Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công t...

Tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật

.DOC
109
61
52

Mô tả:

Lời Nói Đầu Trong thế giới hiện đại, trước xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới, mọi quốc gia, mọi khu vực đều không thể đứng ngoài xu thế này. Với chính sách đổi mới của nền kinh tế, nước ta đã và đang nhanh chóng hội nhập vào xu hướng chung của thế giới, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới như AFTA, WTO, APEC v.v.. với quan điểm đó chúng ta coi trọng vai trò của Thương mại Quốc tế, coi đây là chiếc cầu nối liền giữa nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới, là chiếc đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất trong nước, thu hút đầu tư v.v.. và là phương tiện để thúc đẩy sự phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng sẽ khó có thề hoà nhập với công cuộc toàn cầu hoá, khu vực hoá nếu không nhận ra những khó khăn của chính mình và không đủ sức vượt qua những khó khăn đó. Một trong những khó khăn của Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế thế giới đó là xuất phát điểm của Việt Nam thấp, khoa học công nghệ lạc hậu, cơ sở vật chất kĩ thuật nghèo nàn v.v.. Hiểu được vấn đề này, trong những năm qua Đảng và Chính phủ ta đã cho tiến hành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Và con đường nhanh nhất để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá là cần nhanh chóng tiếp cận những công nghệ và kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài bằng cách nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Nhưng nhập khẩu máy móc, vật tư thiết bị như thế nào để phù hợp với điều 1 kiện nền kinh tế của Việt Nam và đạt hiệu quả cao là vấn đề mà các nhà doanh nghiệp nhập khẩu và các ngành các cấp có liên quan đang rất quan tâm xem xét Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, trên cơ sở những kiến thức về kinh tế và nghiệp vụ xuất nhập khẩu đã được truyền thụ tại nhà trường và một số kinh nghiệm thực tế thu thập được trong quá trình thực tập tại công ty Xuất Nhập Khẩu Thiết Bị Toàn Bộ Và Kỹ Thuật, em đã lựa chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: " Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật ". Mục đích của đề tài này nhằm nêu lên thực trạng qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ, nghiên cứu những vấn đề phát sinh, những tồn tại vướng mắc khi thực hiện qui trình từ đó tìm ra nguyên nhân, đưa ra những đề xuất và giải pháp khắc phục. Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu lí thuyết và phương pháp duy vật biện chứng làm phương pháp luận nghiên cứu, đồng thời kết hợp với việc thu thập các thông tin gắn liền với tình hình thực hiện qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Technoimport để minh chứng cho những luận điểm được đưa ra. Trên cơ sở mục đích đề tài, luận văn tốt nghiệp bao gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong cơ chế thị trường 2 Chương II: Thực trạng về quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Technoimport Do thời gian cũng như kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và những lời khuyên quý báu của các thầy, cô giáo, tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty Technoimport, cũng như những ý kiến đóng góp từ phía bạn bè để có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho việc học tập, nghiên cứu sau này. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Quốc Thịnh thầy giáo trực tiếp hướng dẫn, các cô chú, anh chị trong phòng xuất nhập khẩu 5 đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành bài luận văn này. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ 1. Khái niệm và đặc điểm của thiết bị toàn bộ  Khái niệm về thiết bị toàn bộ Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển và thay đổi cơ cấu của nền kinh tế , các khái niệm và định nghĩa về thiết bị toàn bộ cũng được bổ sung và phát triển. Ngày 13/11/1992 Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết 3 định số 91/TTg ban hành ”Quy định về quản lý nhập khẩu máy móc, thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước”, trong đó đưa ra định nghĩa Thiết bị toàn bộ như sau: Thiết bị toàn bộ là tập hợp máy móc thiết bị, vật tư dùng riêng cho một dự án có trang bị công nghệ cụ thể có các thông số kinh tế - kỹ thuật được mô tả và qui định trong thiết kế của dự án. Như vậy, nội dung của hàng hoá thiết bị toàn bộ bao gồm:  Khảo sát kỹ thuật.  Luận chứng kinh tế- kỹ thuật hoặc nghiên cứu khả thi công việc thiết kế.  Thiết bị , máy móc, vật tư cho xây dựng dự án.  Các công tác xây dựng, lắp ráp, hiệu chỉnh, hướng dẫn vận hành.  Các dịch vụ khác có liên quan đến dự án như chuyển giao công nghệ, đào tạo v.v.. Thiết bị toàn bộ là nhà máy, cơ sở sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, cơ sở khoa học hay thí nghiệm, bệnh viện, trường học, công trình kiến trúc, công trình thủy lợi, giao thông, bưu điện v.v.. nhờ nước ngoài thiết kế hoặc giúp ta thiết kế, do nước ngoài cung cấp thiết bị, nguyên liệu sản xuất thử, hướng dẫn xây lắp máy và sản xuất thử. Ngoài ra, căn cứ vào tình hình đặc biệt, có thể có một số thiết bị tuy không đủ điều kiện trên nhưng được uỷ ban kế hoạch nhà nước duyệt là thiết bị toàn bộ thì cũng được quy định là thiết bị toàn bộ. 4 Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ được tiến hành thông qua một hợp đồng (theo hình thức trọn gói) với toàn bộ nội dung hàng hoá nêu trên hoặc thực hiện từng phần tùy theo yêu cầu cụ thể.  Đặc điểm của hàng hoá là thiết bị toàn bộ - Xây dựng công trình thiết bị toàn bộ đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Ở Việt Nam vốn thường được lấy từ ngân sách nhà nước. Ngoài nguồn này, Technoimport còn huy động từ các nguồn như vốn tự bổ xung của công ty, vốn vay của chính phủ các nước, tổ chức quốc tế, ngân hàng, công ty nước ngoài do ngân sách nhà nước hoặc ngân hàng nhà nước bảo lãnh và viện trợ bằng tiền Chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế đối với các dự án công trình dựa vào ngân sách nhà nước quản lý. - Thời gian xây dựng công trình kéo dài - Trong mua bán thiết bị toàn bộ, ngoài vật tư, máy móc thiết bị còn nhiều dịch vụ khác như khảo sát, thiết kế, vận hành, bảo dưỡng v.v.. trong đó phải sử dụng chuyên gia kỹ thuật nước ngoài. - Hàng hoá thiết bị toàn bộ có tính chất kỹ thuật chuyên ngành vì thế phải có kiến thức kỹ thuật. Từ năm 1988, nhà nước cho phép Bộ, ngành trực tiếp nhập khẩu mặt hàng này để góp phần tháo gỡ khó khăn trong vấn đề kỹ thuật. - Hàng hóa thiết bị toàn bộ đa dạng, phong phú, phức tạp nên cần kèm theo một dự án gồm những mục chi tiết về giá cả, chủng loại, quy cách đối với từng loại hàng. 5 2. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt Nam hiện nay 2.1. Đối tượng được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ Kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ là quá trình giao dịch, ký kết,thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ và các dịch vụ có liên quan đến thiết bị đó. Công trình thiết bị toàn bộ thường có tổng vốn đầu tư rất lớn, nguồn vốn sử dụng để nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường là vốn ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn tài trợ của nước ngoài thông qua Chính Phủ hay các nguồn vay nước ngoài có sự bảo lãnh của Nhà nước, các Ngân hàng thương mại Việt Nam v.v.. vì vậy một doanh nghiệp chỉ có thể được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ sau khi đã thực hiện đầy đủ các thủ tục có liên quan theo qui định cụ thể của pháp luật. Trước kia, theo qui định của thông tư 04/TM- ĐT ngày 30/7/1993 của Bộ thương mại, muốn kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, doanh nghiệp phải được Bộ thương mại cấp giấy phép kinh doanh phù hợp với Điều 5 Nghị định số 144/HĐBT ngày 7/7/1992 trong đó ở phần nhập khẩu có ghi ngành hàng thiết bị, máy móc. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải đáp ứng các yêu cầu như: - Doanh nghiệp có bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ có đủ năng lực chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ ngoại thương, giá cả, pháp lý quốc tế trong kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ. - Doanh nghiệp đã kinh doanh nhập khẩu ngành hàng máy móc thiết bị lẻ tối thiểu 5 năm và có mức doanh số nhập khẩu máy móc thiết bị trong năm không dưới 5 triệu USD. 6 - Doanh nghiệp có vốn lưu động do nhà nước giao tự bổ sung bằng tiền Việt nam và tiền nước ngoài tối thiểu tương đương với 500.000USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh nhập khẩu thiết bị. Do đó, muốn nhập khẩu thiết bị toàn bộ, doanh nghiệp cần phải xin đăng ký kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ với Bộ thương mại bằng cách gửi bộ hồ sơ đăng ký kinh doanh, bao gồm: đơn xin kinh doanh nhập khẩu thiết bị, giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, hồ sơ hợp lệ xác nhận vốn lưu động (bao gồm vốn Nhà nước giao và vốn tự bổ sung), bảng tổng kết tài sản 5 năm cuối cùng (Biểu tổng hợp), sơ đồ tổ chức bộ máy kinh doanh và cán bộ cần thiết để đảm bảo đủ năng lực kinh doanh thiết bị. Tuy nhiên, sau này theo nội dung của nghị định 33/CP ngày19/4/1994 về Quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, nhập khẩu và tiếp đó là Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 qui định chi tiết rằng để được phép kinh doanh xuất nhập khẩu (kể cả hàng hoá thiết bị toàn bộ), doanh nghiệp phải được thành lập theo qui định pháp luật, được phép xuất nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký kinh doanh, đã đăng ký mã số kinh doanh với Cục Hải Quan tỉnh, thành và hàng hoá đó không thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu. Với cơ chế mới, để mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể trực tiếp nhập khẩu thiết bị toàn bộ thông qua đấu thầu; hoặc doanh nghiệp có thể uỷ thác cho doanh nghiệp khác được phép kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Điều đáng lưu ý ở đây là đối với một doanh nghiệp muốn được phép kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng này thì trong những văn bản ban hành sau thông tư 04/TM-ĐT như đã kể trên lại chưa được qui 7 định cụ thể, trong các danh mục ngành hàng mà doanh nghiệp đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu lại không có tên của ngành hàng "thiết bị toàn bộ”. Do vậy, trong thực tế, hiện nay các doanh nghiệp muốn kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ vẫn áp dụng các qui định của thông tư 04/TM-ĐT. 2.2. Các phương thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ Nếu như thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị lẻ không gặp nhiều vướng mắc và chỉ mất một khoảng thời gian tương đối ngắn thì việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường kéo dài hơn nhiều với một khối lượng công việc đồ sộ và phức tạp liên quan tới các công đoạn xây xựng nhà xưởng, nhập khẩu hàng hoá, lắp đặt, vận hành, đào tạo vận hành v.v.. Chính vì vậy mà vấn đề đặt ra là nên tiến hành nhập khẩu theo phương thức nào là tối ưu nhất đảm bảo an toàn cho đầu tư trong khi chúng ta chưa đủ khả năng và trình độ để có thể hoàn toàn an tâm về quyết định nhập khẩu thiết bị toàn bộ và công nghệ của mình. Sau đây là một số phương thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường gặp:  Nhập khẩu uỷ thác: là hoạt động nhập khẩu được hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu thiết bị toàn bộ, uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập thiết bị toàn bộ theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được nhận một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác. Đặc điểm: trong hoạt động nhập khẩu này doanh nghiệp nhập khẩu uỷ thác không phải bỏ vốn, không xin hạn ngạch (nếu có) không 8 phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ. Không phải lo tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra thay mặt bên uỷ thác tìm và giao dịch với nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá cũng như thay mặt bên uỷ thác tiến hành đòi bồi thường bên nước ngoài khi có tổn thất. Khi tiến hành xuất nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không tính vào doanh số.  Nhập khẩu tự doanh: hoạt động nhập khẩu tự doanh chính là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí để đảm bảo kinh doanh xuất nhập khẩu có lãi đúng phương hướng, chính sách, luật pháp của quốc gia cũng như quốc tế. Đặc điểm: doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ, tự chịu trách nhiệm về mọi mặt kinh doanh của mình liên quan đến quá trình nhập khẩu. Đây là hoạt động mà doanh nghiệp phải xem xét kỹ càng, từ bước nghiên cứu thị trường đến việc ký kết hợp đồng- bởi vì doanh nghiệp phải tự bỏ vốn mình ra, chịu mọi chi phi giao dịch thị trường, giao nhận ở kho tới chi phí vận chuyển và giao nhận hàng hoá, chịu thuế VAT. Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp phải tính kim ngạch xuất nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng thì sẽ tính vào doanh số, do đó phải chịu thuế. 2.3. Khung pháp lý hiện nay cho hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt Nam Từ những đặc điểm đã trình bày ở trên, có thể thấy rằng không giống như nhập khẩu thiết bị lẻ thông thường, công tác nhập khẩu thiết bị toàn bộ đòi hỏi cả một khoảng thời gian rất dài để có thể hoàn tất các 9 khâu, từ chuẩn bị nguồn vốn, chuẩn bị dự án, lựa chọn phương thức thực hiện đến phê duyệt, đàm phán, ký kết, tổ chức thực hiện, và vận hành công trình. Trong suốt quá trình thực hiện, các khâu này lại chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước thông qua hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói riêng. Như vậy, hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một công tác phức tạp, nó đòi hỏi phải có hệ thống văn bản pháp quy tạo điều kiện cho việc thực hiện phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành, các cấp có liên quan trong các giai đoạn nhập khẩu công trình. Xuất phát từ yêu cầu đó, Chính phủ Việt Nam đã cho ban hành nhiều quyết định, nghị định, thông tư tạo thành khung pháp lý vững chắc cho hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt Nam. + Có thể coi Quyết định 91/TTg ngày 13/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 04/TM-ĐT ngày 30/7/1993 của Bộ Thương mại là 2 văn bản pháp quy làm nền cho các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ sau này. Chúng đã góp phần thể chế hoá quá trình nhập khẩu và nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ Nếu như quyết định 91/TTg ban hành Quy định về quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước thì Thông tư 04/TM-ĐT hướng dẫn thực hiện quy định đó.Trong 2 văn bản pháp quy này có nêu định nghĩa và xác định phạm vi hàng hoá thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ không chỉ bao gồm phần hàng hoá hữu hình (máy móc, thiết bị, vật liệu v.v..) mà còn bao gồm cả phần hàng hoá vô hình (thiết kế, giám sát, đào tạo, chuyển giao công nghệ v.v..). Từ đó nêu rõ việc 10 chuyển giao công nghệ là một phần của hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Ngoài ra, theo quyết định 91/TTg thì Bộ thương mại giữ vai trò chính thay nhà nước quản lý việc nhập khẩu, Bộ thương mại có quyền cấp giấy phép kinh doanh nhập khẩu thiết bị cho các doanh nghiệp; quy định cụ thể trình tự và văn bản cần thiết để phê duyệt hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ; quy định rõ các tiêu chuẩn của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ; cùng các ngành quản lý hữu quan và chủ đầu tư xử lý cụ thể khi phải nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng v.v.. + Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nhà nước được huy động để nhập khẩu máy móc, thiết bị đồng thời đảm bảo quy hoạch xây dựng, áp dụng hiệu quả công nghệ và kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, chính phủ Việt Nam đã ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999) và các nghị định sửa đổi, bổ xung một số điều của quy chế như nghị định 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 và Nghị định 07/2003/NĐ-CP ngày 30/1/2003 của Chính Phủ + Ngoài ra, hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho đến nay vẫn luôn gắn liền với hoạt động đấu thầu vì khi lựa chọn nhà cung cấp nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là tổ chức đấu thầu để lựa chọn đối tác thích hợp. Điều này dẫn đến việc Chính phủ ta luôn phải bổ xung thêm những nội dung cơ bản của công tác đấu thầu và tổ chức đấu thầu, đưa ra những quy định cụ thể hơn, hệ thống hơn, đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về đấu thầu Nghị định 88/1999/ NĐ-CP ngày 4/9/1999 ban hành Quy chế đấu thầu, cùng với Nghị Định 14/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 của 11 Chính Phủ- sửa đổi, bổ xung một số điều của Quy chế đấu thầu - ra đời nhằm mục đích thống nhất quản lý các hoạt động đấu thầu tuyển chọn tư vấn, mua sắm hàng hoá, xây lắp và lựa chọn đối tác để thực hiện dự án hoặc từng phần dự án trên lãnh thổ Việt nam. + Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả nhập khẩu máy móc thiết bị, Bộ khoa học công nghệ và môi trường đã ban hành một hệ thống những văn bản pháp luật như : Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/7/1999 hướng dẫn thực hiện nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998 của Chính Phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ. Trong đó, có đưa ra các định nghĩa về "chuyển giao công nghệ", "tài liệu kỹ thuật", "đào tạo","các dịch vụ hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật và tư vấn quản lý kinh doanh "v.v.. đưa ra các phương thức thanh toán trong chuyển giao công nghệ và quản lý chuyển giao công nghệ của nhà nước. Đặc biệt, thông tư đã nhấn mạnh trong trường hợp chuyển giao công nghệ đi kèm với nhập thiết bị thì phần chuyển giao công nghệ cần lập thành một phần riêng của hợp đồng nhập khẩu thiết bị và chi phí cho việc chuyển giao công nghệ cần tính riêng ngoài giá thiết bị Quyết định 1091/1999/QĐ-BKHCNMT ngày 22/6/1999 ban hành quy định kiểm tra Nhà nước về chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.Văn bản này quy định phương thức, nội dung, thủ tục kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và quyền hạn, trách nhiệm của các bên liên quan trong kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu + Mặt khác, hệ thống văn bản quản lý về thuế và thủ tục hải quan cũng lần lượt ra đời, thay đổi theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, góp 12 phần không nhỏ vào việc điều chỉnh hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ theo quản lý của Nhà nước 3. Vai trò của hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ đối với nền kinh tế Việt Nam Bước vào thời kỳ 2001- 2010, thế và lực của nước ta đã khác hẳn 10 năm trước đây, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị trường được mở rộng. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, nguy cơ tụt hậu so với các nước trên thế giới còn lớn, cơ sở vật chất còn lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ chuyển biến chậm, nguồn nhân lực có kiến thức, có tay nghề còn ít, năng suất lao động xã hội tăng chậm, GDP bình quân đầu người còn nhỏ bé Để có thể khắc phục những tồn tại này, đồng thời rút ngắn khoảng cách tụt hậu về trình độ phát triển kinh tế hàng chục năm so với một số nước trên thế giới, chúng ta chỉ còn cách đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước không thể chỉ đơn thuần dựa trên khoa học kỹ thuật công nghệ lạc hậu trong nước mà còn đòi hỏi phải có nền công nghiệp hiện đại đủ sức trang thiết bị kỹ thuật và hàng tiêu dùng cho xã hội . Với mức tích luỹ quá khiêm tốn của nền kinh tế quốc dân như hiện nay thì việc vươn lên thoát khỏi sự lạc hậu đó đòi hỏi cả một khoảng thời gian lâu dài, một khả năng tài chính lớn và sự nỗ lực huy động tiềm năng chất xám, trong khi đó, trên bình diện quốc tế, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa thế giới vào thời kỳ phát triển mới " thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thông tin ". 13 Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế, lối thoát để có thể rút ngắn thời gian, rút ngắn khoảng cách lại tiết kiệm được công sức cho những lĩnh vực mà mình có thế mạnh và phù hợp với hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay chính là nhập khẩu thiết bị và công nghệ từ các nước tiên tiến. Có thể nói ngắn gọn những ưu thế mà nền kinh tế Việt Nam nói chung và người nhập khẩu nói riêng tận dụng được nhờ nhập khẩu thiết bị toàn bộ như sau: - Nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho phép người mua có thể làm chủ kỹ thuật và công nghệ mới, làm chủ các công nghệ và vật liệu trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân mà nước mình không có khả năng sản xuất hoặc việc sản xuất rất tốn kém về thời gian và tiền của, từ đó tranh thủ sử dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới và sẽ dần dần xây dựng được một nền sản xuất hiện đại với chi phí hợp lý. - Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ giúp cho người mua tiết kiệm được quỹ thời gian và một phần không nhỏ chi phí cho việc xây dựng các cơ quan nghiên cứu khoa học, các viện thiết kế, phòng thiết kế chuyên môn, đào tạo chuyên gia v.v.. mà đôi khi không mang lại hiệu quả mong muốn. Thay vào đó chủ đầu tư có thể tập trung đi sâu vào những lĩnh vực mà mình có thế mạnh - Nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một trong những con đường nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, hạn chế được việc phải nhập khẩu những hàng hoá là thành phẩm của công nghệ cao từ nước ngoài với chi phí cao 14 - Xây dựng nhà máy mới hoặc mở rộng quy mô nhà máy hiện tại có thể góp phần tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời giúp cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân tiếp thu được kiến thức kỹ thuật mới cũng như phương pháp quản lý tiên tiến của nước xuất khẩu. Những ưu điểm trên hoàn toàn thích hợp với mục tiêu thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, chống lại nguy cơ tụt hậu, cải thiện bộ mặt kinh tế Việt Nam II. QUY TRÌNH NHẬP KHẨU THIẾT BỊ Ngày nay theo quy định ở Việt Nam, hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ bao gồm các bước cơ bản sau: 1. Nghiên cứu thị trường Cũng như các loại hàng hoá thông thường khác, trước khi tiến hành nhập khẩu thiết bị toàn bộ cần thiết phải nghiên cứu thị trường thiết bị toàn bộ. Thực chất của thị trường thiết bị toàn bộ là thị trường máy móc, thiết bị và nó cũng luôn tuân theo quy luật cung cầu hàng hoá trên thị trường. Khi nghiên cứu thị trường này cần chú ý một số đặc điểm sau: - Cung cầu hàng hoá trong ngắn hạn thay đổi chậm, sức ỳ lớn, không nhạy bén linh hoạt như những hàng hoá khác. - Cung hàng hoá mang tính độc quyền kinh tế. - Thời kỳ mua bán, chuyển giao, lắp đặt v.v.. thường dài. - Hiệu quả kinh tế của thiết bị toàn bộ phải trải qua một thời gian dài mới bộc lộ hết. 15 Còn nội dung của nghiên cứu thị trường thiết bị toàn bộ cũng giống như nội dung nghiên cứu thị trường của một số loại hàng hoá nhập khẩu khác cụ thể như sau :  Nghiên cứu thị trường trong nước: gồm các bước sau - Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu: khảo sát, phân tích và nghiên cứu về mặt hàng, quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu v.v.. - Nghiên cứu dung lượng thị trường và nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường: + Nghiên cứu dung lượng thị trường cần phải xác định khả năng cung cấp của doanh nghiệp nhập khẩu cũng như nhu cầu thật sự của khách hàng. Biết được dung lượng thị trường sẽ giúp doanh nghiệp có thể định hướng cho hoạt động nhập khẩu hàng hoá của mình + Nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường: cần phải đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, xác định nhân tố nào có ý nghĩa quyết định đến xu hướng vận động của thị trường từ đó xác định chính xác nhu cầu nhập khẩu mặt hàng đã lựa chọn. Có 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng chính đến dung lượng thị trường đó là các nhóm nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi theo chu kỳ (như đặc điểm của sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm của từng thị trường đối với mỗi loại hàng hoá, sự vận động của tư bản v.v..), các nhóm nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi lâu dài (như thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, ảnh hưởng của hàng hoá thay thế, các chính sách, biện pháp của chính phủ, sự tiến bộ cuả khoa học kỹ thuật và công nghệ), các nhóm nhân tố làm dung 16 lượng thị trường biến đổi tạm thời (như thiên tai, hạn hán, lũ lụt hoặc các hiện tượng gây ra đột biến về cung cầu) - Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh: tức là việc nghiên cứu tình hình hoạt động, thị phần, chiến lược kinh doanh và khả năng thay đổi chiến lược kinh doanh của, các điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh trong cùng một mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường - Nghiên cứu sự vận động của môi trường kinh doanh: để nắm bắt quy luật vận động của môi trường kinh doanh từ đó có các biện pháp hoặc chính sách tương ứng. Môi trường kinh doanh gồm môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội, chính trị, pháp luật .v.v.. có tác động lớn, chi phối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp  Nghiên cứu thị trường quốc tế: doanh nghiệp cần xem xét các yếu tố về cung cầu, giá cả, cạnh tranh v.v.. đặc biệt quan tâm đến các thông tin về nguồn hàng và giá cả hàng hoá - Nguồn cung cấp hàng hoá: nắm vững được tình hình các nguồn cung cấp trên thị trường thế giới, nghiên cứu đặc điểm các nước cung cấp hàng hoá cho doanh nghiệp để xem xét mức độ ổn định và an toàn của nguồn cung cấp hàng hóa như chính sách xuất khẩu của nước cung cấp là ưu tiên hay hạn chế, tình hình chính trị của quốc gia đó có ổn định không, vị trí địa lý của quốc gia cung cấp có thuận tiện cho giao dịch mua bán, có tiết kiệm được chi phí vận chuyển, bảo hiểm trong quá trình nhập khẩu của doanh nghiệp không - Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới: doanh nghiệp phải dự đoán được xu thế biến động của giá cả dựa trên việc đánh giá hiệu quả nghiên cứu tình hình biến động của từng thị trường 17 trên các nhân tố như lạm phát, cung cầu, giá cả v.v.. cộng với những hiểu biết và kinh nghiệm về quy luật thị trường của doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp tiến hành so sánh và phân loại các báo giá mặt hàng để lựa chọn được nhà cung cấp thích hợp nhất cho doanh nghiệp 2. Lựa chọn đối tác và hình thức giao dịch - Để lựa chọn được đối tác giao dịch phù hợp nhất với mình doanh nghiệp cần phải nghiên cứu: + Tình hình sản xuất kinh doanh, phạm vi hoạt động, lĩnh vực kinh doanh, uy tin, chất lượng, giá cả, khả năng về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác + Xem xét đến môi trường chính trị của nước đối tác, vị trí địa lý có cho phép ta đánh giá được các ưu thế về địa lý của phía đối tác để giảm thiểu chi phí vận tải, bảo hiểm - Sau khi đã lựa chọn được đối tác giao dịch, doanh nghiệp tùy vào điều kiện của mình để lựa chọn hình thức giao dịch phù hợp. Có 2 hình thức giao dịch là giao dịch trực tiếp với người bán và giao dịch gián tiếp với người bán qua các văn phòng đại diên, các công ty trung gian - Sau đó, doanh nghiệp sẽ lập dự án (báo cáo) tiền khả thi. Báo cáo tiền khả thi là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và ra quyết định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư. Sau khi thẩm định báo cáo tiền khả thi, người ta sẽ tiến hành lập luận chứng kinh tế kỹ thuật hay dự án (báo cáo) khả thi.Về cơ bản, nội dung của báo cáo khả thi tương tự như báo cáo tiền khả thi nhưng mức độ chi tiết cao hơn nhiều. Đây thực chất là sự cụ thể hoá báo cáo tiền khả thi. 18 Đối với các dự án thông thường thì chỉ cần lập báo cáo khả thi là đủ. Đối với các công trình phức tạp và quan trọng thì người ta có thể lập cả báo cáo tiền khả thi và báo cáo khả thi. Nếu việc lập báo cáo tiền khả thi cho thấy việc đầu tư xây dựng công trình này là hoàn toàn hợp lý thì sẽ bắt đầu lập báo cáo khả thi. Sở dĩ như vậy vì một khi báo cáo khả thi đã được thẩm định và thông qua thì sẽ bắt đầu tiến hành công việc thiết kế. Mặc dù có khác nhau về tên gọi và cách phân định các phần cụ thể bên trong nhưng luật chứng kinh tế kỹ thuật và báo cáo khả thi có thể coi tương tự như nhau. Đây chỉ là cách gọi khác nhau cho công việc tìm hiểu tính hợp lý và các giải pháp của việc xây dựng một công trình thiết bị toàn bộ. 3. Đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hoá  Đàm phán: có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Đàm phán tạo điều kiện cho hai bên hiểu biết nhau rõ hơn để dễ dàng đi đến thống nhất những bất đồng, những tồn tại, những vướng mắc nẩy sinh. Đặc biệt đối với thiết bị toàn bộ là loại hàng hoá mà đặc điểm của nó là có nhiều chi tiết kỹ thuật, nhiều linh kiện máy móc dẫn đến nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu cần phải thoả thuận để đi đến thống nhất về các linh kiện đồng bộ về thời gian giao hàng v.v.. sao cho thuận tiện nhất cho cả hai phía. Hai bên có thể trao đổi về mọi điều kiện giao dịch, về mọi vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán. Từ đó đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề còn khúc mắc giữa người mua và người bán để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. 19  Ký kết hợp đồng: sau khi đàm phán nhất trí với các điều kiện mua, bán, hai bên tiến hành ký kết hợp đồng. Có thể nói giai đoạn đàm phán là bàn đạp để đi đến việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu. Nếu đàm phán có kết quả thì các bên tiến hành ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. Nhưng trước khi ký kết hợp đồng thì chủ thể của hợp đồng cần phải nắm được nội dung và các điều khoản chủ yếu của hợp đồng, cần có sự thoả thuận thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản trước khi ký kết. Bởi một khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một điều khoản nào đó sẽ rất khó khăn và bất lợi. Văn bản hợp đồng thường do một bên soạn thảo, do đó trước khi ký kết bên kia phải xem xét một cách kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu với những điều khoản đã thoả thuận trong đàm phán. Ngoài ra trong hợp đồng cần được trình bày một cách sáng sủa, phản ánh đúng nội dung đã được thoả thuận, không để tình trạng mập mờ, dễ suy luận theo nhiều cách khác nhau không có lợi cho mình. Hợp đồng nên đề cập đến nhiều vấn đề, tránh tình trạng phải áp dụng tập quán để giải quyết những điểm hai bên không đề cập đến. Những điều khoản trong hợp đồng phải được xuất phát từ những đặc điểm của thiết bị toàn bộ, từ những điều kiện của hoàn cảnh tự nhiên, xã hội và quan hệ giữa hai bên. Trong hợp đồng không có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành của nước người bán hoặc nước người mua, người đứng ra ký kết phải là người đúng thẩm quyền. Ngôn từ để xây dựng nên hợp đồng là thứ ngôn ngữ mà cả hai bên cùng thông thạo. Nội dung của hợp đồng nhập khẩu bao gồm: - Phần mở đầu: tên và số hiệu của hợp đồng, ngày và nơi ký kết hợp đồng, tên và địa chỉ của các bên ký kết (Tên đơn vị, địa chỉ thư, tên 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan