LỜI NÓI ĐẦU
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mọi doanh
nghiệp phải hoàn toàn tự chủ trong sản xuất - kinh doanh, tự quyết
định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Mặt khác mỗi một doanh nghiệp là một thành
viên trong nền kinh tế quốc dân và từng bước hội nhập với nền kinh
tế khu vực và thế giới. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp không
những chỉ chú trọng đến thực trạng và xu thế biến động của môi
trường kinh doanh, mà còn phải chú trọng đến hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp - yếu tố quan trọng quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiêp.
Một câu hỏi được đặt ra là: Trong điều kiện nguồn lực có hạn,
làm thế nào dẫn dắt nền kinh tế đi theo đúng định hướng của kế
hoạch với hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Thực tiễn kinh tế thị
trường ở các nước phát triển cũng như thực tế của hơn 10 năm đổi
mới của Việt Nam đã khẳng định rằng: Chúng ta phải sử dụng các
nguồn nguồn lực có hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh để đạt được những mục tiêu kế hoạch đặt ra.
Trong nền kinh tế thị trường, việc giải quyết 3 vấn đề cơ bản của
nền kinh tế phải do chính doanh nghiệp tự giải quyết. Doanh nghiệp
phải tự chủ xây dựng kế hoạch, tự hạch toán kinh tế và đảm bảo đời
sống cán bộ công nhân viên. Do vây vấn đề hiệu quả kin tế phải
được đặt lên hàng đầu. Điều này có ý nghĩa sống còn đối với sự
5
phát triển của doanh nghiệp và có ý nghĩa phát huy vai trò của hệ
thống doanh nghiệp Nhà nước đối với xã hội và các thành phần
kinh tế khác. Để hoạt động có hiệu quả các doanh nghiệp không
còn cách nào khác là phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Sau khi nghiên cứu, phân tích tình hình sản xuất kinh doanh tại
Công ty cầu 12, Em quyết định chòn đề tài: “ Một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty câu 12” cho báo cáo thực
tập tốt nghiệp của mình với mục đích thực hành những kiến thức đã
học và qua đó xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Kết cấu báo cáo thực tập gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về SXKD và hiệu quả SXKD
Phần II: Thực trạng về hoạt động sản xuất kinh doanh và
hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty cầu 12.
Phần III: Những giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh ơ công ty cầu 12.
Trong qúa trình thực tập, tôi xin cảm ơn ban lãnh đạo và tập thể
cán bộ công nhân viên Công ty Cầu 12 nơi tôi thực tập. Em cũng
xin cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn đã giúp đỡ em hoàn thành
báo cáo thực tập này.
6
PHẦN I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ HIỆU
QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
I. VỊ TRÍ VÀ VAI
KINH DOANH
TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH
NGHIỆP
1. Khái niệm về hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hoạt động sản xuất kinh doanh , hiểu theo nghĩa rộng nhất là
một thuật ngữ chung để chỉ tất cả những tổ chức và hoạt động sản
xuất ra hàng hoá hay dịch vụ cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của
con người. Chúng ta có thể nâng cao mức sống của mọi người thông
qua các tổ chức giáo dục (trường học), các tôn giáo (nhà thờ), các
tổ chức xã hội (các đoàn thể xã hội) và các tổ chức kinh tế (các
doanh nghiệp).
Các tổ chức kinh doanh (Doanh nghiệp) khác với các tổ chức
khác ở chỗ chúng sản xuất hàng hoá, hay cung cấp các loại dịch vụ
với mục đích thu được lợi nhuận nhằm mở rộng hơn nữa hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Để đạt được mục đích này các doanh nghiệp
phải sản xuất ra những loại hàng hoá, dịch vụ mà khách hàng cần,
nếu không thoả mãn những mong muồn đó của khách hàng, doanh
nghiệp sẽ bị phá sản.
Hoạt động sản xuất kinh doanh có phạm vi rất lớn. Về cơ bản
nó gồm 3 lĩnh vực: sản xuất, phân phối và tiêu thụ.
7
- Sản xuất bao hàm bất kỳ hoạt động nào nhằm thoả mãn nhu
cầu của con người. Nó được phân chia thành nhiều cấp bậc khác
nhau. Quá trình sản xuất cần đến nhiều yếu tố đầu vào khác nhau
như: Nguyên liệu, lao động, tiền vốn, đội ngũ các nhà kinh doanh…
- Phần phối sản phẩm: Đề cập tới việc đưa hàng hoá và dịch vụ từ
nhà sản xuất đến người tiêu thụ, bao gồm việc vận chuyển nguyên,
vật liệu từ các nhà cung cấp đến tận dây chuyền sản xuất. Phần phối
bao gồm cả việc xếp hàng vào kho, quản lý nguyên liệu, sản phẩm
hoàn thành kiểm soát tồn kho và vận chuyển đến những người sử
dụng cuối cùng
- Tiêu thụ: Thử thách lớn nhất đối với thành công của nhà sản xuất
là nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm, dịch vụ của ông ta, điều
này được thể hiện qua khối lượng hàng, dịch vụ bán ra trên thị
trường. Nhưng trước tiên phải làm cho người tiêu dùng biết rằng các
sản phẩm mà họ cần đã có sẵn trên thị trường. Để đạt được điều này
nhà sản xuất thường cố gắng cổ động nhằm tạo ra sự nhận biết về
sản phẩm hay dịch vụ mà nhà sản xuất cung cấp. Nhà sản xuất cũng
có thể trực tiếp tiến hành các hoạt động cổ động này nhằm vào
khách hàng tiềm ẩn - những người có thể có sức mua nhưng chưa
muốn mua.
2. Một số loại hình sản xuất kinh doanh.
a. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và
phức tạp. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ
thống sinh vật - kỹ thuật bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông
8
nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh vật - cây trồng, vật nuôi.
Chúng phát triển theo quy luật sinh vật nhất định, con người không
thể ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển, phát dục và diệt
vong của chúng, mà phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật
để có những giải pháp tác động nhằm thích nghi với chúng. Mặt
khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có sự quan tâm
thoả đáng, gắn lợi ích của họ với quá trình sử dụng sinh vật đó
nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cuối cùng hơn.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp có vai trò quan
trọng trong việc phát triển kinh tế, nhất là ở các nước đang phát
triển. Ở những nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề
nông. Tuy nhiên, ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển
cao, mặc dù tỷ trọng GDP ở nông nghiệp không lớn, nhưng khối
lượng nông sản ở các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên,
giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Các nhà kinh tế
học thuộc nhiều trường khác nhau đều thống nhất rằng điều kiện
tiên quyết cho sự phát triển là tăng cung lương thực cho nền kinh tế
quốc dân, bằng sản xuất lương thực hoặc nhập khẩu.
Sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp có vai trò quan trọng
trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp và khu vực
thành thị. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, phần
lớn dân cư sống bằng nông nghiệp, khu vực nông thôn thực sự là
nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực công nghiệp và thành
thị. Nhà kinh tế học Lewis đã xây dựng mô hình chuyển dịch lao
9
động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, ông coi đó là quá
trình tiết kiệm, thúc đẩy đầu vào và tăng trưởng kinh tế.
Khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn cho sự phát
triển kinh tế, nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, bởi vì đây
là khu vực lớn nhất, xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân.
Nguồn vốn từ nông nghiệp có thể được tạo ra từ nhiều cách, như tiết
kiệm của nông dân đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp, thuế
nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản … trong đó
thuế có vị trí quan trọng nhất.
b. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong công nghiệp.
Công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất Một bộ phận cấu thành nền vật chất của xã hội. Công nghiệp bao
gồm 3 loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo
ra nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ; sản xuất và chế biến sản phẩm
của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản
phẩm nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội; khôi phục
giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản
xuất và trong sinh hoạt.
Công nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất có vị trí
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, do dó hoạt động sản xuất
kinh doanh trong Công nghiệp cũng có vai trò quan trọng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế đất nước. Hoạt động sản
xuất kinh doanh trong công nghiệp là một yếu tố có tính quyết định
để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, nó luôn giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của
10
nó được hiểu là: Trong quá trình phát triển nền kinh tế, công nghiệp
là ngành có khả năng tạo ra động lực và định hướng sự phát triển
các ngành kinh tế khác lên nền sản xuất lớn.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong công nghiệp co vai trò tạo
ra những sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành
kinh tế mà từ đó, nó có vai trò quyết định trong việc cung cấp các
yếu tố đầu vào để xây dựng cơ sở vật chất cho toàn bộ các ngành
kinh tế quốc dân. Công nghiệp còn là một trong những ngành đóng
góp phần quan trọng vào việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ vốn
để phát triển nền kinh tế, từ đó nó có vai trò quan trọng góp phần
vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh
tế xã hội như: Tạo việc làm cho lực lượng lao động, xoá bỏ sự cách
biệt thành thị nông thôn …
c. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong dịch vụ, khách sạn, du
lịch.
Những hoạt động trong lĩnh vực bưu điện, khách sạn, du lịch là
những hoạt động dịch vụ. Trong những lĩnh vực này thì hoạt động
chủ yếu là hoạt động kinh doanh, hoạt động phi vật chất, nó ngày
càng có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế chung của đất
nước. Trong xu thế phát triển chung của nhân loại, thì các hoạt động
dịch vụ về du lịch, khách sạn... ngày càng phát triển mạnh do đời
sống vật chất của con người ngày càng cao, từ đó đòi hỏi nhu cầu về
hiểu biết, tìm tòi khám phá của con người cũng ngày càng cao.
d. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tiền
tệ.
11
Hoạt động tài chính, tiền tệ trong doanh nghiệp là một trong
những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh; hoạt
động này nhằm thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp: tối đa hoá
lợi nhuận; tối đa hoá giá trị doanh nghiệp hay mục tiêu tăng trưởng,
phát triển. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực tài chính,
tiền tệ là quá trình tìm tòi, nghiên cứu các nguồn lực nhằm biến các
lợi ích dự kiến thành hiện thực cho một khoảng thời gian đủ dài
trong tương lai. Đó là quá trình dự toán vốn đầu tư và quyết định
đầu từ ngắn hạn, dài hạn. Phân tích, đánh giá rủi ro, lạm phát ảnh
hưởng tới quy mô, thời hạn của dòng tiền trong tương lai và vấn đề
cốt lõi của dự toán vốn đầu tư.
3. Vị trí và vai trò của hoạt động sản xuất kinh doanh trong
hoạt động của doanh nghiệp.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp là hoạt động
quan trọng, cơ bản, xuyên suôt của doanh nghiệp. Đối với các
doanh nghiệp hoạt động vì mục đích lợi nhuân thi hoạt động này nó
đem lại lợi nhuận, vị thế … cho doanh nghiệp, và doanh nghiệp lấy
lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu cho sự phát triển. Còn đối với các
doanh nghiệp hoạt động vì mục đích công ích thì mục đích của sự
hoạt động sản xuất kinh doanh là để phục vụ cho hoạt động công
ích. Để đạt được mục đích của mình thì doanh nghiệp phải thực hiện
tốt quá trình sản xuất kinh doanh, từ đó mới có thể làm tốt được các
hoạt động khác được như: hoạt động công tác đoàn, hoạt động từ
thiện …
12
Hoạt động sản xuất kinh doanh có vai trò rất to lớn vào việc làm
thoả mãn các nhu cầu của con người. Các doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá, hay cung cấp các dịch vụ với mục đích thu được lợi
nhuận. Họ phải cạnh tranh nhau trên thị trường để thu hút khách
hàng về phía doanh nghiệp mình. Sự cạnh tranh này đảm bảo cho
hàng hoá được bán với giá phải chăng, có chất lượng thích hợp.
Mẫu mã, chủng loại hàng hoá cũng sẽ phong phú, đa dạng. Điều này
ngày càng làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng dẫn tới thị hiếu
của khách hàng ngày càng tăng.
Dưới áp lực cạnh tranh và sức mua của người tiêu dùng, các nhà
sản xuất sẽ cố gắng sử dụng có hiệu quả hơn nguyên liệu, thiết bị và
lao động để tạo ra nhiều hàng hoá hơn, có chất lượng tốt hơn. Do đó
khi theo đuổi những quyền lợi riêng tất yếu doanh nghiệp sẽ tạo ra
lợi ích cho xã hội, bởi các doanh nhân sẽ phải thoả mãn những nhu
cầu của xã hội khi cố gắng thoả mãn những ham muốn của họ.
Trong lúc theo đuổi lợi nhuận để làm giầu, nhà kinh doanh cũng
phải phục vụ người tiêu dùng và phục vụ lợi ích xã hội.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN
XUẤT KINH DOANH.
1. Khái niệm về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
Trong nền kinh tế thị trường dù là thuộc hình thức sở hữu nào
(doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, … ) đều có các mục tiêu hoạt
động khác nhau. Ngay trong mỗi giai đoạn, các doanh nghiệp cũng
theo đuổi các mục tiêu khác nhau, nhưng nhìn chung mọi doanh
13
nghiệp trong cơ chế thị trường đều nhằm mục tiêu lâu dài, mục tiêu
bao chùng là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, các
doanh nghiệp phải xây dựng được cho mình một chiến lược kinh
doanh đúng đắn, xây dựng các kế hoạch thực hiện và đặt ra các mục
tiêu một cách chi tiết phù hợp với thực tế, với tiềm năng của doanh
nghiệp và lấy đó làm cơ sở để huy động sử dụng các nguồn lực tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đạt được các mục
tiêu đã đề ra.
Trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh,
nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra các doanh nghiệp phải đánh giá
việc thực hiện các mục tiêu đó. Muốn vậy các doanh nghiệp phải
tính toán hiệu quả kinh tế của các hoạt động. Vậy hiệu quả kinh tế
của các hoạt động sản xuất kinh doanh hay hiệu quả kinh doanh là
gì? Từ trước đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề
này:
Theo P.Samuelson và W.Nordhaus, “hiệu quả sản xuất diễn ra
khi không thể tăng sản lượng của một loạt hàng hoá này mà không
cắt giảm một loạt hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm
trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó”. Quan điểm này đã
đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản
xuất xã hội, việc phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sản
xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả cao hơn.
Có tác giả lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan
hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Quan
14
điểm này chỉ đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không
phải là hiệu quả của toàn bộ phần tham gia vào quá trình kinh tế.
Có quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ
số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình
cho quan điểm này là Manfred Kuhn “Tính hiệu quả được xác định
bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh
doanh”. Ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ
bản chất của hiệu quả kinh tế, nó được gắn kết quả với toàn bộ chi
phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi
phí.
Hai tác giả Wohe và Doring lại đưa ra 2 khái niệm về hiệu quả
kinh tế. Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả
kinh tế tính bằng đơn vị giá trị. Theo 2 ông thì 2 khái niệm này hoàn
toàn khác nhau: “Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị
hiện vật (chiếc, tấn …) và lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao động,
nguyên vật liệu … ) được coi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật
hay hiện vật”; “ Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh phải chi
ra trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải
chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về mặt gía trị” và “ để xác định
tính hiệu quả về mặt giá trị người ta còn hình thành tỷ lệ giữa sản
lượng tính băng tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền”. Khái
niệm hiệu quả kinh tế bằng đơn vị hiện vật của 2 ông chính là năng
xuất lao động, máy móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn
hiệu quả tính bằng đơn vị giá trị là hiệu quả của hoạt động quản trị
chi phí.
15
Từ các quan điểm khác nhau trên, ta có thể đưa ra khái niệm về
hiệu quả sản xuất kinh doanh như sau: Hiệu quả sản xuất kinh
doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn
lực (nhân lực, vật lực, tiền vốn) để đạt được các mục tiêu đề ra.
Nếu ký hiệu : H - Hiệu quả kinh doanh
K - Kết quả đạt được
C - Hao phí nguồn lực cần thiết gắn với
kết quả đó
Thì ta có công thức sau để mô tả hiệu quả kinh doanh:
K
H =
C
2. Sự cân thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp.
a. Tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp.
Theo nghĩa tổng quát, hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh
trình độ và năng lực quản lý, bảo đảm thực hiện có kết quả cao
những nhiệm vụ kinh tế - xã hội đặt ra với chi phí nhỏ nhất.
Cần hiểu phạm trù hiệu quả kinh tế một cách toàn diện trên cả 2
mặt định tính và định lượng. Về mặt định lượng: Hiệu quả kinh tế
của việc thực hiện mỗi nhiệm vụ kinh tế biểu hiện ở mối quan hệ
tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nếu xét về tổng
16
lượng, người ta chỉ thu được hiệu quả kinh tế cao khi nào kết quả
lớn hơn chi phí. Kết quả thu được mà nhỏ hơn chi phí bỏ ra thi hoạt
động sản xuất kinh doanh là không có lãi hay nói cách khác doanh
nghiệp hoạt động kém hiệu quả, khi hoạt động kém hiệu quả có thể
dẫn tới doanh nghiệp làm ăn bị thua lỗ, bị phá sản … Do vậy việc
nâng cao hiệu quả kinh tế là rất quan trọng trong quá trình phát triển
công ty. Về mặt định tính, mức độ hiệu quả kinh tế cao thu được
phản ánh sự cố gắng, nỗ lực, trình độ quản lý của mỗi khâu, mỗi cấp
trong hệ thống công ty và sự gắn bó của việc giải quyết những yêu
cầu và mục tiêu kinh tế - xã hội mà công ty đã đặt ra.
Chúng ta cần phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ giữa hiệu
quả kinh tế và kết quả kinh tế. Về hình thức, hiệu quả kinh tế luôn là
một phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan giữa cái bỏ ra với cái
thu về được. Kết quả chỉ là yếu tố cần thiết để tính toán và phân tích
hiệu quả. Tự bản thân mình kết quả chưa thể hiện được nó tạo ra ở
mức và với chi phí nào. Để có thể phân tích hiệu quả sản xuất kinh
doanh được chính xác thì đòi hỏi số liệu kết quả sản xuất kinh
doanh phải chính xác. Khi phân tích chính xác hiệu quả sản xuất
kinh doanh thì ta mới có thể có cơ sở đễ xác định được hoạt động
kinh doanh của công ty đang trong quá trình phát triển hay là tụt
hậu, từ đó mới đưa ra được các biện pháp khắc phục hợp lý.
b. Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì các
doanh nghiệp đều phải tự chủ trong mọi hoạt động. Thị trường ngày
17
càng mở rộng thì nguy cơ phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh
ngày càng gay gắt của các doanh nghiệp trong và ngoài ngành đối
với mỗi doanh nghiệp ngày càng cao hơn, để tồn tại và phát triển
không còn cách nào khác buộc doanh nghiệp phải sản xuất hoặc
cung ứng các dịch vụ tốt hơn các đối thủ của mình. Tuy nhiên các
yếu tố nguồn lực đầu vào phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp là có hạn. Do đó vấn đề phân bổ và sử
dụng có hiệu quả các yếu tố nguồn lực đầu vào có ý nghĩa quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu
quả sử dụng các yếu tố nguồn lực đầu vào tức là đã nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh là vũ khí cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp với mục tiêu tổng quát, cuối cùng khi tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. Muốn thu
được lợi nhuận thì doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả các yếu tố
nguồn lực. Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh chính
là việc nâng cao lợi nhuận thu được của doanh nghiệp
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là yêu cầu bắt buộc đối
với các chủ thể kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước trước
ngưỡng cửa hội nhập AFTTA trong thời gian tới.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp
a. Các nhân tố vi mô.
* Yếu tố lực lượng lao động.
18
Lực lượng lao động của doanh nghiệp bao gồm cả lao động quản
trị, lao động nghiên cứu và phát triển, đội ngũ lao động kỹ thuật trực
tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tác động rất mạnh và mang
tính chất quyết định đến mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Do vai trò ảnh hưởng có tính chất quyết định của nguồn nhân
lực, doanh nghiệp cần luôn luôn chú trọng trước hết đến đảm bảo số
lượng, chất lượng và cơ cấu của 3 loại lao động: Các nhà quản trị
cao cấp, các nhà quản trị cấp trung gian và cấp thấp và đội ngũ các
thợ cả, nghệ nhân và công nhân có tay nghề cao. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp phải đảm bảo được các vật chất - kỹ thuật cần thiết và
tổ chức lao động sao cho tạo động lực phát huy hết tiềm năng của
đội ngũ lao động này.
* Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị là tổng hợp các bộ phận khác
nhau có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên
môn hoá, được giao những trách nhiệm và quyền hạn nhất định và
được bố trí theo từng cấp nhằm thực hiện các chức năng quản lý
doanh nghiệp.
Quản trị doanh nghiệp tác động mạnh mẽ đến hoạt động lao động
sáng tạo của đội ngũ lao động, đến sự đảm bảo cân bằng giữa doanh
nghiệp với môi trường bên ngoài cũng như cấn đối có hiệu quả các
bộ phận bên trong doanh nghiệp. Quản trị lao động có chất lượng
nếu trước hết có cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị tốt. Vì vậy, doanh
nghiệp cần chú trọng 2 vấn đề chính là luôn đánh giá đúng thực
trạng cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp trên cả 2 mặt là hệ thống
19
tổ chức và cơ chế hoạt động của nó và khả năng thích ứng của cơ
cấu tổ chức trước các biến động của môi trường kinh doanh. Ngoài
ra, doanh nghiệp phải chú ý đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu tổ
chức thông qua các chỉ tiêu: Tốc độ ra quyết định, tính kịp thời và
độ chính xác của các quyết định,…
* Đặc tính về sản phẩm và công tác tiêu thụ sản phẩm.
- Đặc tính của sản phẩm
Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì chất lượng
sản phẩm là một công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp
trên thị trường, vì chất lượng sản phẩm thoả mãn nhu cầu của khách
hàng về sản phẩm, chất lượng sản phẩm ngày càng cao sẽ đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm
luôn là yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp, khi chất lượng sản
phẩm không đáp ứng được những yêu cầu của khách hàng, lập tức
khách hàng sẽ chuyển sang dùng các sản phẩm khác cùng loại. Chất
lượng của sản phẩm góp phần tạo nên uy tín danh tiếng của doanh
nghiệp trên thị trường.
Những đặc tính mang hình thức bên ngoài của sản phẩm như:
mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu, … trước đây không được coi trọng
nhưng ngày nay nó đã trở thành những yếu tố cạnh tranh quan trọng
không thể thiếu được. Thực tế đã cho thấy, khách hàng thường lựa
chọn sản phẩm theo trực giác, vì vậy những loại hàng có mẫu mã,
bao bì, nhãn hiệu đẹp luôn giành được ưu thế hơn so với các hàng
hoá khác cùng loại.
20
Các đặc tính của sản phẩm là nhân tố quan trọng quyết định khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần lớn vào việc tạo uy tín,
đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm làm cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp nên nó có ảnh hưởng rất lớn đối với hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Công tác tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, nó quyết định tới các khâu khác của
quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm
có được tiêu thụ hay không mới là điều quan trọng nhất. Tốc độ tiêu
thụ sản phẩm quyết định tốc độ sản xuất và nhịp độ cung ứng
nguyên vật liệu. Cho nên nếu doanh nghiệp tổ chức được mạng lưới
tiêu thụ hợp lý, đáp ứng đúng yêu cầu khách hàng (đúng thời gian
và địa điểm) sẽ có tác dụng to lớn đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ của
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhanh chóng mở rộng, chiếm lĩnh
thị trường, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tăng doanh thu,
quay vòng vốn, … góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
* Nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng
và không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh. Số lượng, chủng loại, cơ cấu, chất lượng, giá cả của nguyên
vật liệu và tính đồng bộ của việc cung ứng nguyên vật liệu ảnh
hưởng tới hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu, ảnh hưởng tới năng
suất và chất lượng sản phẩm do đó, ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất
21
kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí sử dụng nguyên vật liệu của
các loại doanh nghiệp kinh doanh thường chiếm tỷ trọng lớn trong
chi phí kinh doanh và giá thành đơn vị sản phẩm cho nên việc sử
dụng tiết kiệm nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc sử dụng
tiết kiệm nguyên vật liệu đồng nghĩa với việc tạo ra kết quả lớn hơn
với cùng một lượng nguyên vât liệu.
* Khả năng về tài chính của doanh nghiệp.
Tình hình tài chính tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả
kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Mọi
hoạt động đầu tư, mua sắm, dự trữ, lưu kho, … cũng như khả năng
thanh toán của doanh nghiệp ở mọi thời điểm đều phụ thuộc vào
khả năng tài chính của nó.
Khi đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp cần tập trung vào
các vấn đề chủ yếu như: cầu về vốn và khả năng huy động vốn, việc
phân bổ vốn (cơ cấu vốn), hiệu quả sử dung vốn sản xuất - kinh
doanh chung ở doanh nghiệp và từng bộ phận của nó, các chỉ tiêu
tài chính tổng hợp đánh giá vị thế của doanh nghiệp …
b. Môi trường vĩ mô.
* Môi trường pháp luật
Việc tạo ra môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh hay
không lành mạnh hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố luật pháp và quản
lý nhà nước về kinh tế. Việc ban hành hệ thống luật pháp có chất
lượng và đưa vào đời sống và điều kiện đầu tiên đảm bảo môi
22
trường kinh doanh bình đẳng, tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp
có cơ hội cạnh tranh lành mạnh; thiết lập mối quan hệ đúng đắn,
bình đẳng giữa người sản xuất và người tiêu dùng; buộc mọi doanh
nghiệp phải làm ăn chân chính, có trách nhiệm đối với xã hội và
người tiêu dùng … Điều này tác động tích cực đến mọi doanh
nghiệp làm ăn chân chính và cũng buộc mọi doanh nghiệp phải kinh
doanh chân chính. Nếu ngược lại, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường kinh doanh và đến hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp. Không những thế, nó còn ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường sống, đời sống của người tiêu dùng. Đến lượt mình, các vấn
đề này lại tác động tiêu cực trở lại đối với sản xuất.
Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh đã làm cho các cơ
quan quản lý nhà nước về kinh tế làm tốt công tác dự báo để điều
tiết đúng đắn các hoạt động đầu tư, không để ngành hay vùng kinh
tế nào phát triển theo xu hướng cung vượt cầu; việc thực hiện tốt
hạn chế sự phát triển độc quyền, kiểm soát độc quyền, tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng; Việc quản lý tốt các doanh nghiệp nhà
nước, không tạo ra sự khác biệt đối sử giữa các doanh nghiệp nhà
nước và các loại hình doanh nghiệp khác; việc sử lý tốt các mối
quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ tỷ giá hối đoái, đưa ra các chính
sách thuế phù hợp với trình độ kinh tế và đảm bảo tính công bằng;
… đều là những vấn đề hết sức quan trọng, tác động rất mạnh mẽ
đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
* Môi trường kinh tế
23
Môi trường kinh tế có vai trò quan trọng hàng đầu và ảnh
hưởng có tính quyết định đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng mạnh nhất
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường là
trạng thái phát triển của nền kinh tế: tăng trưởng, ổn định hay suy
thoái.
Nền kinh tế quốc dân tăng trưởng với tốc độ cao sẽ tác động
đến nền kinh tế quốc dân theo 2 hướng: một là, tăng thu nhập của
tầng lớp dân cư dẫn đến tăng khả năng thanh toán cho các nhu cầu
của họ. Điều này dẫn tới đa dạng hoá các loại cầu và xu hướng phổ
biến là tăng cầu. Thứ hai, khả năng tăng sản lượng và mặt hàng của
nhiều doanh nghiệp đã làm tăng hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp này. Điều này tạo khả năng tích luỹ vốn nhiều hơn, tăng cầu
về đầu tư mở rộng kinh doanh làm cho môi trường kinh doanh hấp
dẫn hơn. Nền kinh tế quốc dân ổn định, các hoạt động kinh doanh
cũng giữ ở mức ổn định. Khi nền kinh tế quốc dân rơi vào tình trạng
suy thoái nó sẽ tác động đến nền kinh tế quốc dân và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp theo hướng ngược lại với trường hợp nền
kinh tế quốc dân tăng trưởng.
* Môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng
Điều kiện tự nhiên bao gồm các loại tài nguyên, khoáng sản,
vị trí địa lý, … có ảnh hưởng to lớn tới hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp chủ động được về các loại tài
nguyên, khoáng sản là đầu vào của doanh nghiệp mình thì rõ ràng
doanh nghiệp có thể tính toán, đảm bảo cung cấp một cách đầy đủ
24
- Xem thêm -