi gợi ý cụ thể hơn.... Hoạt động 2: Diễn biến trận Bạch Đằng - Học sinh dựa vào sách giáo khoa và những hiểu biết của bản thân để trình bày trong nhóm 4 về diễn biến trận đánh. - Trình bày trước lớp: GV trình chiếu lược đồ trận đánh, học sinh các nhóm thi nhau trình bày, các nhóm khác theo dõi, nhận xét - Giáo viên nhận xét, tổng kết và nhấn mạnh kết quả trận đánh. Hoạt động 3: Công lao của vua Ngô Quyền và ý nghĩa trận Bạch Đằng. Tôi thường tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm đôi để thấy được những đóng góp của Ngô Quyền đối với lịch sử dân tộc, đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa tạo nên bước ngoặt lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng. b. Các bài có nội dung về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế chính trị, văn hóa - xã hội. *. Mục tiêu: Học xong loại bài này, học sinh biết và hiểu: - Hoàn cảnh ra đời, địa phận; thời gian ra đời và tồn tại của nhà nước; tên vua, tên nước, nơi đóng đô,… - Hiểu một cách đơn giản về tổ chức bộ máy nhà nước. - Biết được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất; văn hóa tinh thần của con người trong xã hội. 7 Học sinh có kĩ năng: Vẽ hoặc mô tả đơn giản bộ máy chính quyền nhà nước; So sánh ở mức độ thấp tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của các triều đại hoặc các giai đoạn lịch sử khác nhau. Học sinh có thái độ: Có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc qua các triều đại thông qua phim ảnh, các câu chuyện lịch sử,… *. Nội dung: Bao gồm các bài sau: Nước Văn Lang; Nước Âu Lạc; Nước ta dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc; Nhà Lý dời đô ra Thăng Long; Nhà Trần thành lập; Nhà Trần và việc đắp đê; Nước ta cuối thời Trần; Nhà Hậu Lê và việc tổ chức, quản lí đất nước; Trịnh- Nguyễn phân tranh; Cuộc khẩn hoang ở Đàng Trong; Thành thị ở thế kỉ XVI- XVII; Những chính sách về kinh tế và văn hóa của vua Quang Trung; Nhà Nguyễn thành lập.[2] *. Lựa chọn hương pháp dạy học - Đối với dạng bài này, tôi thường sắp xếp thành từng ý, gợi mở vấn đề rồi tổ chức dẫn dắt cho học sinh tìm hiểu thông tin qua phương pháp vấn đáp- tìm tòi, thảo luận nhóm, đàm thoại,.. Với dạng bài này, cần khai thác triệt để các đồ dùng dạy học. Mặt khác, việc miêu tả, giải thích, phân tích của giáo viên cũng rất quan trọng vì nó liên quan tới một số thuật ngữ, khái niệm khó. [3] Tôi thường thực hiện bài giảng bằng cách hướng dẫn học sinh như sau: + Miêu tả tình hình nước ta cuối hay sau thời kì nào đó (tình hình đất nước, quan lại, chính quyền, cuộc sống của các tầng lớp nhân dân). + Chính quyền (hay nhân dân hoặc nhân vật lịch sử,…) trong tình cảnh đó, đã làm gì và làm như thế nào? + Những việc làm đó có kết quả ra sao? Trên cơ sở những nội dung cơ bản trên, tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của từng bài để vận dụng linh hoạt các phương pháp: kể chuyện, thảo luận nhóm, đàm thoại,….để học sinh khai thác và nắm bắt nội dung bài học một cách hiệu quả nhất. c.Các bài có nội dung về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng, chiến dịch, phản công,… * Mục tiêu: Giúphọc sinh biết và hiểu: - Thời gian, địa diểm diễn ra các cuộc khởi nghĩa, chiến thắng, … - Những nét chính về diễn biến và ý nghĩa của các thắng lợi đó. Học sinh có khả năng: Tường thuật, miêu tả những nét chính của cuộc khởi nghĩa hay chiến dịch đã học. Học sinh có thái độ: biết ơn những người đã làm nên những sự kiện vĩ đại của lịch sử dân tộc và có ý thức bảo vệ những thành quả của cách mạng. *. Nội dung: Bao gồm các bài sau: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938); Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược. (lần 1, lần 2); Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên; Chiến thắng Chi Lăng; Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long; …[2] *. Lựa chọn phương pháp dạy học: 8 Tôi thấy dạng bài này chiếm một tỉ lệ khá cao trong chương trình, do đó cần cho học sinh biết, hiểu và nắm vững những nội dung sau: - Nguyên nhân, hoàn cảnh dẫn đến cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, … - Khái quát diễn biến cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch,… - Ý nghĩa cuộc khởi nghĩa Để học sinh hiểu sâu hơn những nội dung trên, giáo viên nhất thiết nên sử dụng bản đồ, lược đồ, tranh ảnh,… dẫn dắt học sinh xác định và mô tả được vị trí, khu vực, địa bàn diễn ra cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch,…, từ đó học sinh sẽ trình bày diễn biến của các sự kiện trên hệ thống kênh hình. Ví dụ: Bài: Chiến thắng Bạch Đằng: Khi dạy bài này, giáo viên cần dẫn dắt cho học sinh tường thuật hay mô tả dựa vào kênh hình để học sinh thấy được vị trí chiến lược của cửa sông Bạch Đằng, diễn biến, kết quả trận đánh có tính bước ngoặt trong lịch sử. Dưới đây là một số hình ảnh mô tả diễn biến, kết quả trận chiến: Lược đồ trận Bạch Đằng Quân Nam Hán thất bại nặng nề Như vậy, theo tôi, phương pháp chủ đạo khi dạy dạng bài học này là tường thuật, miêu tả kết hợp với kể chuyện và khai thác kiến thức từ hệ thống kênh hình để làm sống dậy diễn biến của cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch, các cuộc tiến công. d.Các bài có nội dung ôn tập, tổng kết. *. Mục tiêu: Giúp học sinh: - Hệ thống hóa và củng cố những kiến thức đã học. - Có khả năng nhận thức lịch sử một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn và làm bài kiểm tra tốt hơn. - Học sinh có ý thức ghi nhớ lịch sử dân tộc. *. Nội dung: - Bài 6: Hệ thống lại những sự kiện điển hình từ thời kì dựng nước tới năm 938; Bài 20: Tổng hợp những nét cơ bản của lịch sử dân tộc trong các lĩnh vực 9 kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội và những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta từ buổi đầu độc lập đến thời Hậu Lê; Bài 29: Tổng kết lịch sử từ thời vua Hùng đến giữa thế kỉ XIX.[2] *. Một số phương pháp dạy học Để dạy tốt dạng bài này, mở đầu bài học, tôi thường nêu nhiệm vụ cần giải quyết rồi tiến hành tổ chức cho học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong quá trình tiến hành bài học, tôi phải thu hút được tất cả học sinh vào các hoạt động, phát huy cao nhất tính tích cực của mỗi học sinh trong việc trao đổi những câu hỏi mà giáo viên đặt ra, thực hiện các công việc như: vẽ sơ đồ, lập bảng niên biểu, thống kê, tìm các dẫn chứng… Đây là yếu tố quan trọng để phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng thực hành. [3] Thông thường, với dạng bài ôn tập, tổng kết phải vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp. Tuy nhiên cũng tùy từng phần, từng nội dung cụ thể trong từng bài mà giáo viên lựa chọn phương pháp hay hình thức dạy học phù hợp. Riêng tôi lại thấy trò chơi là một phương pháp rất thích hợp với dạng bài này vì nó có thể tổng hợp kiến thức từ nhiều bài học khác nhau, đồng thời cũng tạo ra không khí sôi nổi, hấp dẫn cho học sinh trong quá trình học tập. Qua những hoạt động “học mà chơi, chơi mà học”, các em sẽ ghi nhớ một cách tự giác những kiến thức lịch sử đã học. e.Các bài có nội dung về thành tựu văn hóa - khoa học. *. Mục tiêu: - Học sinh biết và hiểu một số thành tựu trong lĩnh vực văn hóa, khoa học điển hình của dân tộc qua các thời kì lịch sử. - Học sinh có khả năng kể, mô tả những nét khái quát nhất về các thành tựu đó; Có ý thức trân trọng, giữ gìn, bảo vệ những thành tựu văn hóa, khoa học dân tộc. *. Nội dung: Bao gồm các bài sau: Chùa thời Lý; Nhà Trần và việc đắp đê; Trường học thời Hậu Lê; Văn hóa, khoa học thời Hậu Lê; Kinh thành Huế[2]. *. Lựa chọn phương pháp dạy học đặc trưng. - Phải mô tả được những đặc điểm nổi bật của công trình kiến trúc (Quá trình xây dựng, quy mô, cấu trúc, kiểu dáng, nét điêu khắc, chạm trổ,…) - Mô tả cách giáo dục, thi cử hay nội dung thi cử của mỗi thời kì. - Nêu được các thành tựu cơ bản về văn hóa, khoa học trong thời kì ấy. Trên cơ sở đó, giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ các công trình nghệ thuật kiến trúc, văn hóa, khoa học cho học sinh[3]. Ở loại bài này, thường có nhiều tranh ảnh về các công trình kiến trúc, các thành tựu về văn hóa… Vì vậy, tôi thường hướng dẫn học sinh đi từ quan sát đến mô tả và nêu ra nhận xét. Như vậy, khai thác kiến thức từ kênh hình là phương pháp cực kì quan trọng với dạng bài này. Tuy nhiên, để tăng tính hiệu quả cho tiết học, tôi còn kết hợp tổ chức cho học sinh hợp tác làm việc theo nhóm, chơi các trò chơi. 10 2.3.3.Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhằm gây hứng thú và phát huy tính tích cực cho người học. Mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu, nhược điểm riêng, không có phương pháp nào là vạn năng. Vấn đề là ta phải biết phối kết hợp các phương pháp dạy học linh hoạt để phát huy những ưu điểm, hạn chế thấp nhất các nhược điểm của chúng. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp dạy học cần phải theo hướng lấy học sinh làm trung tâm để phát huy tích tích cực của người học. [3] Việc đổi mới phương pháp dạy học muốn đạt hiệu quả cao cần thực hiện song song với đổi mới hình thức dạy học cùng các phương tiện dạy học. Như vậy, học tập lịch sử là một quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Đặc trưng nổi bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, là tồn tại khách quan, không thể phán đoán, suy luận,… để biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của bộ môn Lịch sử trong nhà trường là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tạo ra những biểu tượng về con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Vậy tái tạo lịch sử bằng những phương thức nào? Theo tôi, trước hết phải kể đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên, tức là giáo viên dùng phương pháp tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử. Có thể nói, chỉ có miêu tả, tường thuật, kể chuyện mới tái hiện được những biến cố lịch sử quan trọng, đem đến cho học sinh những hứng thú mạnh mẽ. Do sách giáo khoa viết rất cô đọng, trừu tượng nên tôi đã sử dụng nhiều tư liệu, kết hợp với đồ dùng trực quan (tranh ảnh, bản đồ) để miêu tả, tường thuật. Các phương tiện trực quan sẽ tạo ra hình ảnh lịch sử cụ thể, sinh động, chính xác hơn, giúp học sinh thuận lợi hơn trong việc tạo biểu tượng lịch sử. Tuy nhiên, các phương tiện trực quan phục vụ việc dạy học lịch sử còn rất hạn chế. Các bản đồ, lược đồ, tranh ảnh ở sách giáo khoa còn ít, màu sắc còn đơn điệu, thiếu đồng bộ. Trước những khó khăn đó, việc dạy học theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin là một giải pháp tích cực kịp thời để giải quyết những khó khăn nêu trên. Nhận thấy điều đó, tôi thường soạn bài giảng Lịch sử trên phần mềm PowerPoint. Qua các năm, trao đổi giáo án giữa giáo viên trong khối, tham khảo các tư liệu trên Internet nên các bài giảng soạn bằng phần mềm PowerPoint tăng cả về số lượng và chất lượng. Khi giảng dạy, hiệu quả tiết dạy thấy rõ ràng. Học sinh hăng hái, sôi nổi, tích cực hoạt động. Được tiếp xúc với tranh ảnh lịch sử sinh động, các em chủ động tiếp thu và nắm vững kiến thức hơn. Ví dụ: Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất”, tôi thiết kế bài giảng và trình chiếu trên màn hình đã thu hút sự chú ý và nâng cao 11 hiệu quả tiết học rất rõ rệt. học sinh học tập rất hứng thú, sôi nổi và tích cực. Dưới đây là một số hình ảnh minh họa: Di tích lịch sử quốc gia: Ải Chi Lăng ( Lạng Sơn) Mô hình trận chiến trên sông Bạch Đằng do Lê Hoàn lãnh đạo 2.3.4. Liên hệ lịch sử dân tộc với lịch sử địa phương Dạy học lịch sử muốn đạt hiệu quả cao, giáo viên còn phải thường xuyên liên hệ thực tế cho học sinh. Đó là cái đích của giáo dục, học sinh học để biết, hiểu và liên hệ, vận dụng. Có như vậy mới gây hứng thú cho học sinh và học sinh mới thấy giá trị của việc học. Học gắn với hành, gắn với thực tế thì học sinh mới hiểu sâu, nhớ lâu và vận dụng được. Lịch sử lớp 4 chưa học về địa phương nhưng có nội dung liên quan. Lịch sử địa phương xã Nga Thiện, Nga Sơn, Thanh Hóa luôn gắn liền với lịch sử dân tộc. Ở xã Nga Thiện, gần trường học có cụm di tích lịch sử quốc gia: Đền thờ Nữ tướng Lê Thị Hoa (một nữ tướng trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà 12 Trưng) và tướng Trịnh Minh (vị tướng có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông). Bởi vậy khi dạy Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, năm 40 hoặc bài Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông tôi đã tổ chức cho các em tìm hiểu và đi tham quan cụm di tích này ở thôn Ngũ Kiên, xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa - cách trường 100m. Qua đó giúp học sinh nắm rõ về tiểu sử hai nhân vật lịch sử. Từ đó các em liên hệ đến các cuộc khởi nghĩa oanh liệt trong lịch sử, giúp các em ghi nhớ công ơn các vị anh hùng, tự hào về truyền thống vẻ vang của quê hương, đất nước. Học sinh tham quan đền thờ nữ tướng Lê Thị Hoa và tướng Trịnh Minh 13 2.3.5.Sưu tầm các tranh ảnh, tư liệu hoặc các câu chuyện liên quan đến các sự kiện lịch sử trong chương trình. Theo quan điểm của triết học của Mác - Lênin, con đường của nhận thức là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng lại trở về thực tiễn. Bởi vậy cho nên trong dạy học Lịch sử cũng như dạy các môn khác, người giáo viên phải luôn luôn nắm vững và tuân theo quy luật này thì mới có hiệu quả cao cho nhận thức của học sinh. Trước các sự kiện, hiện tượng lịch sử mới, giáo viên nên vào đề bằng những câu chuyện lịch sử, dẫn chứng lịch sử, bằng tranh, ảnh hay sơ đồ, lược đồ…có liên quan để gây hứng thú và khơi dậy nhu cầu tìm hiểu, khám phá ở trẻ. Khi trẻ đã nắm rõ vấn đề đặt ra, giáo viên cần cho các em kiểm chứng vấn đề đó bằng thực tiễn (hoặc bằng các câu chuyện, tranh ảnh, mô hình, hiện vật…có liên quan ). Để có được những tài liệu phục vụ cho “ trực quan sinh động” ấy, giáo viên có thể sưu tầm từ nhiều nguồn như sách, báo, đài, vô tuyến đặc biệt là trên mạng Internet. Khi sử dụng những tài liệu trên làm trực quan tôi thấy trình bày dưới dạng trình chiếu trên màn hình mang lại hiệu quả nhất, gây hứng thú học tập cho các em nhất. Ví dụ khi dạy bài “Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên”, trước khi vào bài tôi cho các em quan sát bức tranh vẽ cảnh các bô lão trong Hội nghị Diên Hồng kết hợp kể câu chuyện “Hội nghị Diên Hồng”. Sau khi quan sát tranh, lại được nghe kể chuyện các em rất thích, đua nhau tìm hiểu về nguyên nhân, diễn biễn, kết quả, ý nghĩa của cuộc kháng chiến và nhanh chóng rút ra nội dung bài học. Cuối tiết học, tôi tổ chức cho các em thi kể các câu chuyện về các tấm gương yêu nước trong cuộc kháng chiến đó như Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản,… để củng cố và kiểm chứng nội dung bài, khuyến khích phát triển tinh thần ham học hỏi, tìm tòi, khám phá và tự học, giúp học sinh quen dần với cách học mới. 2.3.6.Thường xuyên thiết kế trò chơi học tập góp phần đổi mới phương pháp dạy học và gây hứng thú cho học sinh Vì học sinh Tiểu học có nhu cầu được vui chơi rất lớn nên nếu ta tổ chức hoạt động học gắn với hoạt động vui chơi sẽ tránh gây áp lực và tạo ra được không khí vui tươi, thoải mái và gây nhiều hứng thú cho các em. Bởi vậy giáo viên cần tích cực thiết kế các trò chơi lồng vào các hoạt động học. Khi thiết kế trò chơi học tập trong dạy học lịch sử, giáo viên cần chú ý xác định rõ mục đích của trò chơi là nhằm giúp gì cho hoạt động học, cần chuẩn bị những gì, cách tiến hành ra sao và sau trò chơi rút ra được nội dung, kết luận gì? Khi dạy Lịch sử 4, tôi thường xuyên thiết kế một số trò chơi như “Chọn số”, “Xem ai nhớ nhất” để dạy các tiết ôn tập, thực hành giúp củng cố kiến thức cho các em (như bài 6,20,29…); trò chơi “Mặt xanh, mặt đỏ” thường sử dụng dạy các bài mới hoặc bài ôn (như bài 10,12, 25…); trò chơi “Ai chỉ đúng” thường dùng dạy các bài có hoạt động làm việc với bản đồ, lược đồ (bài 2,5,10,21,…); trò chơi “Ô chữ kì diệu” dạy các bài ôn tập tổng hợp hoặc dạy hoạt động củng cố cuối bài (bài 6, 11, 15 20,…)(đã minh họa ở trên); trò chơi “Đố bạn” có thể áp dụng dạy tất cả các bài (học sinh đố nhau về nội dung bài). 14  Ví dụ khi dạy bài: “Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất năm 981 ”, cuối tiết học, tôi tổ chức trò chơi “Ô chữ kì diệu” để học sinh ôn lại và nắm vững hơn nội dung bài. *Chuẩn bị: - GV chuẩn bị ô chữ thiết kế trên màn hình gồm 6 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc: * Hệ thống các câu hỏi gợi ý theo hàng ngang: 1. Nhà Đinh đã nhường ngôi cho nhà nào? 2. Khi lên ngôi Hoàng đế, Đinh Bộ Lĩnh lấy niên hiệu là gì? 3. Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất, trên bộ quân ta chặn đánh quân địch ở đâu? 4. Khi làm quan dưới triều Đinh, lê Hoàn giữ chức vụ gì? 5. Đây là tên vị vua mới 6 tuổi của nhà Đinh ? 6. Lê Hoàn đã dùng kế cắm cọc gỗ để tiêu diệt giặc Tống trên sông nào? ->Từ hàng dọc gồm 6 chữ cái, là tên một vị vua thời Tiền Lê. * Cách tiến hành: Giáo viên chia lớp thành 3 đội chơi (mỗi dãy bàn là một đội), nêu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi. Đến lượt đội nào thì đội đó được chọn một hàng ngang tùy ý, giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý, trong vòng 10 giây đội đó phải đưa ra câu trả lời phù hợp, nếu sai hoặc quá thời gian, đội khác sẽ được trả lời. Mỗi từ tìm đúng đáp án được 10 điểm, sau lượt trả lời đầu, nếu đội nào đã tìm ra từ hàng dọc thì xin trả lời (nếu đúng được 30 điểm, nếu sai thì mất lượt chơi). Trò chơi kết thúc khi có đội tìm ra từ hàng dọc (giáo viên hỏi học sinh về ý nghĩa từ hàng dọc), đội nào nhiều điểm hơn là đội thắng cuộc. Cuối cùng giáo viên tuyên dương đội thắng cuộc, chốt kiến thức bài học. Dưới đây là đáp án ô chữ Còn đây là trò chơi “Mặt xanh, mặt đỏ”: 15 * Mục đích: Giúp học sinh ôn tập, củng cố kiến thức đã học, phát huy sự nhanh nhẹn, rèn luyện trí thông minh, tạo không khí vui tươi thoải mái, kích thích khả năng tư duy, tổng hợp; giúp giáo viên củng cố bài nhanh, hiệu quả. * Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị cho mỗi học sinh một tấm thẻ (có cán, một mặt màu xanh, một mặt màu đỏ), hệ thống các ý kiến cả đúng cả sai. Ví dụ: Với bài “Chùa thời Lý”, để củng cố về vai trò, tác dụng của chùa thời Lý, giáo viên chuẩn bị các ý kiến như sau: 1. Chùa là nơi tu hành của các nhà sư. 2. Chùa chỉ được xây dựng ở kinh thành, do và nhân dân cùng xây dựng. 3. Chùa là nơi tế lễ của đạo Phật. 4. Chùa là trung tâm văn hoá của làng xã. 5. Chùa là nơi tổ chức các hoạt động văn nghệ, vui chơi. 6. Một số chùa nổi tiếng thời Lý là: chùa Một Cột, chùa Keo, chùa Đồng. * Cách thực hiện trò chơi: - Cuối tiết học, giáo viên chia lớp thành 3 đội chơi (mỗi dãy bàn là một đội), nêu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi, phát thẻ cho từng em, yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức bài học và vốn hiểu biết của bản thân để xác định ý kiến giáo viên đưa ra là đúng hay sai. Nếu ý kiến đúng thì giơ thẻ mặt đỏ hướng lên bảng và ngược lại. - Giáo viên lần lượt nêu các ý kiến. Sau mỗi ý kiến giáo viên tổng kết số lượng các bạn trả lời đúng, sai của từng đội, cho học sinh giải thích ý kiến đưa ra và kết luận. Cuối cùng giáo viên tổng hợp kết quả của các đội, tuyên dương đội thắng cuộc, chốt kiến thức bài học. Trên đây tôi vừa trình bày một số giải pháp nhằm dạy học phát triển năng lực học sinh. Ngoài ra, để dạy học lịch sử đạt hiệu quả cao tôi còn phối kết hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Ví dụ như kết hợp với tổ chức Đoàn TNCS, Đội TNTP tổ chức tìm hiểu và thi chuyên hiệu “Nhà Sử học nhỏ tuổi”; thi “Rung chuông vàng” về kiến thức Lịch sử; thi trả lời nhanh các câu hỏi trong các buổi ôn tập dưới cờ…; phối hợp với chuyên môn nhà trường in một số tấm pa-nô (về tiểu sử, công lao của một số nhân vật lịch sử tiêu biểu) treo ở một số vị trí quan trọng để tất cả học sinh và giáo viên đều có thể biết. 2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường Sau khi được áp dụng các giải pháp nêu trên vào quá trình dạy học tại lớp 4B do tôi chủ nhiệm, học sinh từ sợ môn Lịch sử đã dần dần yêu thích và rất hứng thú với môn học. Giờ đây cứ mỗi khi đến tiết học Lịch sử, 100% học sinh đều hào hứng và yêu thích. Trong mỗi tiết học, các em đều chủ động học tập rất tích cực vì các em đã biết cách học, có nhu cầu học, nhờ đó các em nhanh chóng đạt được mục tiêu bài học, nắm vững các kiến thức và kĩ năng cần thiết và bồi dưỡng dưỡng tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc từ đó phát triển năng lực cho học sinh. 16 Dưới đây là kết quả khảo sát sau hơn 5 tháng áp dụng các giải pháp đã nêu ở lớp 4B do tôi chủ nhiệm, lớp đối chứng 4A: Lớp 4A (Sĩ số 27) Lớp (Sĩ số 27) 4B Nội dung SL TL (%) SL TL (%) Không có hứng thú với môn học 3 11,1 0 0 Có hứng thú, yêu thích môn học Chưa nắm được các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử Nắm được các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử Nắm vững các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử 24 88,9 27 100 3 11,1 0 0 13 48,2 11 40,7 11 40,7 16 59,3 Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu và áp dụng các biện pháp dạy học thích hợp, bản thân tôi đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích, nắm vững hơn và sâu hơn về Lịch sử Việt Nam, các cơ sở lí luận, áp dụng tốt hơn các giải pháp phù hợp vào thực tiễn để góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Bên cạnh đó, tôi đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý giá từ cấp trên, đồng nghiệp để nghiên cứu khoa học, viết Sáng kiến kinh nghiệm ngày càng chất lượng hơn, hiệu quả hơn và thiết thực hơn… Đối với các đồng nghiệp trong trường, đặc biệt là trong Tổ chuyên môn khối 4, 5 chúng tôi thường xuyên trao đổi, học hỏi và chia sẻ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, các tiết thao giảng, dự giờ, những giải pháp mà tôi áp dụng đã mang lại hiệu quả cao cũng đã giúp các giáo viên trong tổ học tập, vận dụng vào điều kiện cụ thể của lớp mình và cũng đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Kết quả trên đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học, bước đầu khẳng định những giải pháp mà tôi áp dụng vào dạy học Lịch sử tại lớp 4B trường Tiểu học nga Thiện, Nga Sơn, Thanh Hóa là có cơ sở, có tính khả thi. Có được kết quả trên là nhờ sự nỗ lực phấn đấu, học tập không ngừng của bản thân kết hợp với sự ủng hộ và giúp đỡ tận tình của đồng nghiệp đặc biệt là của Ban giám hiệu nhà trường, và sự cố gắng, tích cực của học sinh. 17 3. Kết luận và kiến nghị 1. Kết luận Qua quá trình học tập, nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học và làm Sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm cho bản thân như sau: - Để việc dạy, học được tiến hành thuận lợi và mang lại hiệu quả cao, người giáo viên phải luôn luôn cố gắng học hỏi, tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm cho bản thân, thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ bạn bè, đồng nghiệp và cấp trên. - Giáo dục luôn phải hướng đến cái đích là phát triển năng lực cho học sinh, tất cả mọi hoạt động đều phải vì học sinh. - Luôn tạo cho học sinh có nhu cầu học để các em học tập tích cực, tự giác, không cần ép buộc. - Chuẩn bị thật chu đáo cho mỗi tiết dạy và cần cố gắng làm thế nào để học sinh cảm thấy yêu thích môn học, khơi dậy nhu cầu cần học ở các em. - Tiết dạy muốn thành công thì mỗi khâu của qua trình dạy học đều như là một mắt xích quan trọng, không thể thiếu và tách rời nhau, trong đó khâu đầu tiên là chuẩn bị. Không có sự chuẩn bị tốt thì chắc chắn không thể thành công. Bởi vậy, ta phải chuẩn bị thật chu đáo, vững vàng về kiến thức, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức tiết học, dự kiến các tình huống có thể xảy ra và cách giải quyết. Đặc biệt là khi thiết kế bài giảng trên phần mềm PowerPoint và dạy học bằng các phương tiện hiện đại như máy vi tính, máy chiếu, màn hứng… thì cần sự chuẩn bị rất công phu. - Một kinh nghiệm nữa khi dạy lịch sử là ta cần chú ý cho học sinh nắm được các mốc thời gian tiêu biểu trên trục thời gian, các sự kiện, hiện tượng lịch sử đều gắn với các mốc thời gian cụ thể và thường có mối liên quan đến các sự kiện, hiện tượng lịch sử trước hoặc sau đó… 2. Kiến nghị Kính mong Ban giám hiệu trường Tiểu học Nga Thiện, Phòng Giáo dục và Đào tạo Nga Sơnluôn quan tâm, tạo điều kiện bổ sung thêm các phương tiện dạy học như bản đồ, tranh, ảnh, tư liệu, băng đĩa, máy vi tính, đèn chiếu…để hoạt động dạy học được tiến hành thuận lợi, nâng cao hiệu quả giảng dạy. Ngoài ra, hằng năm kính mong các cấp lãnh đạo nên tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên theo từng lĩnh vực, tổ chức các hoạt động ngoại khoá, tham quan các di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, gặp gỡ các cựu chiến binh… cho cả giáo viên và học sinh có thêm điều kiện trải nghiệm, giao lưu, học hỏi, mở mang thêm kiến thức. Trên đây là một số kinh nghiệm được tôi đúc rút từ quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy của bản thân trong những năm qua, đã và đang được vận dụng vào dạy học phân môn Lịch sử lớp 4B trường Tiểu học Nga Thiện và đã có hiệu quả rất rõ rệt. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng do thời gian nghiên 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan