Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn lịch sử lớp 4 trườn...

Tài liệu Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn lịch sử lớp 4 trường th lam sơn

.PDF
15
62
101

Mô tả:

1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài. Trong sự nghiệp giáo dục, phân môn Lịch sử ở trường phổ thông đã góp phần không nhỏ trong việc giáo dục lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước và trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với sự phát triển của nước nhà. Chính vì vậy mà sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam ” 1 Đúng vậy, học lịch sử để biết được cội nguồn của dân tộc, sự hình thành và phát triển đất nước, quá trình đấu tranh đánh duổi giặc ngoại xâm, công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, sự đấu tranh hy sinh anh dũng của ông cha ta. Từ đó để giáo dục tình yêu con người, yêu quê hương đất nước cho mọi thế hệ tương lai của đất nước. Đối với học sinh tiểu học thì điều ấy càng quan trọng hơn, mặc dù mới chỉ là giúp các em có một số kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, tương đối có hệ thống theo dòng thời gian lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nay thôi nhưng đủ để giáo dục các em có kiến thức cơ bản về lịch sử nước nhà. Các em sẽ có kĩ năng thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử ở các nguồn khác nhau và hơn thế nữa là thái độ tình cảm yêu quê hương đất nước, các em sẽ được xây dựng bồi đắp trở thành con người có ích cho xã hội. Tuy nhiên phân môn Lịch sử là một môn học khó, nó gắn liền với những sự kiện, nhân vật, mốc thời gian trong quá khứ, không thể tái hiện, không thể “trực quan sinh động”, cũng không thể trực tiếp quan sát được. Lịch sử được phản ánh qua các nguồn sử liệu, vấn đề đặt ra là làm sao để các em nhận thức được lịch sử một cách chính xác, chân thực như nó đã tồn tại. Chính vì vậy mà đa số phần học sinh đều ngại, không yêu thích môn học lịch sử, đôi khi còn xem nhẹ, coi đó là môn phụ. Nhiều khi vì bắt buộc phải học thì các em học đối phó, nhớ một cách máy móc các sự kiện lịch sử, nội dung cần ghi nhớ nhưng chỉ sau một thời gian ngắn lại quên. Gần 20 năm trực tiếp giảng dạy ở lớp 4-5, gắn bó với phân môn lịch sử, tôi luôn trăn trở với câu hỏi làm sao để tất cả các em yêu thích Lịch sử? làm sao để phụ huynh quan tâm, coi trọng phân môn Lịch sử như môn Toán, Tiếng việt? Bản thân mình cần tìm ra những biện pháp gì để tạo hứng thú cho học sinh ở mỗi giờ học? Xuất phát từ những lý do cơ bản trên, tôi đã nghiên cứu, học hỏi và rút ra được kinh nghiệm trong dạy học phân môn Lịch sử ở năm học 2018-2019 này. Đó cũng chính là những nội dung tôi sẽ trình bày trong sáng kiến:“Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn phân Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn.”Kính mong đồng nghiệp tham khảo và góp ý.  1.2. Mục đích nghiên cứu. - Góp phần tìm ra Một số giải pháp giúp học sinh học tốt phân môn Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn - Giúp HS có hứng thú và yêu thích môn học. - Giúp học sinh nắm được những kiến thức, kĩ năng cần thiết của môn học. 1 Ghi chú: 1 Được trích từ những câu nói nổi tiếng của Bác Hồ 1 1.3. Đối tượng nghiên cứu. - Một số giải pháp giúp học sinh học tốt phân môn Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn. - HS lớp 4A1, HS lớp 4A2 Trường Tiểu học Lam Sơn năm học 2018-2019. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết Nghiên cứu các tài liệu giảng dạy, tài liệu tham khảo về môn Lịch sử lớp 4; Sách giáo khoa môn Lịch sử & Địa lý lớp 4; Mạng Internet... 1.4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin Qua quá trình giảng dạy trên lớp, qua các tiết thao giảng dự giờ, các buổi sinh hoạt chuyên môn ở tổ, .... 1.4.3. Phương pháp thống kê xử lý số liệu Qua khảo sát kết quả giảng dạy trước thực nghiệm, kết quả giảng dạy sau thực nghiệm. Từ đó so sánh, đối chiếu hai phương pháp và rút ra kết luận (Trước thực nghiệm - sau thực nghiệm) 2. Nội dung sáng kiến 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Như chúng ta đã biết, phân môn Lịch sử là môn học mới ở Tiểu học. Bước vào lớp 4, các em mới được làm quen mỗi tiết/tuần. Qua 35 tiết học, học sinh cần nắm được các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu của lịch sử dân tộc qua 8 giai đoạn lịch sử sau: 1. Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng 700 năm TCN đến năm 179). Gồm 2 bài. 2. Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập (Từ năm 179 TCN đến năm 938). Gồm 4 bài, trong đó có 1 bài ôn tập. 3. Buổi đầu độc lập. (Từ năm 938 đến năm 1009). Gồm 2 bài. 4. Nước Đại Việt thời Lý. (Từ năm 1009 đến năm 1226). Gồm 3 bài. 5. Nước Đại Việt thời Trần. (Từ năm 1226 đến năm 1400). Gồm 4 bài. 6. Nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỉ XV). Gồm 5 bài, trong đó có 1 bài ôn tập. 7. Nước Đại Việt thế kỉ XVI – XVII. Gồm 6 bài. 8. Buổi đầu thời Nguyễn. (Từ năm 1802 đến năm 1858). Gồm 3 bài, trong đó có 1 bài tổng kết. Như vậy, ta thấy rằng chương trình Lịch sử lớp 4 giúp học sinh có những kiến thức cơ bản, thiết thực về những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, phản ánh những vấn đế về sự phát triển các giai đoạn lịch sử, những thành tựu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta khoảng 700 năm trước Công Nguyên đến buổi đầu thời Nguyễn năm 1858. Mỗi bài học là một sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định phù hợp với mức độ nhận thức của học sinh. Tuy nhiên, là một môn học mới, còn lạ lẫm với học sinh. Vậy chúng ta làm thế nào để giúp các em học tốt môn học này? 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. a) Thuận lợi Trường Tiểu học Lam Sơn là trường chuẩn Quốc gia mức độ 1, đang tiếp tục hoàn thiện các tiêu chí để công nhận trường chuẩn Quốc gia mức độ 2 vào 2 cuối năm học 2018-2019. Nên về cơ bản cơ sở vật chất nhà trường khang trang đảm bảo nhu cầu dạy và học. Đội ngũ giáo viên có chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, tận tụy với học sinh. Học sinh có đầy đủ SGK, vở ghi và đồ dùng học tập theo yêu cầu. Được sự quan tâm của gia đình và tạo điều kiện tham gia học tập. Các em chăm ngoan, hiếu học, có ý thức cao trong học tập. b. Khó khăn - Nhà trường đã có thư viện nhưng chưa có cán bộ chuyên trách. Tài liệu tham khảo, SGK, SGV đầy đủ nhưng thiết bị dạy học tối thiểu còn thiếu. Cụ thể là trường có 15 lớp nhưng chỉ có 2 máy chiếu. Do vậy còn nhiều bất cập khi ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. - Giáo viên mặc dù được đào tạo cơ bản, có ý thức học tập nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn song chỉ chú trọng đến dạy Toán, Tiếng Việt, coi nhẹ phân môn Lịch sử, chưa dành thời gian cho việc nghiên cứu và giảng dạy trên lớp. Nên thường sử dụng các kỹ thuật, phương pháp dạy học truyền thống (thầy đọc - trò chép), sự đầu tư giảng dạy bằng máy chiếu, sử dụng phương tiện, đồ dùng trực quan còn hạn chế. Mỗi tiết dạy chỉ dừng lại ở việc truyền tải đủ nội dung của chương trình sách khoa hay chuẩn kiến thức kĩ năng. Giáo viên chưa có sự liên hệ, mở rộng hay hệ thống lại các sự kiện lịch sử, mối liên quan của các sự kiện đó. Dạy học lịch sử là phải cho các em thấy rõ những “bài học” từ quá khứ có mối liên hệ đến hiện tại và cả tương lai. Vừa dạy vừa phải hệ thống lại kiến thức đã học của những bài trước hay kiến thức cả một giai đoạn thì học sinh mới hiểu, nhớ và khắc sâu. Bên cạnh đó, một số giáo viên còn sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học đơn điệu, chưa phát huy được tính tích cực chủ động cho học sinh, chưa khơi dậy sự hứng thú, yêu thích môn học làm cho học sinh trở nên ngại học lịch sử, cho đó là một môn học thuộc lòng với một núi kiến thức sự kiện, số liệu, nhân vật, nguyên nhân, diễn biến, kết quả ….của các giai đoạn, thời kì nên nhiều học sinh thấy nản, không muốn học Lịch sử. Các em cảm thấy thiếu hứng thú và tiếp thu một cách thụ động. - Có giáo viên đã sưu tầm được nhiều tư liệu, đồ dùng phục vụ tiết dạy nhưng còn lúng túng khi sử dụng như hướng dẫn cho HS thực hành trên bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, hình ảnh, hoặc chưa sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các phương tiện dạy học. Chưa chú ý nhiều đến cách dùng sơ đồ để tóm tắt hay khai quát nội dung bài học để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Phần hình thành kiến thức còn khô khan, máy móc. Phần ứng dụng cộng nghệ thông tin vào giảng dạy còn hạn chế. Nếu biết ứng dụng công thông tin ta có để biến bài dạy thành một buổi trình chiếu những bộ phim lịch sử, hay biến một hoạt động dạy học thành một trò chơi học tập vô cùng hấp dẫn, … qua đó tạo hứng thú học tập cho các em mà chúng ta vẫn đạt được mục tiêu tiết học. - Một số giáo viên còn hạn chế kĩ năng kể chuyện hay tường thuật trận đánh làm giảm sự hứng thú của các em với giờ học. - Phân môn Lịch sử là môn học hoàn toàn mới lạ, khá trìu tượng đối với các em. Mặc dù mới chỉ là bước đầu có kiến thức về các sự kiện, số liệu, nhân vật, nguyên nhân, diễn biến, kết quả từ khoảng 700 năm trước Công Nguyên đến buổi đầu thời Nguyễn năm 1858 những cũng đủ để thấy đó là kho kiến thức khổng lồ mà các em cần phải nhớ, phải biết. Chính vì vậy đối với những học 3 sinh có khả năng tiếp thu chậm hơn, các em sẽ ngại, sẽ nản, không yêu thích lịch sử. Có những học sinh có trí nhớ tốt thì nhớ rất nhanh nhưng đó mới chỉ dừng lại ở học vẹt, nhớ một cách máy móc chứ chưa hiểu rõ cốt lõi của vấn đề. - Về phía học sinh: Nhiều em ngại đọc sách, ngại tìm hiểu… dẫn đến tâm lý không thích học Lịch sử. * Kết quả của thực trạng trên: Trong năm học 2018 - 2019, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 4A1 với tổng số học sinh là 29 học sinh. Trong 5 tuần đầu giảng dạy tôi tập trung đánh giá thường xuyên từng học sinh lớp tôi chủ nhiệm (cùng phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp 4A2 để có kết quả đánh giá thường xuyên) đồng thời tiến hành một bài khảo sát nhỏ vào tuần thứ 5 đối với cả hai lớp 4A1, 4A2 như sau: PHIẾU KHẢO SÁT Em hãy cho biết ý kiến của mình bằng cách khoanh vào chữ cái đặt trước ý kiến đó? Câu 1: Học lịch sử giúp em biết gì? A. Các sự kiện, nhân vật lịch sử qua các thời kì. B. Quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta. C. Cả hai ý trên. Câu 2: Em cảm thấy thế nào khi học lịch sử? A.Thấy bình thường B.Thấy hứng thú, yêu thích giờ học lịch sủ. C.Thấy không yêu thích, không hứng thú với mỗi giờ học Lịch sử Câu 3: Nếu trong mỗi giờ học lịch sử có những hoạt động sau, em thích những hoạt động nào? A. Thầy cô giáo tổ chức cho các hoạt động cá nhân, đọc thầm SGK, trả lời câu hỏi. B. Thầy cô giáo tổ chức cho các em hoạt động thảo luận nhóm để tự tìm hiểu bài. C. Được nghe giáo thầy cô giáo hay bạn bè kể cho nghe những câu chuyện lịch sử. D. Thầy cô tổ chức cho quan sá tranh ảnh, lược đồ để tìm hiểu bài. E. Thầy cô tổ chức các trò chơi học tập. G. Học lịch sử theo hình trình chiếu (ứng dụng công nghệ thông tin). H. Thầy cô cho xem những đoạn phim tư liệu về lịch sử. * Kết quả thực trạng: Chất lượng giáo dục môn học Số học sinh Số học sinh Chưa không yêu Hoàn hứng thú, yêu Tốt hoàn thích, chưa thành thích giờ Lịch TSHS thành hứng thú giờ sử học lịch sử SL TL SL TL SL TL 4A1: 29HS 4 13,8 23 74,3 2 6,9 4 13,8 25 82,2 4A2: 26 HS 2 7,7 20 76,9 4 15,4 2 7,7 24 92,3 Qua quan sát thực tế và kết quả khảo sát, tôi nhận thấy chất lượng giáo dục môn học chưa chưa cao. Số em hứng thú, yêu thích môn học còn ít; số em 4 hoàn thành tốt còn hạn chế. Trước thực trạng này càng thôi thúc tôi cần tìm ra một số giải pháp để dạy tốt phân môn Lịch sử này. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1.Giải pháp nghiên cứu, chuẩn bị bài dạy giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử. Mỗi giáo viên trong nhà trường mặc dù được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn vững vàng, có ý thức học tập nâng cao nghiệp vụ song chỉ chú trọng đến dạy hai môn Toán, Tiếng Việt, coi nhẹ phân môn Lịch sử nên chưa dành thời gian cho việc nghiên cứu và giảng dạy trên lớp.Thường sử dụng các kỹ thuật, phương pháp dạy học truyền thống (thầy đọc - trò chép), sự đầu tư giảng dạy bằng máy chiếu, sử dụng phương tiện, đồ dùng trực quan còn hạn chế. Như vậy chính chúng ta đã làm giảm đi sự tầm quan trọng của môn học, giảm đi sự phát huy tính tích chủ động của mỗi học sinh; các em thấy giờ học trở nên nhàm chán, không có hứng thú mà chỉ biết tiếp thu kiến thức một cách thụ động, tẻ nhạt. Chính vì vậy, tôi nghĩ chúng ta cần phải có ý thức, trách nhiệm cao trong mỗi giờ dạy dù đó là Toán hay Lịch sử, là Tiếng Việt hay Kĩ thuật. Môn nào cũng cần phải chuẩn bị, đầu tư chu đáo về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm đạt được mục tiêu tiết dạy nhưng phát huy được tính tực chủ động của học sinh. Mỗi tiết dạy chúng ta cần trăn trở dạy như thế nào? Tự đặt câu hỏi xem đây là bài học gì (hình thành kiến thức mới hay ôn tập, luyện tập, thực hành…); Chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt được những gì? Cách giới thiệu bài học này như thế nào? (vào bài học trực tiếp hay gián tiếp? Làm thế nào để vào bài học tự nhiên nhất?...); Có sử dụng tình huống có vấn đề để giới thiệu bài học này hay không? (Tình huống như thế nào? Dự kiến cách giải quyết vấn đề ra sao?...); Việc sử dụng phương pháp và phương tiện dạy học như thế nào cho đạt hiệu quả cao? Nội dung bài học chia ra những đơn vị kiến thức nào? Dự kiến tổ chức những hoạt động dạy học nào tương ứng? Giáo viên sẽ sử dụng những câu hỏi để thúc đẩy khả năng tư duy sáng tạo của học sinh như thế nào? Từ đó dẫn tới câu hỏi về: Hình thức tổ chức lớp học nào là hợp lý? Cần chú ý những kĩ thuật dạy học nào được vận dụng ở đây? Lời nói, hành động, thao tác cụ thể của giáo viên là gì? Giáo viên trình bày bảng những nội dung nào? Dự kiến tích hợp nội dung giáo dục liên quan nào là phù hợp? Nếu đưa bài dạy này thành tiết dạy ứng dụng công nghệ thông tin thì hiệu quả sẽ ra sao? Học sinh thấy hứng thú hay nhàm chán hơn? Nếu chúng ta tự hỏi, tự trả lời được những câu hỏi đó chúng đã thành công trong công tác nghiên cứu, chuẩn bị bài dạy giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử. 2.3.2. Giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử thông qua ứng dụng công nghệ thông tin. Như chúng ta đã biết, việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học không những tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của mà còn góp phần làm cho giờ học trở nên sinh động, hiệu quả, kích thích được tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Đối với những tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin học sẽ được trực quan, dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Vậy làm thế nào để chúng ta có thể ứng dụng công nghệ thông vào giảng dạy Lịch sử một cách hiệu quả, tích cực? 5 Việc thứ nhất: GV phải chủ động tích cực tự học, tự bồi dưỡng để biết ứng dụng CNTT vào giảng dạy. Tự học thông qua đồng nghiệp; tự học thông qua Internet, thông qua các trang YouTube về hướng dẫn cách soạn giáo án điện tử; tự học thông qua sinh hoạt chuyên môn; tham gia các lớp bồi dưỡng về trình độ tin học cho giáo viên. Nếu mỗi giáo viên có thể nắm được các bước cơ bản về soạn thảo văn bản, kẻ biểu bảng, tạo hiệu ứng, tạo trò chơi, chèn các video hay âm thanh vào các silide…. thì có thể sử dụng phần mềm trình chiếu powerpoint dạy học mang lại hiệu quả. GV có thể lên mạng Internet vào các đường link sau để tự học: Ví dụ1: Chúng ta có thể học những kiến thức cơ bản (dù là chưa biết gì về powerpoint). Ta có thể vào học ở đường lik sau:https://www.youtube.com/watch?v=y4MLO01BIbw; Ví dụ2: Chúng muốn học cách tạo hiệu ứng cho văn bản hay hình ảnh, cách chèn video, âm thanh vào powerpoint ta có thể học qua đường lik https://www.youtube.com/watch?v=k0gswclrmrI; Vi dụ3: Nếu chúng ta muốn cắt một video thành nhiều đoạn ngắn theo ý muốn chúng thể oline video cutter theo đường lik https://www.google.com/search? ei=vlmzXNKYFZH7wQPWi47wDQ&q=cắt+video+online+nhanh&oq=cắt&gs _l=psy-ab.1.0.35i39j0j0i67j0l7.1793.2640..5058...3.0..1.107.57 Việc thứ hai: Nghiên cứu chương trình, cấu trúc, đặc điểm phân môn Lịch sử lớp 4 để từ đó xác định được những bài dạy nào có thể ứng dụng công nghệ thông tin giúp học yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử. Trong chương trình Lịch sử lớp 4, gồm 8 giai đoạn lịch sử với tổng số: 29 bài. Mỗi bài dạy đều gắn mỗi sự kiện, nhân vật, mốc thời gian cụ thể,... Mặt khác với mỗi nội dung bài học trong sách giáo khoa chủ yếu là kênh chữ (kênh hình ít, tranh ảnh đen trắng, mờ...) nên nếu chúng ta ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy kết hợp khai thác các tư liệu lịch sử vào trình chiếu thì giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh. Sau đây là hệ thống các bài có thể ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, mang lại hiệu quả giáo dục cao: Chủ đề Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Từ khoảng năm 700 TCN đến năm 179 TCN) Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập (Từ năm 179TCN đến năm 938) Buổi đầu độc lập (Từ năm 938 đến 1009) Nước Đại Việt thời Lý (Từ Những bài ứng dụng CNTT mang lại hiệu quả. Bài 1: Nước Văn Lang Bài 2: Nước Âu Lạc Bài 3: Nước ta dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc. Bài 4: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng Bài 5: Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (Năm 938) Bài 6: Ôn tập Bài 7: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân Bài 8: Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất (năm 981) Bài 9: Nhà Lý dời đô ra Thăng Long 6 Bài 10: Chùa thời Lý năm 1009 đến năm 1226) Bài 11: Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai (1075-1077) Bài 12: Nhà Trần thành lập Bài 13: Nhà Trần và việc đắp đê Nước Đại Việt thời Trần (Từ Bài 14: Cuộc kháng chiến chống quân xâm năm 1226 đến 1400) lược Mông-Nguyên Bài 15: Nước ta cuối thời Trần Bài 16: Chiến thắng Chi Lăng Bài 17: Nhà Hậu Lê và việc tổ chức quản lí Nước Đại Việt buổi đầu thời đất nước. Hậu Lê (Thế kỉ XV) Bài 18: Trường học thời Hậu Lê Bài 19: Văn học và Khoa học thời Hậu Lê. Bài 21: Trịnh – Nguyễn phân tranh Bài 22: Cuộc khẩn hoang ở đàng trong Bài 23: Thành thị ở thế kỉ XVI-XVII Bài 24: Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Nước Đại Việt thế kỉ XVILong (Năm 1786) XVIII Bài 25: Quang Trung đại phá quân Thanh (Năm 1789) Bài 26: Những chính sách về kinh tế và văn hóa của vua Quang Trung Buổi đầu thời Nguyễn (Từ năm Bài 27: Nhà Nguyễn thành lập 1802 đến năm 1858) Bài 28: Kinh thành Huế. Việc thứ ba: GV tiến hành ứng dụng công nghệ thông tin vào từng bài dạy để gây hứng thú, tạo sự yêu thích giúp HS học tốt từng bài học. Vậy cách ứng dụng như thế nào? Ví dụ 1: Bài 5: Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (Năm 938). Mục tiêu cần đạt được của tiết dạy là: Kể ngắn gọn trận Bạch Đằng năm 938: + Đôi nét về người lãnh đạo trận Bạch Đằng: Ngô quyền quê ở xã Đường Lâm, con rể của Dương Đình Nghệ. + Nguyên nhân trận Bạch Đằng: Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ và cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền bắt giết Kiều Công Tiễn và chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán. + Những nét chính về diễn biến của trận Bạch Đằng: Ngô Quyền chỉ huy quân ta lợi dụng thuỷ triều lên xuống trên sông Bạch Đằng, nhử giặc vào bãi cọc và tiêu diệt địch + Ý nghĩa của trận Bạch Đằng đối với lịch sử dân tộc: Chiến thắng Bạch Đằng kết thúc thời kỳ nước ta bị phong kiến Phương Bắc đô hộ, mở ra thời kỳ độc lập lâu dài cho dân tộc.  2 Ghi chú:  2 Được trích từ Sách Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học lớp 4 1 Với mục tiêu trên, để gây được hứng thú cho HS với giờ học, tôi trình chiếu tranh sau để HS quan sát, nêu được nội dung tranh. 7 (Hình 1: Trận Bạch Đằng năm 938 )  3 Từ đó để dẫn dắt giới thiệu: “ Đây chính là cảnh “Trận Bạch Đằng năm 938”, do Ngô Quyền lãnh đạo. Đây là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của nước ta hơn 1000 năm trước. Vậy tại sao lại có trận đánh này? Diễn biến kết quả và ý nghĩa của trận đánh này như thế nào? Để biết được điều đó cô cùng các em tìm hiểu bài học ngày hôm nay:Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo”. * Đối với phần 1: Tìm hiểu đôi nét về Ngô Quyền: Sau khi tổ chức cho học sinh tìm hiểu Đôi nét về Ngô Quyền, tôi có thể trình chiếu tranh ảnh về quê hương của ông để HS được trực quan, sinh động hơn.  4 (Cổng làng ở xã Đường Lâm – quê hương Ngô Quyền) Ghi chú:  3 Được trích từ Tr22, SGK LS&ĐL4;  4 lấy từ mạng Interet 1 *Đối với phần 2: Tìm hiểu về Trận Bạch Đằng + Sau khi tổ chức cho HS thảo luận nhóm tìm ra “Nguyên nhân vì sao có trận Bạch Đằng” GV có thể trực quan, khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách trình chiếu 2 phút đầu đoạn phim tư liệu về Trận chiến Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền theo đường link https://www.youtube.com/watch?v=FuFAJ4FDp5k. Việc tổ chức cho các em xem phim không nhưng thu hút được sự tập trung chăm chú của các em mà nó còn giúp em mau hiểu và nhớ bài.  5 (Ảnh chụp từ đoạn phim Trận chiến Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền) + Ở phần tìm hiểu về kế đánh giặc của Ngô Quyền, sau khi HS tìm hiểu, trình bày, GV có thể chốt lại kiến thức bằng cách trình chiếu sơ đồ kiến thức sau. Qua sơ đồ trình chiếu theo các hiệu ứng, học sinh sẽ khái quát được kiến thức một cách trực quan nhất. Lợi dụng lúc thuỷ triều lên, xuống Kế đánh giặc của Cắm cọc gỗ đầu nhọn xuống Ngô nơi hiểm yếu ở sông Bạch Đằng Quyền trên sông Quân ta mai phục ở hai bên bờ Bạch sông Đằng + GV ứng dụng công nghệ thông tin cho học sinh xem một đoạn video để học sinh được hiểu rõ hơn hiện tượng thủy triều. + Phần diễn biến trận Bạch Đằng, sau khi giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nêu những nét chính của diễn biến trận Bạch Đằng. Giáo viên mở rộng, khắc sâu cho học sinh xem 4 phút còn lại của đoạn phim tư liệu về Trận chiến Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền theo đường link https://www.youtube.com/ watch?v=FuFAJ4FDp5k. Đoạn phim giúp HS được trực quan, khắc sâu về diễn biến của Trận Bạch Đằng. 8 Ghi chú:  5 Được chup màn hình từ đường lik https://www.youtube.com/watch?v=FuFAJ4FDp5k  6 1 (Ảnh chụp từ đoạn phim Trận chiến Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền) *Đối với phần 3: Ý nghĩa Trận Bạch Đằng. Sau khi học sinh chủ động tìm được ý nghĩa của Trận Bạch Đằng, GV có thể liên hệ thực tế để giáo dục HS tinh thần yêu nước, lòng biết ơn Ngô Quyền thông qua các hình ảnh sau:  7 Tượng Ngô Quyền) (Lăng Ngô Quyền ở Đường Lâm (sông Bach Đằng) (Đường Ngô Quyền) Ví dụ 2: Bài 7: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Mục tiêu cần đạt được của tiết dạy là: - HS nắm được những nét chính về sự kiện Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân: Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước rơi vào cảnh loạn lạc, các thế lực cát cứ địa phương nổi dậy chia cắt đất nước; Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp nhân dân dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. - HS nắm được đôi nét về Đinh Bộ Lĩnh: Đinh Bộ Lĩnh quê ở vùng Hoa Lư, Ninh Bình, là một người cương nghị, mưu cao và có chí khí lớn, ông có công dẹp loạn 12 sứ quân.Với mục tiêu trên, tôi chia nội dung bài này thành 3 đơn vị kiến thức: 1-Tình hình đất nước sau khi Ngô Quyền mất; 2- Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. *Đối với phần 1: Tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất. -Sau khi GV tổ chức cho HS làm việc với sách giáo khoa thảo luận nhóm để biết được tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất, GV trình chiếu lược đồ Loạn 12 sứ quân, giới thiệu: “Trên khắp miền Bắc nước ta trở vào đến Thanh Hóa là 12 sứ quân chiếm đóng, chúng đánh chém lẫn nhau, chia nước ta 12 vùng. Cột cờ kí hiệu vị trí thủ phủ của các sứ quân, dòng chữ màu đen là tên địa danh các sứ quân chiếm cứ. Còn các chữ trong ngoặc đơn là tên các tướng của sứ quân”  6 Được chup màn hình từ đường lik https://www.youtube.com/watch?v=FuFAJ4FDp5k;  7 lấy mạng Internet  8 (Lược đồ: Loạn 12 Sứ quân) *Đối với phần 2: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 Sứ quân Sau khi giáo viên tổ chức cho HS tìm hiểu SGK, thảo luận nêu được đôi nét về Đinh Bộ Lĩnh: Đinh Bộ Lĩnh quê ở vùng Hoa Lư, Ninh Bình, là một người cương nghị, mưu cao, GV xuất hiện xuất hiện lược đồ hành chính Việt Nam, yêu cầu lên bảng vị trí của tỉnh Ninh Binh quê hương của Đinh Bộ Lĩnh, sau đó trình chiều một số tranh ảnh giới thiệu về cảnh Hoa Lư ngày nay để tạo hứng thú và mở rộng hiểu biết cho học sinh.  9  8 ,  9 lấy từ mạng Internet 10 (Lược đồ hành chính Việt Nam) (Cảnh Hoa Lư ngày nay) Với câu hỏi Đinh Bộ Lĩnh là người như thế nào? HS có thể dựa vào kênh chữ trong sách khoa để trả lời. Tuy nhiên để giờ học sinh động, tạo được hứng thú học tập cho các em, GV tổ chức trình chiếu cho HS xem một đoạn phim tư liệu 9 nói về thời niên thiếu của Đinh Bộ Lĩnh để học sinh hiểu rõ được ngay từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã là người có khí chất làm vua. 11 (Ảnh chụp từ đoạn phim Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân phần 1 ) Qua đoạn phim HS trực quan một sinh động, các em thấy dễ hiểu, dễ nhớ và yêu thích thời niên thiếu của Đinh Bộ Lĩnh. Đến phần dẹp loạn 12 Sứ quân, để các em được hiểu rõ hơn gv có thể cho các em đoạn phim tư liệu: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân phần 1 có đường link https://www.youtube.com/watch?v=o5bHeAWewxA 10 , 11 lấy từ mạng Internet 12 (Ảnh chụp từ đoạn phim Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân phần 1 ) Hoặc để giáo dục học sinh ghi nhớ công ơn của Đinh Bộ Lĩnh, GV có thể trình chiếu một số tranh, ảnh sau để lồng ghép giáo dục: (Núi Mã Yên - Nơi vua Đinh) Tiên Hoàng yên nghỉ (Ngôi trường mang tên Đinh Tiên Hoàng) (Lăng mộ Đinh Tiên Hoàng) (Con đường mang tên Đinh Tiên Hoàng) (Tượng Đinh Tiên Hoàng) (Lê hội Hoa Lư) Ví dụ 3: Bài 12: Nhà Trần thành lập -Sau khi học sinh thảo luận tìm hiểu được hoàn cảnh nước ta cuối thời Lý và nhà 12 cắt từ video đường lik https://www.youtube.com/watch?v=o5bHeAWewxA Trần đã thay thế nhà Lý như thế nào? Để học hiểu rõ về việc nhà Trần ra đời là nhờ công của Trần Thủ Độ. Vậy Trần Thủ Độ là ai? Ông là người như thế nào? GV trình chiếu ảnh chân dung về ông để giới thiệu thêm về Trần Thủ Độ cho học sinh hiểu. 13 (Chân dung Trần Thủ Độ) -Hoặc sau khi tìm hiểu xong phần “Hoàn cảnh ra đời của nhà Trần” GV có thể lên mạng Intenr tải đoạn phim nói về hoàn cảnh nước ta cuối thời thời Lý, hoàn cản ra đời của nhà Trần (đường link https://www.youtube.com/watch? v=MlAQOUcl4uQ.) Qua đoạn phim các HS sẽ được trực quan sinh động hiểu và nắm bài được tốt hơn. 14 (Ảnh chụp từ đoạn phim Nhà Trần thành lập phần 2 ) Qua các ví dụ trên, chúng ta thấy việc ứng dụng CNTT vào từng bài dạy sẽ gây hứng thú, tạo sự yêu thích giúp HS học tốt từng bài học. Nhưng chúng ta cũng không nên quá lạm dụng mà hãy coi đó là công cụ, là phương tiện hỗ trợ trình chiếu tranh ảnh, lược đồ, phim tư liệu làm cho giờ học trở nên sinh động, hứng thú với học sinh. Còn việc sử phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp từng đối tượng HS để phát huy tính tích cực, chủ động mới là quan trọng hàng đầu. 10 Việc thứ tư: Để ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy lịch sử, ngoài kênh hình, kênh chữ có trong sách giáo khoa thì giáo viên phải biết khai thác mạng Intenet để lấy tranh ảnh, phim tư liệu phù hợp để trình chiếu giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, kĩ năng một cách hiệu quả nhất. 13 khai thác từ mạng Internet; 14 cắt từ video đường link https://www.youtube.com/watch? v=MlAQOUcl4uQ Ví dụ 1: Khi dạy bài 1: Nước Văn Lang; để củng cố, khắc sâu và mở rộng kiến thức lịch sử cho học sinh, giáo viên có thể cho học sinh xem một đoạn phim tài liệu nói về sự ra đời của nước Văn Lang. Đoạn phim này được tải theo đường link https://www.youtube.com/watch?v=tg1dhz-PoPg. 15 (Hình ảnh chụp từ video: Nước văn Lang link https://www.youtube.com/watch?v=tg1dhzPoPg) Ví dụ 2: Khi dạy bài 2: Nước Âu Lạc, để củng cố tiết học, GV tổ chức cho học sinh xem một đoạn phim An Dương Vương và nước Âu Lạc (phần 1) với đường link https://www.youtube.com/watch?v=IE5jv0L07ZQ (đoạn phim này được giáo viên chèn vào slide trình chiếu), Qua đoạn phim này học sinh càng được củng cố, khắc sâu kiến thức về sự ra đời của nước Âu lạc và quá trình xây dựng, tồn tại của nước Âu lạc. 16 (Ảnh chụp từ vi deo lik https://www.youtube.com/watch?v=IE5jv0L07ZQ) Ví dụ 3: Khi dạy bài 8: Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất (Năm 981) GV cũng có thể tham khảo bộ phim tư liệu: Vua Lê Đại Hành và kháng chiến chống quân Tống. GV có thể sử dụng trình chiếu trong quá trình tìm hiểu bài hoặc củng cố bài (tùy thuộc sự linh hoạt trong dạy học của mỗi giáo viên, đường link https://www.youtube.com/watch?v=xC-pGAtLwSk 15 cắt từ video đường lik https://www.youtube.com/watch?v=tg1dhz-PoPg; 16 cắt từ video đường lik https://www.youtube.com/watch?v=IE5jv0L07ZQ) 17 (Ảnh chụp từ vi deo lik https://www.youtube.com/watch?v=xC-pGAtLwSk) Chỉ qua một số ví dụ trên cũng đã đủ chứng minh ta thấy mạng Internet là “một kho thiết bị dạy học” khổng lồ. Vấn đề là chúng ta có biết khai thác và biết sử dụng nó hay không? Nếu chúng ta trả lời được những câu hỏi đó thì tôi tin rằng mỗi giờ học lịch sử là một giờ học đầy thú vị và hấp dẫn. Đồng thời chúng ta hãy đăng ký là thành viên thư viện viloet hay tạo websitete cá nhân trên violet để tham khảo, trao đổi các tài liệu với đồng nghiệp. 2.3.3. Giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử thông qua cách nắm vững các giai đoạn lịch sử. Nếu dạy lịch sử mà ta dạy theo cách cuốn chiếu, hết bài này chuyển sang bài khác mà không có sự liên kết, sâu chuỗi các sự kiện lịch sử trong mỗi giai đoạn thì học sinh học sẽ không nhớ, không hiểu gì? Đặc biệt khi bước vào mỗi một giai đoạn lịch sử mới, giáo viên cần nêu vấn đế hoặc tổ chức cho học sinh tìm hiểu đó là giai đoạn lịch sử nào? Giai đoạn lich sử ấy bắt đầu từ năm nào? Kết thúc năm nào? Kéo dài trong bao nhiêu năm? Trong giai đoạn lịch sử ấy chúng ta cần nắm được những sự kiện, nhân vật, mốc lịch sử nào? Qua thực tế 11 giảng dạy của bản thân cũng như qua giảng dạy một số tiết lịch sử ở trường bạn (kì thi giáo viên giỏi huyện), khi kiểm tra bài cũ các em thường không nhớ tên giai đoạn lịch sử đang học. Chính vì vậy tôi thiết nghĩ, khi bước vào một giai đoạn lịch sử mới giáo viên phải tổ chức cho học sinh tìm sơ qua về một số sự kiện tiêu biểu của giai đoạn ấy. Đặc biệt trong quá trình dạy những bài lịch sử trong một giai đoạn, giáo viên luôn luôn hệ thống lại kiến thức theo dòng thời gian để học hiểu nắm vững những sự kiện lịch sử đã học. Vi dụ1: Khi dạy bài 7: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Trước khi vào học bài mới, GV xuất hiện trục thời gian, yêu cầu HS dựa vào trục thời để nêu tên hai giai đoạn lịch sử đầu tiên trong lịch sử nước ta? Khoảng năm 700 Năm 179 công nguyên Năm 938 Năm 1009 Từ đó dẫn dắt để giới thiệu về giai đoạn lịch sử tiếp theo? (HS nêu tên giai đoạn 17 cắt từ video đường lik https://www.youtube.com/watch?v=xC-pGAtLwSk kèm năm; cho biết giai đoạn lịch sử này gắn liền với những triều đại nào) rồi từ đó giáo viên mới dẫn dắt giới thiệu bài học. Vi dụ2: Khi dạy bài 12: Nhà Trần thành lập Đây là một bài đầu tiên của một giai đoạn mới, để học sinh có kiến thức một cách hệ thống, khi kiểm tra bài cũ, giáo viên có thể hỏi: ? Các em đang học giai đoạn lịch sử nào? (Nước Đại Việt thời Lý, từ năm 1009 đến năm 1226) ? Qua các bài đã học về giai đoạn lịch sử này, các em biết gì về Nhà Lý? Câu hỏi trên là một câu hỏi mở, HS có thể thi đua để phát biểu về những sự kiện, nhận vật tiêu biểu ở giai đoạn lịch sử này. Khi giáo viên muốn giới thiệu về giai đoạn lịch sử “Nước Đại Việt thời Trần (từ năm 1226 đến 1400)” thì giáo viên cũng không nên giới thiệu ngay. Bởi phần đầu tiên của bài Nhà Trần thành lập đang còn liên quan đến cuối triều Lý. Do đó, GV tổ chức cho HS tìm hiểu được hoàn cảnh nước ta cuối thế kỉ XII và sự ra đời của nhà Trần. Từ đó GV mới dẫn dắt để giới thiệu giai đoạn lịch sử Nước “Đại Việt thời Trần từ năm 1226 đến 1400” 2.3.4. Giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử thông qua cách tổ chức trò chơi. Trong quá trình dạy học, giáo viên cần phải biết linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học một cách đa dạng phong phú để gây hứng thú, phát huy được vai trò trung tâm của học sinh. Trong muôn vàn cách thì việc lồng ghép việc tổ chức các trò chơi trong tiết học hay giờ ngoại khóa mang lại hiệu quả giáo dục vô cùng to lớn. Có rất nhiều các trò chơi học tập có thể áp dụng trong các giờ học lịch sử, hay các giờ HĐNGLL mà mang lại hiệu gủa giáo dục cao như “Rung chuông vàng”; “Nhà Sử học tài ba”; “Ai nhanh ai đúng?”; “Đố vui”; “trò chơi ô chữ”’ “mảnh ghép bí mật”, .... Bản thân tôi thường xuyên áp dụng trò chơi “Rung chuông vàng”; “Nhà Sử học tài ba:; “Ai nhanh ai đúng?” trong giờ học Lịch sử hay tiết sinh hoạt lớp. Bởi về cơ bản cách tổ chức 3 trò chơi này về hình thức giống nhau (khác tên gọi); Cách chơi và sự chuẩn bị đơn giản, không mất nhiều thời gian nhưng học sinh rất hứng thú, đặc 12 biệt là học sinh có thể tham gia đồng loạt. Hoặc thường xuyên tổ chức trò chơi “đố vui”, qua các câu đố học sẽ nhớ được các nhân vật, sự kiện lịch sử tiêu biểu. Để làm được điều đấy, sau một bài học, giáo viên phải biết xây dựng hệ thống câu hỏi hay biết sưu tầm các câu đố để tổ chức trò chơi. Ví dụ 1: Khi dạy xong bài: Nhà Trần thành lập, tôi xây dựng hệ thống câu hỏi sau để tổ chức trò chơi Rung chuông vàng hay Nhà Sử học tài ba: Câu 1 : Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho ai ? A. Nhường ngôi cho Chồng là Trần Cảnh B. Nhường ngôi cho Trần Thủ Độ C. Nhường ngôi cho quân xâm lược Phương Bắc. Câu 2 : Nhà Trần được thành lập năm nào ? A. Đầu năm 1400. B. Đầu năm 1226 C. Cuối năm 1076 Câu 3 : Nhà Trần đặt tên nước là : A. Đại Việt B. Đại Cồ Việt C. Thăng Long Câu 4: Dưới thời Trần kinh đô ở đâu? A. Hoa Lư B. Thăng Long C. Cổ Loa Câu 5: Nhà Trần quan tâm đến việc phát triển nông nghiệp và phòng thủ đất nước như thế nào ? A. Trai tráng khỏe mạnh được tuyển vào quân đội, thời bình thì ở nhà sản xuất, lúc chiến tranh thì tham gia chiến đấu. B. Nhà Trần lập thêm Hà Đê Sứ để trông coi việc đắp đê và bảo vệ đê điều; khuyến nông sứ chăm lo, khuyến khích nông dân sản xuất; Đồn điền sứ tuyển mộ người đi khần hoang. C. Cả hai ý trên. (Ảnh minh họa trò chơi : Nhà Sử học tài ba do tôi tổ chức) Ví dụ 2: Sưu tầm nhiều câu đố vui về lịch sử để tổ chức các trò đố vui nhằm giới thiệu hay cũng cố bài về nhân vật hay sự kiện lịch sử nào đó. Sau đây là một số câu đố vui, tôi đã sưu tầm: 1. Vua nào mặt sắt đen sì? 2. Vua nào trong buổi hàn vi ở chùa? 3. Ngựa ai phun lửa đầy đồng? 4. Kiếm ai trả lại rùa vàng? 5. Còn ai đổi mặc hoàng bào? 6. Nữ lưu sánh với anh hào những ai? 7. Tướng Tàu chui ống chạy dài Bắc phương? 8. Rắc lông ngỗng, thiếp nghe chàng hại cha? 9. Anh hùng đại thắng Đống Đa? 10. Lũy Thầy ai đắp, ai xây? 11. Vua Bà lừng lẫy uy danh? 12. Ấu nhi tập trận, cỏ tranh làm cờ? 13. Vua nào nguyên-súy hội thơ? 14. Hùng-Vương quốc-tổ đền thờ ở đâu? 13 15. Đục chìm thuyền địch dưới sông Bạch-Đằng? 16. Lý triều nổi tiếng cao tăng? 17. Bình-Ngô ai soạn bản văn lưu truyền? 18. Ai sinh trăm trứng đồng bào? 19. Vua nào mở nghiệp nhà Trần? 20. Ngày nào kỷ niệm Đống Đa? 21. Đời nào có chức Lạc-Hầu? 22. Sớ dâng chém nịnh không thành, từ quan? 23. Ai mời bô lão dự bàn chiến chinh? 24. Ngày nào trẩy hội Đền Hùng? 25. Ngày nào sông Hát, nhị Trưng trẫm mình? 26. Núi nào ngự trị Sơn-Tinh? 27. Móng rùa thần tặng vua nào? 18 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Sau một thời gian áp dụng “ Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn”, tôi nhận thấy học sinh học bài rất sôi nổi, yêu thích, hứng thú với giờ học Lịch sử. GV dạy học cũng cảm thấy thăng hoa hơn. Qua kết quả kiểm tra cuối kì I, nhận xét đánh giá thường xuyên tính đến giữa học kì II, năm học 2018 - 2019 chất lượng môn học của 2 lớp 4A1, 4A như sau: Chất lượng giáo dục môn học Số học sinh Số học sinh Chưa không yêu Hoàn hứng thú, yêu Tốt hoàn thích, chưa thành thích giờ Lịch TSHS thành hứng thú giờ Sử học lịch sử SL TL SL TL SL TL 4A1 29 100% 0 0 0 0 29 100% 0 0 (29HS) 4A2 12 46,2 14 53,8 12 46,2 14 53,8 (26 HS) 18 đươc trích từ 100 câu đố Lịch Sử của Đào Hữu Dương Qua kết quả đối chứng trên phần nào đã khẳng định hiệu được hiệu quả của việc áp dụng các giải pháp trên vào quá trình giảng dạy môn phân Lịch sử lớp 4 tại Trường Tiểu học Lam Sơn. 3. Kết luận, đề nghị. 3.1. Kết luận Qua việc áp dụng “ Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn” tôi nhận thấy chất lượng giảng dạy đạt hiệu quả cao. Học sinh thấy yêu thích và hứng thú với mỗi giờ học Lịch sử. Các em rất tự tin với những hiểu biết của mình về Lịch sử nước nhà từ khoảng 700 năm trước Công Nguyên đến buổi đầu thời Nguyễn năm 1858. Các em nhớ và trao đổi với nhau rất tự tin về các sự kiện, nhân vật, mốc 14 thời gian hay một giai đoạn lịch sử. Các tham gia các Kì giao lưu Trải nghiệm cấp trường, cấp huyện luôn trả lời xuất sắc những câu hỏi về kiến thức lịch sử. Có thể nói rằng, để đạt hiệu quả giáo dục cao đòi hỏi mỗi người giáo viên cần phải thật sự yêu nghề, nhiệt tình nhưng phải sáng tạo trong dạy học. 3.2. Kiến nghị Đề nghị BGH nhà trường tích cực tham mưu với cấp trên đầu tư kinh phí mua sắm thêm trang thiết bị như máy chiếu, lắp cố định ở các phòng học nhằm đáp ứng nhu cầu dạy và học để nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường; tổ chức các sân chơi trí tuệ để giúp các em được trải nghiệm những kiến thức đã được học tạo hứng thú, động lực học tập hơn cho các em. Sau một thời gian tìm hiểu nghiên cứu tôi đã hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm với nội dung: “ Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn” và đã đạt được một số kết quả nghiên cứu nhất định. Tuy nhiên do năng lực còn hạn chế, thời gian có hạn, chắc chắn sáng kiến này còn nhiều vấn đề chưa giải quyết hết các nhiệm vụ nghiên cứu. Tôi hi vọng rằng sẽ tiếp tục nghiên cứu và được sự đóng góp, bổ sung của các đồng nghiệp và các cấp quản lý, để tôi tiếp tục nghiên cứu, đổi mới và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học trong những năm tiếp theo ở trường Tiểu học. Tôi xin chân thành cảm ơn ! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Hiệu trưởng Nguyễn Đức Trọng Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2019 Tôi xin xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết SKKN Nguyễn Thị Yến 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan