Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây phát triển mạnh
mẽ và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 7% một năm.
Có được kết quả khả quan đó là do Việt Nam đang thực hiện thành
công công cuộc đổi mới toàn bộ nền kinh tế do Đảng ta khởi xướng tại
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, theo đó khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh được tạo điều kiện để tồn tại và phát triển bình đẳng hơn
với khu vực kinh tế quốc doanh. Có được điều kiện cần thiết để tồn tại
và phát triển, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam đã không
ngừng lớn mạnh, từ đó, đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện
nay vẫn phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức đang kìm
hãm đáng kể sự trưởng thành của khu vực kinh tế này, trong đó nổi
bật là tình trạng thiếu vốn. Do thị trường chứng khoán ở nước ta còn
đang ở giai đoạn sơ khai, chưa đảm nhiệm được vai trò là kênh cung
cấp vốn chủ đạo cho nền kinh tế, cộng với điều kiện tham gia thị
trường còn tương đối cao đối với kinh tế ngoài quốc doanh; trong khi
đó, vẫn còn tồn tại tâm lý rụt rè của người dân Việt Nam trong việc sử
dụng vốn nhàn rỗi để góp vốn kinh doanh nên kinh tế ngoài quốc
doanh khi thành lập, khác với kinh tế quốc doanh được cấp vốn từ
Ngân sách Nhà nước, có nguồn vốn hình thành chủ yếu từ những
khoản tiền tích góp được của từng cá nhân. Tuy nhiên, do nền kinh tế
1
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
nước ta nhìn chung còn kém phát triển, thu nhập của người dân còn
thấp nên khoản tiền tích góp được của từng cá nhân này không đủ để
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh phải trông cậy rất nhiều vào việc vay vốn ngân hàng
để bù đắp sự thiếu hụt vốn kinh doanh, tuy nhiên, việc tiếp cận vốn
ngân hàng của khu vực này trên thực tế còn không ít khó khăn, bất cập
do cả nhân tố nội sinh và ngoại sinh. Điều này khiến các ngân hàng có
vốn nhưng không cho vay được, còn khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh có nhu cầu lớn về vốn lại không được cho vay.
Xuất phát từ thực tiễn trên, người viết mạnh dạn đi sâu nghiên
cứu đề tài “Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu của khóa luận:
- Nghiên cứu những lý luận cơ bản về tín dụng, tín dụng ngân
hàng và quá trình hình thành, phát triển của tín dụng ngân hàng tại
Việt Nam.
- Tìm hiểu về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam, vai
trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế Việt Nam
cũng như những khó khăn, thách thức mà khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh đang gặp phải, từ đó nêu bật vai trò của tín dụng ngân hàng đối
với sự phát triển của khu vực kinh tế này.
- Đi sâu tìm hiểu những kết quả đạt được cũng như những hạn
chế trong quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng thương mại và khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam trong thời gian qua, cũng như
nguyên nhân của những kết quả, hạn chế đó.
2
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
- Đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế, loại bỏ những nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế trong quan hệ giữa các ngân hàng và khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh, từ đó đề xuất một số biện pháp mở rộng
tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt
Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng ngân hàng đối với
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào thực trạng hoạt động tín
dụng ngân hàng đối với khu vực ngoài quốc doanh thông qua tìm hiểu
những kết quả đạt được và những hạn chế trong quan hệ tín dụng giữa
các ngân hàng thương mại và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở
Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Người viết chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng với việc vận dụng
phương pháp thống kê, so sánh để làm sáng tỏ vấn đề.
5. Những đóng góp của khóa luận:
- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về tín dụng, tín dụng ngân
hàng và làm rõ vai trò của tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh.
3
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
- Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam thông qua nêu rõ những kết
quả đạt được cũng như hạn chế của hoạt động này.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm loại bỏ những hạn chế đó và
hướng tới mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh ở Việt Nam.
6. Kết cấu của khoá luận:
Ứng với mục tiêu nghiên cứu đã xác định, khoá luận có tên
“Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam” và có kết cấu gồm ba chương sau:
Chương
Khái quát về tín dụng và tín dụng ngân hàng đối với khu
1:
Chương
vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với khu
2:
vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam trong những
Chương
năm gần đây.
Một số giải pháp nhằm mở rộng tín dụng ngân hàng đối
3:
với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
4
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
1. Một số vấn đề cơ bản về tín dụng:
1.1 Khái niệm tín dụng:
Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
(dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu (gọi là người cho
vay) sang người sử dụng (gọi là người đi vay) để sau một thời gian
nhất định thu về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Khi
đó quan hệ giữa người cho vay và người đi vay được gọi là quan hệ
tín dụng.
Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tín dụng là sự vay mượn
giữa hai loại chủ thể: người đi vay và người cho vay, trong đó hai bên
thoả thuận một thời hạn nợ và một mức lãi cụ thể (chính là khoản tiền
lớn hơn của lượng giá trị thu về so với lượng giá trị cho vay ban đầu).
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì tín dụng là sự vận động của các nguồn
vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn (vấn đề này sẽ được làm rõ ở
phần tiếp theo).
Từ khái niệm trên, có thể thấy quan hệ tín dụng có những đặc
trưng cơ bản sau:
- Quan hệ tín dụng được xây dựng dựa trên 3 nguyên tắc: có thời
hạn, có hoàn trả và có đền bù, nghĩa là trong bất kỳ quan hệ tín dụng
nào bên cho vay và bên đi vay đều thoả thuận một thời hạn nợ nhất
định, theo đó bên đi vay khi hết thời hạn này phải hoàn lại cho bên
cho vay lượng giá trị đã vay ban đầu cộng thêm một mức lãi nhất định
để bù đắp cho việc chiếm dụng vốn của mình.
- Mặc dù hình thức biểu hiện của tín dụng là có sự di chuyển từ
người cho vay sang người đi vay song về thực chất chỉ có sự di
chuyển quyền sử dụng vốn, quyền sở hữu vốn vẫn thuộc về người cho
5
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
vay do đặc thù trong quan hệ tín dụng là có hoàn trả sau một một thời
hạn nhất định. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng, quyền sở hữu và quyền
sử dụng vốn tách rời nhau.
- Do đặc điểm tách rời nhau giữa quyền sở hữu và quyền sử
dụng vốn như vậy nên mối quan tâm lớn nhất trong quan hệ tín dụng
là liệu vốn có quay trở lại người cho vay sau khi đã hết thời hạn tín
dụng. Chính vì vậy mà quan hệ tín dụng chỉ có thể hình thành trên cơ
sở lòng tin hay sự tín nhiệm của người cho vay về khả năng hoàn trả
đúng hạn của người đi vay. Đó là lý do vì sao mà từ tín dụng trong
tiếng Anh “ credit”, tiếng Pháp “crédit’, rất giống nhau vì chúng đều
xuất phát từ gốc latinh “creditium” có nghĩa là lòng tin hay sự tín
nhiệm. Điều này cũng tương tự trong ngôn ngữ các nước Á Đông như
tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật hay tiếng Việt. Nói tóm lại người ta đã
sử dụng chính điều kiện đảm bảo cho sự xuất hiện của quan hệ tín
dụng để đặt tên cho nó.
1.2 Chức năng và vai trò của tín dụng:
1.2.1 Chức năng của tín dụng:
Với những đặc trưng trên, tín dụng có 3 chức năng chính sau:
a. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có
hoàn trả:
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá trình thống nhất
trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. Ở đây, sự có mặt của tín
dụng được xem như chiếc cầu nối giữa các nguồn cung và cầu về tiền
tệ trong nền kinh tế.
6
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
Thông qua chức năng này, tín dụng đã trực tiếp tham gia điều
tiết các nguồn vốn tạm thời dư thừa từ các cá nhân, tổ chức kinh tế để
bổ sung kịp thời cho những doanh nghiệp, cá nhân hay nhà nước đang
thiếu hụt về vốn. Nói cách khác:
- Ở khâu tập trung, tín dụng là nơi tập hợp những nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi trong xã hội
- Ở khâu phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng là nơi đáp ứng nhu
cầu về vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của các
doanh nghiệp, các cá nhân và cả của ngân sách quốc gia.
Trong toàn bộ nền kinh tế, phân phối lại vốn tiền tệ dưới hình
thức tín dụng được thực hiện bằng hai cách: phân phối trực tiếp và
phân phối gián tiếp.
- Phân phối trực tiếp là việc phân phối vốn từ chủ thể có vốn
tạm thời chưa sử dụng trực tiếp sang chủ thể vay vốn đó cho sản xuất,
kinh doanh hay tiêu dùng. Phương thức phân phối này được thực hiện
trong quan hệ tín dụng thương mại và phát hành trái phiếu của công ty
hay chính phủ.
- Phân phối gián tiếp là việc phân phối vốn được thực hiện
thông qua các tổ chức tài chính trung gian như hệ thống ngân hàng,
các công ty tài chính.
b. Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội:
Nhờ vào quá trình động viên kịp thời những nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội, những khoản vốn này đang tạm thời “đứng yên” được
đưa vào chu chuyển nghĩa là tín dụng đã làm tăng vòng quay của đồng
tiền, giảm lượng tiền cần thiết cho lưu thông.
7
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
Mặt khác, hệ thống ngân hàng phát triển đã thúc đẩy việc mở
rộng thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các
đơn vị kinh tế. Điều này sẽ làm giảm khối lượng giấy bạc trong lưu
thông cũng như chi phí in ấn giấy bạc, chi phi bảo quản tiền, vận
chuyển tiền...
c. Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Chức năng này phát huy được tác dụng phụ thuộc vào sự phát
triển của các chức năng trên. Cụ thể:
Thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn, tín dụng góp
phần phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt như: khối
lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ...từ
đó giúp ta có cái nhìn tổng quát về những cân đối lớn trong nền kinh
tế như: tổng nguồn vốn tích luỹ gồm những khoản nào, được huy động
từ những thành phần kinh tế nào, với khối lượng và biến động qua
từng thời kỳ là bao nhiêu... hay với nguồn vốn dành cho tiêu dùng thì
tiêu dùng cho kinh tế phát triển là bao nhiêu, cho cá nhân là bao
nhiêu...
Đặc biệt trong hoạt động cho vay, để đảm bảo an toàn về vốn,
ngân hàng luôn thực hiện quá trình kiểm tra tình hình tài chính của
đơn vị vay vốn nhằm phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm
chế độ quản lý kinh tế của nhà nước. Bên cạnh đó, trên cơ sở thực
hiện nguyên tắc cho vay có hoàn trả, tín dụng còn phản ánh kịp thời
tình hình quản lý và sử dụng nguồn vốn của các đơn vị kinh tế. Các
đơn vị muốn vay vốn ngân hàng phải trình bày rõ mục đích sử dụng
tiền vay và phương án trả nợ. Trong trường hợp ngân hàng phát hiện
8
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
người vay vốn sử dụng vốn không đúng mục đích hoặc không hiệu
quả thì dừng ngay việc cho vay và tìm cách thu hồi số vốn đã cho vay.
Tóm lại, tín dụng cần phải được vận dụng như một trong những
đòn bẩy kích thích kinh tế không thể thiếu trong quá trong quá trình tổ
chức, quản lý kinh tế - tài chính, kiểm soát và thúc đẩy các hoạt động
kinh tế quốc dân.
1.2.2 Vai trò của tín dụng:
Trên cơ sở phát huy các chức năng vốn có, tín dụng thể hiện vai
trò tích cực trong đời sống kinh tế-xã hội như sau:
a. Tín dụng đóng vai trò là công cụ điều hoà vốn cho nền kinh
tế:
Trong nền kinh tế luôn luôn xảy ra hiện tượng cùng một lúc có
những chủ thể kinh tế tạm thời dư thừa về vốn trong khi các chủ thể
kinh tế khác lại có nhu cầu vay vốn. Cụ thể:
Về nhu cầu vay vốn của nền kinh tế:
- Nhu cầu về vốn xuất hiện trước tiên trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Trong quá trình này, do đặc điểm vốn tự có thường không
đủ nên các doanh nghiệp thường phải vay thêm vốn để hỗ trợ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh. - Đối với những hộ gia đình, nhu cầu chi
tiêu lớn vượt quá thu nhập hiện tại (như: mua nhà, xe hơi,...) hoặc
những nhu cầu chi tiêu bất thường (đau ốm, bệnh tật,...) cũng làm phát
sinh nhu cầu vay mượn.
- Rồi đến nhà nước hay các chính quyền địa phương nhiều khi
cũng cần có những khoản tiền lớn để xây dựng cầu đường, trường học,
9
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
cơ sở y tế,...hoặc để khắc phục thiệt hại do thiên tai gây ra trong khi
thu ngân sách chưa đủ để đáp ứng ngay nên phải vay mượn.
Về nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của nền kinh tế:
- Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi xuất hiện trong quá trình tái sản
xuất: trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, nhiều lúc xuất hiện
một số vốn tiền tệ tạm thời chưa dùng vào sản xuất. Đây được xem là
nguồn hình thành vốn cho vay của nền kinh tế.
+ Trước hết do đặc điểm chu chuyển vốn cố định trong quá trình
tái sản xuất, các tài sản cố định như máy móc, nhà xưởng,...không thể
tính hết một lần vào chi phí sản xuất mà phải khấu hao dần dần. Quá
trình khấu hao này đã tạo nên vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi nằm trong
các quỹ khấu hao.
+ Tiếp theo, sự tuần hoàn và chu chuyển vốn lưu động trong quá
trình tái sản xuất cũng tạo ra vốn tiền tệ tạm thời chưa dùng đến.
Chẳng hạn do chênh lệch về số lượng và thời gian mua nguyên liệu,
do những khoản phải trả nhưng chưa đến kỳ trả, các khoản phải nộp
nhưng chưa đến kỳ nộp mà hình thành nên vốn nhàn rỗi nằm trong
quỹ tiền mặt hay quỹ lương của doanh nghiệp.
+ Cuối cùng là lợi nhuận được tích luỹ lại trong quỹ tích luỹ
nhưng chưa đủ quy mô nhất định để mở rộng sản xuất cũng hình thành
vốn tiền tệ tạm thời không dùng đến.
Những vốn tiền tệ tạm thời chưa dùng đến này là số vốn không
hoạt động, không sinh lời nên có thể được huy động vào mạng lưới tín
dụng và đầu tư để tái phân bổ cho các ngành theo nguyên tắc tín dụng.
10
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
- Nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi thu được dưới dạng tiền gửi tiết
kiệm của mọi tầng lớp trong xã hội: nguồn tiền nhàn rỗi này hình
thành từ khoản tiền tiết kiệm được trích ra từ thu nhập của người dân
và được xem là bộ phận quan trọng nhất trong vốn tín dụng của một
quốc gia.
Trong hai nguồn vốn trên, nguồn vốn từ sản xuất kinh doanh
thường tạo ra cung vốn ngắn hạn còn vốn từ tiết kiệm tạo ra cung vốn
dài hạn cho nền kinh tế.
Như vậy, sự thừa và thiếu hụt tạm thời về vốn trong nền kinh tế
như phân tích ở trên đòi hỏi cần phải có tín dụng để điều hoà vốn từ
nơi dư thừa vốn đến nơi thiếu hụt vốn. Do đó sự tồn tại và phát triển
của tín dụng trong nền kinh tế là một tất yếu khách quan.
Mặt khác, việc tín dụng góp phần điều phối lại vốn trong nền
kinh tế còn thúc đẩy quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận. Như ta
đã biết, sản xuất, cạnh tranh tự do luôn chạy theo lợi nhuận đã tạo điều
kiện và thúc đẩy vốn ở những ngành thu được lợi nhuận thấp chạy
sang những ngành có lợi nhuận cao hơn. Vì vậy thông qua tác dụng
phân phối lại vốn, tín dụng đã có vai trò thúc đẩy quá trình bình quân
hoá lợi nhuận giữa các ngành. Nhờ đó mà xã hội mới có điều kiện
phát triển.
c. Tín dụng là đòn bẩy thúc đẩy mạnh mẽ việc tập trung và
tích tụ vốn:
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
là tất yếu. Các doanh nghiệp lớn thường được các ngân hàng ưu tiên
cấp vốn, thậm chí với những điều kiện ưu đãi hơn hẳn so với các
11
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
doanh nghiệp nhỏ. Đây là điều kiện để các doanh nghiệp lớn mở rộng
hơn nữa quy mô sản xuất, kinh doanh, ứng dụng các tiến bộ mới của
khoa học - kỹ thuật, từ đó càng có thế vững chắc trong cạnh tranh.
Trong khi đó, các doanh nghiệp nhỏ muốn đứng vững trong cạnh
tranh để tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh hay mở rộng sản xuất
thường phải tự tích luỹ, sát nhập với các doanh nghiệp lớn hay liên kết
với nhau để tập trung vốn, lực lượng lao động có tay nghề, đầu tư vào
khoa học - công nghệ. Như vậy, nhờ vào đòn bẩy này mà quy mô sản
xuất và lưu thông hàng hoá được mở rộng và phát triển nhanh.
Một biểu hiện rõ nét của vai trò này là sự hình thành nên các
công ty cổ phần, một thực thể thiết yếu của nền kinh tế thị trường.
Chính sự xuất hiện của các công ty cổ phần đã phá bỏ giới hạn chật
hẹp của vốn cá nhân - luôn là xiềng xích đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
1.3 Sự ra đời và phát triển của tín dụng:
Tín dụng có quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Trong
thời kỳ tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thuỷ, cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, phân công lao động được mở rộng thì quan hệ
H - T cũng hình thành và phát triển. Đây là những điều kiện tiền đề
làm nảy sinh quan hệ tín dụng.
Trong thời kỳ này, song song với sự hình thành các gia đình cá
thể là sự thay đổi về cách thức phân phối thu nhập. Giờ đây của cải
không còn chia đều cho mọi thành viên trong công xã như trước kia
mà có xu hướng tập trung trong tay một số người hay một vài dòng họ
lớn nắm trong tay tư liệu sản xuất trong khi đại bộ phận gia đình khác
12
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
sống trong bần cùng, thiếu thốn thường xuyên vật phẩm tiêu dùng, tư
liệu lao động. Sự khác nhau ngày càng lớn về thu nhập dẫn đến sự
phân hoá giai cấp thành kẻ giàu, người nghèo. Để có tiền đóng thuế,
nộp tô và để bù đắp những thiếu hụt trong sinh hoạt hàng ngày, những
người nghèo phải vay mượn từ những người giàu. Tín dụng trong giai
đoạn này là tín dụng nặng lãi bởi vì trước những yêu cầu bức thiết của
con nợ, chủ nợ tìm cách nâng lãi suất lên cao. Như vậy, sản xuất nhỏ
chính là mảnh đất tốt để tín dụng nặng lãi tồn tại và phát triển. Hơn
nữa, do lãi suất cao nên người vay chỉ dám sử dụng vào mục đích tiêu
dùng phi sản xuất. Do đó, trong thời kỳ đầu hình thành và phát triển
dưới hình thức cho vay nặng lãi, tín dụng không phải là nhân tố kích
thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, quá trình tái sản xuất giản đơn
được thay thế bằng quá trình tái sản xuất mở rộng với quy mô lớn cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trước thực tiễn đó, các nhà tư bản dù
rất cần bổ sung vốn nhưng họ không thể sử dụng tiền vay nặng lãi,
vì thế giai cấp tư sản đã sử dụng công cụ nhà nước, tôn giáo, pháp
luật để đấu tranh với những người cho vay nặng lãi. Kết quả là nhà
nước ban hành các đạo luật khống chế mức lãi suất. Tuy nhiên, trên
thực tế hình thức này ít có hiệu quả, do đó khi phát triển cao hơn,
giai cấp tư sản tự góp vốn lại và cho nhau vay với lãi suất vừa phải.
Nói cách khác, họ thiết lập quan hệ tín dụng cho riêng mình. Đây là
thời điểm mở đầu cho giai đoạn phát triển mới ngày càng lớn mạnh
của hệ thống tín dụng phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển của
xã hội.
13
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
Ngày nay, cùng với yêu cầu khách quan của các lĩnh vực sản
xuất - lưu thông - tiêu dùng..., hệ thống tín dụng cũng mở rộng về
phạm vi hoạt động và đa dạng về hình thức. Vì vậy, tín dụng đã và
đang phát triển như một bộ phận không thể thiếu trong quá trình
phát triển của nền kinh tế quốc dân.
1.4 Các hình thức của tín dụng:
Hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú, vì thế cũng tồn
tại nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Có nhiều tiêu thức để phân
loại tín dụng, tuy nhiên tín dụng có thể được phân loại theo các tiêu
thức sau đây:
1.4.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia làm 3 loại, đó là:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm,
thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu
động và phục vụ nhu cầu cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm,
được dùng để đáp ứng nhu cầu về vốn để mua sắm tài sản cố định, cải
tiến và đổi mới kỹ thuật và mở rộng, xây dựng các công trình nhỏ có
thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được
sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến, đầu tư công nghệ
mới và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
1.4.2 Căn cứ vào đối tượng tín dụng:
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
14
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng chủ yếu
để bù đắp vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. Loại tín dụng này thường
được thực hiện dưới hình thức cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi
phí sản xuất và cho vay dưới hình thức chiết khấu các chứng từ có giá.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành
vốn cố định của doanh nghiệp dưới hình thức mua sắm tài sản cố định,
cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuẩt, xây dựng các xí nghiệp
và công trình mới. Thời hạn của loại tín dụng này là trung và dài hạn.
1.4.3. Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Theo căn cứ này, tín dụng bao gồm:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp
cho các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông
hàng hoá.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại và
những hàng hóa tiêu dùng khác. Loại này được cấp dưới hình thức cho
vay bằng tiền hoặc bán chịu hàng hoá.
1.4.4 Căn cứ vào sự bảo đảm cho vay, tín dụng bao gồm:
- Tín dụng không bảo đảm (tín chấp): là loại tín dụng không có
tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba để đảm bảo
cho khả năng hoàn trả của khoản vay mà việc đi vay chỉ dựa vào uy
tín của người vay hoặc bảo lãnh bằng tín chấp của các tổ chức đoàn
thể chính trị - xã hội. Hình thức cho vay này thường áp dụng đối với
các cá nhân và hộ gia đình với một khoản tiền nhỏ tại tổ chức tín dụng
để phục vụ kinh tế gia đình.
15
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
- Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng mà khi cấp tín dụng ngân
hàng yêu cầu người vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh
của bên thứ ba (có thể bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo
lãnh của TCTD khác) để đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay. Đây là
loại tín dụng được tất cả các ngân hàng áp dụng trong việc cấp tín
dụng cho khách hàng, đặc biệt là khoản vay lớn, các khoản đầu tư
trung, dài hạn.
1.4.5 Căn cứ vào chủ thể tín dụng:
Theo căn cứ này, tín dụng được chia thành 5 loại:
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các doanh
nghiệp, được biểu hiện dưới hình thức mua, bán chịu hàng hoá, ứng
trước tiền hàng. Khi đến thời hạn đã được thoả thuận, người mua phải
hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ cùng với một khoản
lãi - chính là khoản tiền lớn hơn của giá bán hàng chịu so với giá bán
hàng thanh toán ngay. Tuy nhiên, mục đích chính của tín dụng thương
mại không phải là lãi mà là hiệu quả kinh doanh, nó giúp cho quá trình
tái sản xuất diễn ra thông suốt, nhanh chóng.
- Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các
tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân (chi tiết về
hình thức tín dung này sẽ được trình bày kỹ hơn ở mục 2 chương 1).
- Tín dụng nhà nước: là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ
giữa nhà nước với nhân dân và các tổ chức khác theo đó nhà nước chủ
động vay của dân để tăng nguồn thu, bù đắp thiếu hụt ngân sách, tận
dụng vốn dư thừa trong dân, chi dùng cho yêu cầu phát triển kinh tế,
xã hội, văn hoá, giáo dục, an ninh quốc phòng...Trong quan hệ tín
16
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
dụng này, nhà nước thực hiện việc vay vốn của dân dưới hình thức
phát hành công trái, kỳ phiếu, tín phiếu...có hoàn trả. Bên cạnh đó, nhà
nước còn có thể tham gia thị trường chứng khoán với tư cách là người
mua các chứng khoán do các chủ thể khác phát hành. Trong hoạt động
này, nhà nước giữ vai trò là người cho vay. Như vậy, đây là hình thức
tín dụng thể hiện sự thống nhất về lợi ích giữa nhà nước và mọi thành
viên trong xã hội.
- Tín dụng quốc tế: là hình thức tín dụng thể hiện quan hệ tín
dụng giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ nước khác hay các tổ
chức tài chính, tín dụng quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Á châu (ADB)...hoặc giữa
các TCTD nước ta với các TCTD quốc tế, giữa doanh nghiệp và công
ty trong nước với các doanh nghiệp và công ty nước ngoài.
- Tín dụng tự huy động:
Đây là hình thức các doanh nghiệp tự huy động vốn để đảm bảo
tái sản xuất mở rộng. Việc huy động vốn có thể được thực hiện qua
các hình thức:
+ Huy động vốn trong nội bộ doanh nghiệp bằng cách vay ngắn
hạn hoặc dài hạn tiền dư thừa, tiền tiết kiệm, tiền lương của nhân viên
trong công ty trong đó việc có trả lãi hay không do doanh nghiệp và
người cho vay thoả thuận.
+ Huy động vốn từ các doanh nghiệp khác dưới hình thức liên
doanh, liên kết kinh tế hoặc điều chuyển vốn giữa các công ty, xí
nghiệp nhỏ trong cùng một công ty lớn.
17
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
+ Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Hình thức tín
dụng này ngày càng phát triển ở nước ta hiện nay.
2. Tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
2.1 Khái quát về tín dụng ngân hàng:
2.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng dưới hình thái tiền tệ
phát sinh giữa một bên là ngân hàng với một bên là tất cả các tổ chức,
cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi
vay vừa là người cho vay.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, đối tượng cho vay trong quan hệ tín dụng ngân hàng
là tiền tệ trong đó nguồn vốn mà ngân hàng cung cấp hình thành từ
những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội do chính ngân hàng
huy động được. Bởi vì đối tượng cho vay là tiền tệ cho nên sự vận
động của tín dụng ngân hàng không bị hạn chế về phương hướng,
thời gian và lượng giá trị cho vay.
- Thứ hai, trong quan hệ tín dụng này ngân hàng đóng vai trò
kép: vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Với vai trò là người đi
vay, ngân hàng huy động vốn từ các chủ thể khác nhau như các doanh
nghiệp, hộ gia đình, người nước ngoài... để tạo nên quỹ cho vay. Sau
đó, với tư cách là người cho vay, ngân hàng cung cấp vốn vay cho các
chủ thể kinh tế khác đang có nhu cầu về vốn.
- Thứ ba, quan hệ tín dụng ngân hàng mang tính chất gián tiếp
bởi vì người dư thừa vốn cung cấp vốn vay cho người thiếu vốn thông
qua trung gian là ngân hàng
18
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
- Thứ tư, sự vận động của tín dụng ngân hàng đôi khi thể hiện
tính độc lập tương đối đối với sự vận động của sản xuất, lưu thông
hàng hoá. Ví dụ, trong thời kỳ khủng hoảng của sản xuất tư bản chủ
nghĩa, sản xuất và lưu thông hàng hoá bị thu hẹp, nhu cầu về tiền vay
giảm bớt nhưng khả năng cung cấp tiền lại rất lớn bởi vì nhiều người
không muốn bỏ vốn vào kinh doanh nữa mà đem chúng gửi vào ngân
hàng để thu lợi tức tiền gửi. Trong thời kỳ khủng hoảng thừa, sản xuất
và lưu thông hàng hoá bị co hẹp lại, hàng hoá ế thừa không bán được,
nhiều người rút tiền khỏi ngân hàng nên khả năng cung cấp tiền vay bị
hạn chế. Thế nhưng, nhu cầu này tăng lên không phải để đầu tư mở
rộng sản xuất mà dành cho việc trả nợ để tránh bị vỡ nợ hoặc phá sản.
Như vậy, rõ ràng sự vận động của tín dụng ngân hàng mang tính
độc lập tương đối so với sự vận động của sản xuất và lưu thông hàng
hoá.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của tín dụng ngân hàng ở
Việt Nam:
Trong hoạt động của ngân hàng thì tín dụng ngân hàng là hoạt
động cơ bản nhất. Bởi vì vậy mà ngay từ khi tổ chức ngân hàng nước
ta mới được thành lập, việc huy động vốn và phân phối nguồn vốn đó
dưới hình thức cho vay đã được Nhà nước quy định một cách cụ thể.
Sắc lệnh 15/CP ngày 6-5-1951 của Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hoà do chủ tịch Hồ Chí Minh ký về việc thành lập Ngân hàng
quốc gia Việt Nam trên cơ sở thống nhất tổ chức tín dụng sản xuất và
ngân khố quốc gia thuộc Bộ Tài chính đã xác định hoạt động “huy
động vốn của nhân dân, điều hoà và mở rộng tín dụng để nâng cao sản
19
Khãa luËn tèt nghiÖp
TrÇn Hïng, A11-K38D
xuất và kinh tế Nhà nước” (điều 2-Sắc lệnh 15/CP ngày 6-5-1951) là
một trong những hoạt động chủ yếu của Ngân hàng. Tuy vậy, trên
thực tế tín dụng ngân hàng ở nước ta đến năm 1959 mới hình thành
với Quyết định số 54/QĐ-TTG ngày 19-2-1959 của Thủ tướng Chính
phủ về tín dụng vốn lưu động. Kể từ đó tín dụng ngân hàng đã phục
vụ đắc lực cho công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và trong cơ chế quản lý
tập trung bao cấp, hoạt động tín dụng ngân hàng cũng mang tính bao
cấp, được tiến hành theo những chỉ thị, mệnh lệnh trực tiếp. Nguồn
vốn cho vay của ngân hàng phụ thuộc vào kế hoạch của Nhà nước.
Trong khi các đơn vị sản xuất kinh doanh do phải hoạt động theo kế
hoạch cộng với việc được giao vốn, vay vốn cũng theo kế hoạch nên
việc sử dụng vốn tín dụng rất kém hiệu quả, tình trạng nợ nần, có vay
mà không có trả rất phổ biến. Vì vậy, các quan hệ tín dụng ngân hàng
giai đoạn này tồn tại dưới hình thức đơn giản.
Trong giai đoạn sau khi đất nước thống nhất năm 1975 đến năm
1985, hoạt động tín dụng được triển khai theo tinh thần Nghị quyết
32/HĐBT ngày 11-2-1977 của Hội đồng bộ trưởng về cải tiến, mở
rộng tín dụng hướng vào xây dựng cơ bản, đầu tư cho kinh tế quốc
doanh, cải tiến vốn, tín dụng theo phương thức tín dụng trong kế
hoạch và tín dụng ngoài kế hoạch. Tín dụng ngân hàng trong giai đoạn
này một mặt đáp ứng được kế hoạch cấp vốn của Nhà nước, mặt khác
thực hiện kinh doanh tiền tệ đã đóng góp tích cực vào công cuộc phục
hồi và phát triển nền kinh tế sau chiến tranh. Tuy nhiên, tín dụng ngân
20
- Xem thêm -