Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và hoạt độn...

Tài liệu Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp

.PDF
22
10
68

Mô tả:

1. MỞ ĐẦU 1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống. Đó là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống”. Việc dạy trẻ kĩ năng sống là điều rất cần thiết, đặc biệt là đối với trẻ Tiểu học. Khi bắt đầu đi học cũng là lúc trẻ bắt đầu tiếp xúc với xã hội và rất cần hoàn thiện, phát triển kĩ năng sống cho riêng mình. Chính những kĩ năng sống mà em tiếp nhận được trong những năm đầu tiên đi học sẽ theo các em suốt cả cuộc sống sau này. Nếu ngay từ bậc Tiểu học, các em đã có những kĩ năng tốt, cuộc sống sau này sẽ rộng mở với các em hơn. Hiên nay, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được nhiều quốc gia trên thế giới đưa vào dạy cho học sinh trong các nhà trường phổ thông dưới nhiều hình thức khác nhau và được coi như một nội dung để nâng cao chất lượng giáo dục. Cuộc sống hiện đại đang đặt ra cho các nhà quản lí giáo dục, các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh học sinh nhiều khó khăn bởi một thực tế học sinh hiện nay còn yếu và thiếu kĩ năng sống. Từ những thực tế trên, mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức sang trang bị những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học. Tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động vào tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Nội dung giáo dục kĩ năng sống được tích hợp trong một số môn học và hoạt động giáo dục trong trường phổ thông. Đặc biệt rèn kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các nhà trường do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo. Vậy “Làm thế nào để trang bị cho các em có kĩ năng sống tốt hơn? Để các em chủ động, tự tin và vững vàng hơn trong học tập và cuộc sống?... Đó là điều mà tôi hết sức băn khoăn và trăn trở. Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, tôi đã chọn đề tài: “Rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp”. Vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng bản thân tôi mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ và thiết nghĩ đây cũng là một vấn đề mà phụ huynh và xã hội hết sức quan tâm. 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tìm một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. 1 Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật… Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời. 1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Việc giảng dạy các môn học và tổ chức hoạt động GDNGLL của các giáo viên chủ nhiệm khối lớp 3. - Kỹ năng sống của các em học sinh lớp 3C trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi - TP Thanh Hóa 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.4.1. Nghiên cứu lí luận Tìm đọc tài liệu có liên quan đến việc rèn kĩ năng sống cho học sinh. 1.4.2. Nghiên cứu thực tế a. Phương pháp điều tra: Khảo sát thực tế học sinh qua hai đợt (đầu năm và giữa học kì 2) b. Phương pháp quan sát: + Quan sát hoạt động học tập (Xem các em có tích cực tham gia vào các hoạt động hay không? Có kĩ năng làm bài hay không?...) + Quan sát hoạt động vui chơi (Thích trò chơi nào, thái độ trung thực hay chưa trung thực khi tham gia trò chơi…). + Quan sát hoạt động giao tiếp với mọi người xung quanh (Thái độ khi nói chuyện với bạn bè, cách xưng hô với thầy cô giáo, với người lớn tuổi, hành vi tốt xấu với mọi người…). c. Phương pháp thực hành: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động để học sinh tự cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kĩ năng; thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường, làm tốt công tác xã hội hóa trong việc giáo dục kĩ năng sống. d. Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục: + Phân tích các nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kĩ năng sống. + Tổng hợp các biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm khối lớp 3; của nhà trường và gia đình. 2. NỘI DUNG 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Ngày nay kĩ năng sống (KNS) hay còn gọi là những kĩ năng mềm đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. KNS chiếm 70% các kĩ năng dẫn đến thành công của mỗi người. Vậy KNS là gì? Theo tổ chức Y tế thế giới WHO định nghĩa KNS là “khả năng thích nghi” và “hành vi tích cực” cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF): KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng vầ tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng. 2 Theo Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày. KNS bao gồm một loạt các kĩ nang cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người. Bản chất của KNS là kĩ năng tự quản bản thân và kĩ nang xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc có hiệu quả. Tóm lại, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với người khác và với xã hội; khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Thật vậy, các KNS thường không tách rời mà có mối liên quan chặt chẽ với nhau. KNS không phải tự nhiên có được mà phải được hình thành trong quá trình học tập, lính hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành KNS diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục. Trong thực tế, công việc giáo dục KNS đôi khi là điều trăn trở đối với nhiều người song cũng với không ít người thì khái niệm này đang hoàn toàn xa lạ. Tại sao như vậy? Cùng với câu hỏi đó thì thực tế vẫn đang có rất nhiều người công tác trong nghành giáo dục đã bỏ thời gian và công sức nghiên cứu về giáo dục KNS như: Con đường hình thành KNS; cách thức hình thành KNS và vai trò của KNS trong cuộc sống con người. Kĩ năng sống được hình thành như thế nào? Kĩ năng sống có thể hình thành từ những trải nghiệm của cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học KNS một con người mới có những KNS đầu tiên. Chính cuộc đời, những trải nghiệm , va vấp, thành công và thất bại giúp con người có được những bài học qu giá về KNS. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn. Tại sao cần có kĩ năng sống? KNS cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn cần được bổ sung, nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng cần học KNS. Sự cần thiết phải giáo dục kĩ năng sống cho học sinh? Nhà trường là nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ. Do vậy KNS là sản phẩm bắt buộc có của giáo dục nhà trường. Nó không phải là môn học. Nó bao trùm toàn bộ các môn học và hoạt động giáo dục. 2.2. CƠ SỎ THỰC TIỄN. Thực hiện nghị quyết 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 của Bộ giáo dục và đào tạo về việc phát động phong trào thi đua: "Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực" trong đó nội dung: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Căn cứ nhiệm vụ năm học 2017 - 2018 của ngành, của trường về việc chú trọng: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Giáo dục KNS cho học sinh nhằm trang bị cho các em những kiến thức và kĩ năng về cuộc sống để các em có thể thích ứng với cuộc sống, để có thể tự mình xử lí mọi tình huống trong thực tế một cách tốt nhất. Bên cạnh việc học các môn văn hoá nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn kĩ năng sống biết phân biệt cái tốt, cái 3 xấu, biết từ chối cám dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là người tác động tốt đến gia đình, xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước trên thế giới từng bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội được phát triển mạnh song những vấn đề mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm, mải lo đến việc làm kinh tế mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình đầm ấm, người lớn gương mẫu, quan tâm dạy dỗ trẻ; Một số phụ huynh quá lo lắng cho hành vi mà con trẻ thể hiện không được như bố mẹ mong muốn, thấy con mình có lớn mà không có khôn, chưa linh hoạt trong việc xử lí các tình huống trong cuộc sống hàng ngày, còn vụng về khi làm một số công việc đơn giản trong gia đình. Những năm gần đây, nhiều trẻ em rất thiếu kĩ năng làm việc nhà, kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Nhiều em không tự dọn dẹp phòng ở của chính mình, không giúp đỡ bố mẹ bất kì việc gì ngoài việc học, còn rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh Tiểu học là ngoài những kiến thức phổ thông về Toán, Khoa học và Nhân văn, học sinh cần học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên đứng lớp những suy nghĩ, trăn trở. 2.3. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ: Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 3, trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, tôi thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân. Các em còn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi còn hạn chế. Qua tiến hành khảo sát ở lớp 3C đầu năm học 2017 - 2018 với chủ đề “ Kĩ năng của em” kết quả như sau: Kĩ năng Tiêu chí Kĩ năng tốt Có kĩ năng Kĩ năng chưa tốt Tích cực, biết hợp tác Chưa tích cực hợp tác Ứng xử thân thiện Chưa biết cách ứng xử Số HS 42 42 42 42 42 42 42 SL % 10 24.0% 17 40.0% 15 36.0% Thảo luận nhóm SL % 15 27 Ứng xử khi tham gia HĐTT SL % 36.0% 64.0% 24 18 57.0% 43.0% 4 Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Từ những thực trạng trên thôi thúc tôi tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Học sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để từ đó tìm ra biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả. 2.3.1. Tình hình nhà trường. Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi là ngôi trường đã được đầu tư khang trang, đã đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1 nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn cho trẻ. Đội ngũ cán bộ giáo viên trong trường đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Tỷ lệ giáo viên trên chuẩn chiếm hơn 80%. Nhà trường luôn được đánh giá là một tập thể đoàn kết, vững mạnh. Trong những năm gần đây nhà trường luôn đạt danh hiệu đơn vị dẫn đầu khối Tiểu học, được phụ huynh và cấp trên tin tưởng về chất lượng dạy và học. Ban giám hiệu nhà trường trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục; luôn quan tâm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học, qua việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoại khóa nhằm khuyến khích học sinh được thể hiện bản thân như: tổ chức các câu lạc bộ (tin học, tiếng Anh, cờ vua, cầu lông, âm nhạc, ...), tổ chức cho học sinh giao lưu, giúp đỡ các bạn vùng cao, .... 2.3.2. Đối với giáo viên. Đội ngũ giáo viên của nhà trường luôn tâm huyết với nghề, đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Đa số giáo viên có nhiều kinh nghiệm đã tích cực tìm hiểu, vận dụng những hiểu biết của bản thân vào việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tuy nhiên việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. 2.3.3. Đối với phụ huynh. Các bậc phụ huynh luôn phối hợp với giáo viên trong việc giáo dục học sinh, tạo mọi điều kiệngiúp đỡ giáo viên trong việc giáo dục con em. Tuy nhiên vẫn có một bộ phận phụ huynh còn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chưa đẹp, hoặc chưa biết làm Toán thì lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có một số bố mẹ quá nuông chiều con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ bản thân. Ngược lại, một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết… 2.3.4. Đối với học sinh. Các em học sinh đều sống ở Thành phố nên việc tiếp thu những kiến thức mới cũng như hình thành các kĩ năng sống cũng tương đối thuận lợi. Tuy nhiên một số em vừa từ lớp một, hai lên làm quen với môi trường lớp 3 nên khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói chưa rõ ràng, diễn đạt chưa rõ ý, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi 5 với cô giáo, bạn bè. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ ... Chính vì thế tôi luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển. Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn nêu trên, tôi đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm thông qua các tiết dạy của một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục. 2.4. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: Kĩ năng sống được hình thành qua quá trình giáo dục ở gia đình, nhà trường và xã hội. Kĩ năng sống được giáo dục trong các môn học chính khóa và ngoại khóa. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từ từng hành vi cá nhân đơn giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Cụ thể cần phải áp dụng một số biện pháp sau: 2.4.1. Rèn kĩ năng sống cho HS thông qua việc tạo sự gần gũi và thân thiện với các em. Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Tiếp theo trong tuần đầu, tôi cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục qua những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả cao tiếp tục qua biện pháp tiếp theo. 2.4.2. Rèn kĩ năng sống cho HS thông qua việc tích hợp vào các môn học. Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá nhiều trong trong các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em. Ví dụ: Trong môn Tự nhiên và Xã hội. Ở bài: "Các thế hệ trong một gia đình”, tôi cho học sinh mang theo tranh ảnh giới thiệu với các bạn trong nhóm về các thế hệ trong gia đình mình. Sau khi học sinh làm việc trong nhóm sẽ lên giới thiệu trước lớp. Qua đó, các em sẽ mạnh dạn hơn trong giao tiếp. 6 Giới thiệu với các bạn về các thế hệ trong gia đình mình (TN&XH) Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó. Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói năng... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm phải luôn đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa các em với nhau. Ở môn Tự nhiên và Xã hội Chương “Con người và sức khỏe”các bài: “Phòng bệnh đường hô hấp; Bệnh lao phổi; Vệ sinh cơ quan tuần hoàn (bài tiết nước tiểu, thần kinh);...” giáo dục các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu 7 hóa, hô hấp, tim mạch, thần kinh, … Biết những việc nên làm và không nên làm để phòng bệnh, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. Trong chương trình lớp 3, môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư, Điền vào giấy tờ in sẵn, Kể chuyện qua tranh,... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu đơn, thư, tóm tắt tin tức,…hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp,…Thông qua các hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,…học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần thiết. Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn các bài: “Kể về người hàng xóm”, “Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật”, “Kể về quê hương”, … tôi thường tổ chức cho các em, đóng vai, chơi trò chơi; hoặc trong các tiết sinh hoạt tập thể tôi luôn khuyến khích các em nhận xét, góp ý cho các bạn về những ưu, nhược điểm để các bạn tiến bộ hơn, ... . Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, cô giáo hướng dẫn các em đóng vai, giới thiệu, bày tỏ ý kiến,… Lúc đầu các em rất ái ngại chưa tự tin khi đóng vai, bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng tôi đã kịp thời nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc gọn, mạnh dạn hơn. Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể chuyện theo tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lí tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh,…Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, theo dự án, đóng vai, trò chơi,…Và chính thông qua việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đó là lối sống lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối sống, hành vi như gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn… 8 Tích cực tham gia phát biểu xây dựng bài Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những bài học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Tôi luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học nhóm. Ví dụ: Khi dạy bài: “Tự làm lấy việc của mình” môn Đạo đức, tôi cho học sinh kể trước lớp những việc mà mình đã tự làm được. Em nào kể được nhiều việc làm nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy tôi còn tổ chức cho các em trao đổi : “Vì sao cần tự làm lấy việc của mình?” “Em cảm thấy như thế nào khi được tự làm lấy những việc của mình?"; "Em đã làm được những việc gì?”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình. Ngoài ra, tôi còn chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học: Ai cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập tốt, đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức khỏe tốt và bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị. 9 Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học. Bản thân rèn luyện sức khoẻ cho các em qua các tiết sau: Để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác, bản thân đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn giao thông, Giáo dục kĩ năng sống, thi Giao thông thông minh trên Internet, hướng dẫn các em phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình huống cho các em xử lí. Khi dạy bài “An toàn khi đi qua đường” cần hỏi học sinh: “Trẻ em dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường và khi qua đường? Đi bộ qua đường em phải đi ở đâu?”; “Khi đi bộ em đi ở đâu? Nếu đường không có vỉa hè thì thế nào?”; “Em có nên chơi đùa trên đưòng phố không? Có leo trèo qua dải phân cách và chơi gần dải phân cách không? Vì sao?”; “Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?”; “Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn xảy ra?”;... Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao ra đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra ngoài khi đi trên tàu, xe,... Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn đề đơn giản khi gặp phải. Một điều nữa theo tôi cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn hoá cũng là lối sống lành mạnh mà các em cần phải được đào tạo, vì thế tôi tiếp tục áp dụng. 2.4.3. Rèn kĩ năng sống cho HS thông qua các tiết sinh hoạt lớp, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, tôi đã phát động phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết đi phải xin phép khi về phải báo, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và những người lớn tuổi,... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Tôi học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh. Tránh trách phạt, nói nặng lời để các em bớt đi tính hung hăng đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi. Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả bản thân tôi còn vận dụng thông qua các hoạt động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp. Ví dụ: Từ đầu năm học, nhà trường tổ chức phong trào trang trí lớp học thân thiện trong toàn trường. Tôi đã hướng dẫn các em cùng tham gia làm những sản phẩm như cắt hoa, vẽ tranh, trang trí lớp, …... Qua hoạt động này rèn cho các em nhiều kĩ năng như: trình bày, trang trí,…các em rất nhiệt tình, đoàn kết và hợp tác nhau rất tốt. Kết quả là điểm trang trí của lớp tôi đã đạt được giải nhất. 10 HS cùng nhau trang trí lớp học thân thiện Trong các tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm của các tháng, tôi hướng dẫn học sinh nắm được ý nghĩa của từng chủ đề. Giúp học sinh hiểu và có thái độ, hành vi đối với nội dung chủ đề đã được học. Ví dụ: Khi học về chủ đề tháng 11, tôi giúp các em nhớ được ngày lễ lớn, có ý nghĩa, thể hiện lòng biết ơn đối với các thầy cô giáo đã dạy dỗ các em đó là ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Trong tiết học giáo viên tổ chức cho học sinh thể hiện tình cảm của mình đối với các thầy cô giáo bằng các hình thức như: đọc thơ, hát, nói những lời chúc với các thầy cô giáo, …. 11 Hoặc trong tháng 12, giáo viên tổ chức cho các em thăm doanh trại bộ đội, thăm và tặng quà các gia đình thương binh – liệt sĩ, ….. Qua đó giáo dục các em ý thức rèn luyện và học tập theo gương các chú bộ đội; nắm được ý nghĩa của ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam 22/12; giáo dục các em lòng tự hào về truyền thống anh dũng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thăm và chúc mừng doanh trại 661 nhân ngày 22/12 Để cho các em biết quan tâm, chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, tôi tổ chức cho các em tích cực tham gia các hoạt động từ thiện của nhà trường như: Xây dựng quỹ tình thương, giao lưu với các bạn tật nguyền – chất độc da cam, chia khó với các bạn học sinh vùng cao, … Thông qua các hoạt động đó giáo dục các em biết cảm thông, chia sẻ, quan tâm đến mọi người xung quanh bằng những việc làm dù là nhỏ nhất. Ngoài việc tổ chức cho các em tham gia các hoạt động do nhà trường tổ chức, giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của các em. Vì đối với học sinh bậc học tiểu học trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kĩ năng sống cho các em. Các em lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi các em phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng. Tôi khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận, những suy nghĩ, những quan sát của mình với cô với bạn một cách thoải mái, tự nhiên không gò bó, áp đặt. Hoặc ở những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi tôi cùng các em tham gia những trò chơi dân gian, trò chơi giúp các em phát triển trí tuệ (Cờ vua, Cá ngựa),… 12 Chơi các trò chơi bổ ích trong giờ ra chơi Giáo viên cũng cần tranh thủ đọc sách cho các em nghe những lúc sinh hoạt đầu giờ, hoặc trong giờ sinh hoạt lớp. Tăng cường kể cho các em nghe các câu chuyện cổ tích, câu chuyện trong bài tập đọc, bài thơ,…để qua đó rèn luyện đạo đức cho các em, giúp các em hoàn thiện mình, dạy các em yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho các em qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ. Khuyến khích các em tìm đọc những cuốn sách giáo dục kĩ năng sống như “Chắp cánh thiên thần” của tác giả Duy Tuệ, ….. Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, có ý thức giữ gìn và bảo vệ trường lớp luôn sạch đẹp, tôi đã hướng dẫn các em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh trong lớp hàng ngày. Chăm sóc cây xanh 13 Một điều không thể thiếu nhằm tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng đó là chú ý đến công tác động viên, khen thưởng, khích lệ học sinh. 2.4.4. Rèn kĩ năng sống cho HS qua việc động viên, khen thưởng. Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học bản thân tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp mình phụ trách. Trao đổi với Ban chấp hành hội phụ huynh trích quỹ khen thưởng để kịp thời động viên các em nhằm tạo cho các em có động cơ tốt trong việc thực hiện tốt các kĩ năng sống. Hằng ngày tôi theo dõi các em. Những em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt được tuyên dương và cuối mỗi tháng xếp loại và bảng thi đua chung của cả lớp. Vì vậy, các em thi đua nhau “Học tập tốt, lao động tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được tuyên dương trước tập thể lớp. Động viên, khích lệ HS bằng những lá cờ, những phần quà nhỏ Cuối mỗi tháng, tôi tổng kết một lần để khen thưởng những em đã đạt nhiều thành tích trong thi đua bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được tuyên dương và những món quà của cô giáo tặng. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được tuyên dương trước lớp. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống. 2.4.5. Phối hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh trong việc dạy các em các kĩ năng sống cơ bản, cần thiết hằng ngày. Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành 14 kĩ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trường sau này. Cô giáo, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó. Ví dụ: Một số học sinh yêu thích vẽ, ngoài việc cho các em học năng khiếu vẽ thì cô giáo, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em hoặc triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Hay học sinh thích học các môn thể thao thì tạo điều kiện để các em được tham gia các lớp bồi dưỡng vào cuối buổi chiều; Một số em thích tham gia các phong trào văn nghệ thì động viên, khuyến khích các em tham gia đội văn nghệ của nhà trường, tham gia lớp Âm nhạc để các em có đủ tự tin biểu diễn trên sân khấu trong những ngày lễ lớn của trường tổ chức. Khuyến khích các em tích cực tham gia các câu lạc bộ do nhà trường tổ chức để học sinh được thể hiện bản thân như: võ thuật. Erobic, Cầu lông, Cờ vua, tiếng Anh, ….. Cô giáo, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; Cụ thể: Các em được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này. Khi tham gia bán trú, các em được hướng dẫn làm một số công việc mà khả năng có thể làm được như xếp gối, trải chiếu, gấp chăn, biết ăn uống gọn gàng, sạch sẽ, …. Tóm lại Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân tôi luôn cố gắng rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập – sinh hoạt ở nhà trường là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy. Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc theo nhóm: biết cách phân công công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất… Đây là kĩ năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong tập thể. Trong sinh hoạt hằng ngày, giáo viên cần chú ý nâng dần kĩ năng giao tiếp - tự nhận thức cho các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin phép, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu… Biết cả thông cảm chia sẻ buồn vui với mọi người. 15 Giáo dục kĩ năng sống cho mọi người nói chung và học sinh nói riêng là điều rất cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kĩ năng cho các em để các em có được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em có thói quen xấu và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho xã hội sau này. 2.5. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Qua khảo sát lần 2 ở lớp 3C (Giữa học kì 2) với chủ đề “ Kĩ năng của em”; kết quả so với đầu năm thì các em tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau: Kĩ năng Thảo luận Ứng xử khi Tiêu chí Số nhóm tham gia HS HĐTT SL % SL % SL % Kĩ năng tốt 42 30 71.0% Có kĩ năng 42 10 24.0% Kĩ năng chưa tốt 42 2 5.0% Tích cực, biết hợp tác 42 40 95.0% Chưa tích cực hợp tác 42 2 5.0% Ứng xử thân thiện 42 42 100% Chưa biết cách ứng xử 42 Qua việc thực hiện các biện pháp trên, đến giữa học kì II, bản thân tôi nhận thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng, được thể hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã trở thành thói quen được các em vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát biểu trong tiết học và luôn được nhận cờ luân lưu trong tuần. Phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi với kết quả này của lớp. Như vậy, với kết quả đạt được chứng tỏ phần nào sáng kiến của bản thân tôi đưa ra và áp dụng có hiệu quả trong lớp cũng như trong khối. Thiết nghĩ, mỗi giáo viên trong trường đều áp dụng sáng kiến này trong công tác chủ nhiệm của mình thì học sinh sẽ có kĩ năng sống tốt hơn: thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề về sức khỏe, môi trường, tệ nạn xã hội,…các em có thể tự tin, chủ động không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên đáp ứng được phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.” 3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 3.1. Bài học kinh nghiệm Với những kết quả đạt được, bản thân tôi chỉ muốn nêu lên những kinh nghiệm chung nhất về việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Việc giáo dục kĩ năng sống ngay từ lớp nhỏ sẽ rút ngắn thời gian để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào đời. Chính vì vậy, 16 các thầy cô giáo tiểu học luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Vì thế theo tôi để làm tốt việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, mỗi thầy cô giáo cần phải lưu ý đến các vấn đề sau: 3.1.1.Thầy cô, bố mẹ và mọi người cần giúp các em rèn luyện kỹ năng sống: Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Việc học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn. Nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình thành thông qua chơi, chơi để lớn lên. Vì thế, ngừơi lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra nhiều cách học khác nhau, những kinh nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi là nền tảng tạo nên sự hăng hái học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui mà vừa có ý nghĩa. Đồng thời, khi trẻ tham gia vào trò chơi, hoặc công việc trẻ cần biết lập kế hoạch chơi, kế hoạch làm việc sáng tạo với các cách chơi và cố gắng đạt mục đích đây chính là những kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này. Thường xuyên chỉ ra cái mới mà người lớn cũng tìm tòi một cách hăng hái bằng nhiều cách, hãy trao đổi với các em về những thông tin mà cô giáo, cha mẹ mới tìm thấy để các em thấy rằng học lúc nào cũng vừa vui, vừa thử thách. 3.1.2. Một số điều cần tránh khi dạy học sinh kỹ năng sống: - Không hạ thấp các em: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của học sinh. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên nói những lời không hay đối với trẻ. - Không doạ nạt: Mỗi lần chúng ta doạ nạt trẻ là chúng ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn. - Không bắt các em hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với em vì nếu các em cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở các em sẽ phát triển cảm giác hối lỗi. - Không bao bọc các em một cách thái quá sẽ làm các em yếu đuối: Cha mẹ thường không đánh giá đúng khả năng của các em cho rằng các em còn nhỏ sẽ không làm được một điều gì cả. Hãy nhớ: đừng bao giờ làm những gì mà trẻ có thể làm được. - Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì những yêu cầu ở các em phải thực hiện một hành vi chín chắn mà các em chưa có khả năng hoặc các em phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hửơng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức của học sinh . - Không nên giáo huấn quá nhiều vì ảnh hửơng của những luồng ngôn ngữ đó làm cho học sinh ngưng hoạt động nhưng trong thực tế các em không 17 thể ngưng hoạt động sẽ dần làm cho các em nghĩ rằng các em là ngừơi có tội, làm nảy sinh tính tự ti, đánh giá tiêu cực về bản thân sau này. 3.2. Kết luận Chúng ta biết rằng giáo dục là một quá trình tác động qua lại, là quá trình hoạt động và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội đa dạng, được tổ chức có mục đích có kế hoạch của các nhà giáo dục và người được giáo dục để hình thành nhân cách hoàn thiện trong nhà trường xã hội chủ nghĩa không những dạy “chữ” mà còn dạy “người.” Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta, khi yếu tố con người được coi trọng về tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần. Nhân cách của con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội. Thực tế hiện nay ngành giáo dục đào tạo dã được nhà nước quan tâm đưa lên quốc sách hàng đầu thi việc dạy chữ nói chung và việc rèn kĩ năng sống nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Một nhà hiền triết đã nói “khoa học mà không có hành vi đạo đức thì chỉ là sự tàn rụi của linh hồn”mà hành vi đạo đức đó chính là kĩ năng sống của học sinh vì vậy việc thực hiện rèn kĩ năng sống cho học sinh là cần thiết biết bao. Trẻ em trong lứa tuổi tiểu học rất hồn nhiên ngây thơ trong trắng. Vốn kiến thức, vốn kinh nghiệm sống của các em mới có rất ít. Vì vậy muốn đạt được mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện của nhà trường, các thầy cô giáo cần phải kiên trì, nhiệt tình, có tâm huyết với nghề, bên cạnh kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, người giáo viên phải có vốn kiến thức tâm lý học, hiểu được tâm sinh lý của trẻ. Từ đó sẽ tìm ra được những phương pháp hiệu quả để giáo dục trẻ. Việc dạy “chữ” cần luôn song hành với việc dạy “ làm người”, và phải được xuất phát ngay từ những tình huống, những việc làm nhỏ nhất trong cuộc sống thực tế của học sinh. Ngay trong những giờ học ngoài việc đảm bảo mục tiêu kiến thức kĩ năng của bài, giáo viên cần chú ý đến rèn kĩ năng sống cho học sinh. Học sinh được rèn kĩ năng sống qua nội dung kiến thức của bài, qua lĩnh hội kiến thức pháp luật, qua tham gia các hoạt động học tập trong lớp, hoạt động ngoài giờ do giáo viên tổ chức. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh là giúp học sinh có nhiều cơ hội để rèn kĩ năng sống. Học sinh được học tập sinh hoạt vui chơi, rèn luyện trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội; vì vậy cần thực hiện tốt gắn kết 3 môi trường để giáo dục học sinh. Phối kết hợp chặt chẽ với các ban ngành đoàn thể để giúp đỡ, tư vấn, tạo điều kiện cho học sinh tích lũy có thêm kĩ năng sống và rèn kĩ năng sống được tốt hơn. 3.3. Kiến nghị Là giáo viên, bản thân tôi hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì thế, tôi luôn cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn. Tôi đã luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển một cách toàn diện. 18 Về phía nhà trường: Theo phương châm giáo dục hiện nay là: “Học để biết, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” nên: Nhà trường luôn phát động phong trào này hơn nữa dưới nhiều hình thức. Về phía phụ huynh: Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ, luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo dõi mọi biểu hiện của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp. Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh luôn được xem là chức năng, nhiệm vụ thường xuyên của đội ngũ giáo viên từ nhiều năm nay. Tuy nhiên việc rèn luyện cho các em học sinh vẫn còn thiếu những biện pháp cụ thể. Hưởng ứng cuộc vận động về chủ đề năm học, qua các buổi tập huấn về việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh của Phòng giáo dục, của trường bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những phương pháp mới nhằm nâng cao nhiều kĩ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội. Trên đây là những suy nghĩ của bản thân tôi về việc nghiên cứu một số biện pháp giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Tôi đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những phương pháp mới nhằm nâng cao nhiều kĩ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội. Rất mong được nhận sự giúp đỡ, góp ý bổ sung của Ban giám hiệu nhà trường, các cấp quản lý giáo dục và giáo viên đồng nghiệp để bản sáng kiến của tôi có được những kinh nghiệm bổ ích có thể áp dụng cho các năm học sau. Xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ TP Thanh Hóa, ngày 31 tháng 3 năm 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Ngô Phương Lê 19 MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 1.1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................1 1.2. Mục đích nghiên cứu .....................................................................................1 1.3. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................2 1.4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................2 2. NỘI DUNG.......................................................................................................2 2.1. Cơ sở lý luận :................................................................................................2 2.2. Cơ sở thực tiễn...............................................................................................3 2.3. Thực trạng vấn đề:..........................................................................................4 2.4. Các giải pháp thực hiện..................................................................................6 2.5. Kết quả đạt được:.........................................................................................16 3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ...........................................................................16 3.1. Bài học kinh nghiệm.....................................................................................16 3.2. Kết luận........................................................................................................18 3.3. Kiến nghị......................................................................................................18 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan