Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5....

Tài liệu Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5.

.PDF
23
69
51

Mô tả:

MỤC LỤC Nội dung I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Đối tượng nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 3.1. Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của dạng bài văn tả cảnh 3.2. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn lựa hình ảnh, nội dung miêu tả. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh 3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý 3.4. Giải pháp 4: Rèn kĩ năng dựng đoạn và hoàn thiện bài văn tả cảnh 3.5.Giải pháp 5: Xây dựng một số bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật tu từ 3.6.Giải pháp 6: Giúp học sinh tích lũy vốn từ dùng cho tả cảnh, làm giàu trí tưởng tượng của các em khi tả 3.7. Giải pháp 7: Tổ chức tương tác giữa thầy và trò 3.8. Giải pháp 8: Rèn kĩ năng viết văn cho học sinh qua các môn học khác 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản thân, đồng nghiệp và nhà trường III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 2. Kiến nghị Trang 1 1 2 2 2 2 2 3 4 4 5 8 10 14 16 17 18 20 20 20 20 0 I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Môn Tiếng Việt là một trong những môn học có vị trí quan trọng ở bậc Tiểu học. Vì môn Tiếng việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường của lứa tuổi. Việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn khác nhau như Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập viết, Chính tả, Tập làm văn. Song khó hơn cả đối với người dạy cũng như đối với người học là phân môn Tập làm văn. Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. Đặc biệt đối với môn Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính của chương trình Tập làm văn 5 là văn miêu tả. Trong đó tả cảnh là một kiểu bài khó vì học sinh chưa có khả năng quan sát tinh tế, chưa cảm nhận hết được vẻ đẹp của cảnh hay những thay đổi của cảnh, không biết dựa vào cảm xúc của mình để làm cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn. Bởi vậy, làm thế nào để cho học sinh làm văn hay ? Làm thế nào để giúp học sinh làm bài văn có hiệu quả ? Thì lại là một vấn đề rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và dày công nghiên cứu của những người làm công tác giáo dục. Từ thực tế giảng dạy Tập làm văn phần tả cảnh, tôi nhận thấy bản thân người giáo viên là người hướng dẫn đôi khi cũng cảm thấy lúng túng, bí từ và không biết phải hướng dẫn thế nào để học sinh có thể viết được bài văn hay, có hình ảnh, có cảm xúc. Một số tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế thì hướng dẫn chung chung, còn một số sách khác như văn mẫu lại chỉ có các bài văn đã viết sẵn mà không có một sự hướng dẫn cụ thể nào để định hướng cho giáo viên cũng như học sinh. Lúc này đây, các em muốn đòi hỏi ở người thầy cái tâm, cái tài để truyền cho các em niềm say mê, để động viên bồi dưỡng các em để trở thành học sinh có năng khiếu, có tâm hồn văn học. Là một giáo viên Tiểu học, tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào cho học sinh thích làm văn, viết văn chân thật, có cảm xúc và sinh động. Tôi mạnh dạn đề xuất “Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn ở Trường Tiểu học Nga Thiện huyện Nga Sơn.” 1 2. Mục đích nghiên cứu: + Nghiên cứu thực trạng chung để đưa ra giải pháp dạy học văn tả cảnh nhằm nâng cao chất lượng viết văn cho học sinh. + Giúp giáo viên có kĩ năng trong khi dạy các bài tập làm văn tả cảnh. + Giúp học sinh: Biết cách làm văn tả cảnh, nắm được cấu tạo 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài) của một bài văn tả cảnh; biết phân tích cấu tạo của một bài văn tả cảnh. Thấy được những ưu điểm, khuyết điểm và cách chữa lỗi đoạn văn, bài văn của mình. 3. Đối tượng nghiên cứu: + Giáo viên, học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Nga Thiện. + Phương pháp dạy - học nội dung bài tả cảnh ở lớp 5. + Các giải pháp để nâng cao chất lượng làm văn tả cảnh. 4. Phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu liên quan đến dạy học văn tả cảnh ở Tiểu học. + Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Tìm hiểu kết quả học tập của học sinh, trao đổi với đồng nghiệp về những khó khăn sai sót khi dạy tả cảnh. + Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm: Rút ra kinh nghiệm từ thực tế của bản thân và học sinh thông qua cách dạy và cách học. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NHGIỆM 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: - Khái niệm về văn tả cảnh: Văn tả cảnh là loại văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho người đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật nào đó xung quanh ta. - Các yếu tố tác động đến khả năng làm văn tả cảnh của học sinh. + Óc quan sát: Trước khi tả một bài văn tả cảnh nào đó học sinh phải được quan sát cảnh đó qua thực tế, qua phim ảnh, sau đó mới nâng cao mức độ là học sinh tưởng tượng + Vốn từ : Học sinh phải giàu vồn từ, có vốn hiểu biết về từ ngữ, ngữ pháp, khả năng sử dụng câu, từ... + Khả năng dạy học của giáo viên: Giáo viên có phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, biết khởi nguồn cảm hứng văn cho học sinh, tránh cho các em sa vào cái khuôn mẫu riêng cũng như lệ thuộc vào các bài văn mẫu... - Các căn cứ của vấn đề: + Căn cứ vào mục tiêu, chương trình Tiếng Việt lớp 5 – bậc Tiểu học. + Căn cứ vào tài liệu tham khảo về phương pháp dạy học môn Tiếng Việt. + Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học. + Căn cứ vào tình hình thực tế học sinh của nhà trường. 2 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ở trường Tiểu học Nga Thiện. 2.1.Về phía giáo viên: Qua nghiên cứu, trao đổi với một số đồng nghiệp và thăm lớp, dự giờ, tôi thấy hầu hết các đồng chí giáo viên đã quan tâm đến việc dạy học phân môn Tập làm văn. Các đống chí đã đầu tư nghiên cứu nhưng vẫn còn tồn tại sau: - Một số đồng chí chưa chủ động, sáng tạo trong việc dạy học, chưa khơi được nguồn cảm hứng học văn để khơi gợi cách viết tự nhiên ở mỗi học sinh. - Việc cảm nhận văn của giáo viên cũng chưa cao nên cảm xúc còn nghèo, khô cứng. Do đó khi phân tích các bài Tập đọc, các đoạn văn mẫu còn lí thuyết, khô cứng. Dạy học sinh căn bản theo văn mẫu, thiếu tính sáng tạo. - Giáo viên không thực hiện đúng các yêu cầu khi trả bài viết cho học sinh, không giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi làm bài để có sự chỉnh sửa rút kinh nghiệm cho bài làm sau. 2.2. Về phía học sinh: - Học sinh chưa có hứng thú viết văn miêu tả. Khi làm văn, học sinh miêu tả hời hợt, chung chung không làm nổi bật được cảnh đang tả. - Các em chưa hiểu rõ đặc điểm của văn tả cảnh, chưa phân biệt được sự khác biệt giữa văn tả cảnh và các kiểu bài văn khác. - Học sinh chưa có phương pháp làm văn, chưa có ý thức quan sát đối tượng miêu tả và ghi chép những điều quan sát được một cách cụ thể và chi tiết. - Không có thói quen sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn; khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế, cảm xúc không tự nhiên, tình cảm gượng ép và khô cứng. - Bài văn học sinh làm thường vay mượn ý tình của người khác, các em thường sao chép những bài văn mẫu thành bài văn của mình không kể đề bài quy định như thế nào. Với cách làm ấy các em không cần biết đối tượng cần miêu tả gì, không chú ý tới đặc điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh, cũng như không có cảm xúc về nó. - Trong tiết trả bài, học sinh chưa chữa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy đủ. Qua khảo sát chất lượng thực tế phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 5A, tôi cho học sinh làm bài: Viết một đoạn văn miêu tả cảnh đẹp ở địa phương em (tuần 8) và tôi đã thu được kết quả như sau: Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 Sĩ số Học sinh SL % SL % SL % SL % 34 em 1 2.9 5 14.7 15 44,2 13 38,2 Tỉ lệ học sinh làm văn tốt và biết cách làm văn còn thấp. Qua tìm hiểu, tôi thấy nổi lên một số nguyên nhân sau: Một là: Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài. 3 Hai là: Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả hoặc khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả. Ba là: Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật cụ thể nào đó. Bốn là: Giáo viên chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: 3.1. Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của dạng bài văn tả cảnh. 3.1.1. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn tả cảnh: Khi dạy văn tả cảnh, giáo viên phải cung cấp cho học sinh đối tượng của bài. Đó là những cảnh vật quen thuộc xung quanh các em: một cơn mưa, một ngày nắng đẹp, một đêm trăng đẹp, một dòng sông, một cánh đồng, một góc phố,… Bài văn tả cảnh là thể loại văn bản mang tính nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn tả cảnh là thứ ngôn ngữ giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ đã được gọt giũa một cách công phu. Tả là mô phỏng, là vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hóa đối tượng có hình ảnh … chứ không thể là liệt kê các chi tiết. Văn tả cảnh mang tính chất thông báo thẩm mĩ, dù tả bất kì đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn tả cảnh không bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh máy móc những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức tinh tế và phong phú. Chẳng hạn khi tả trăng, nhà thơ Trần Đăng Khoa cảm nhận một cách tinh tế bằng tình yêu của tâm hồn trẻ thơ, rất đỗi hồn nhiên trong sáng: Trăng hồng như quả chín/ Lơ lửng mà không rơi… hay Trăng tròn như quả bóng/ Bạn nào đá lên trời. Như vậy, để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối; bệnh công thức sáo rỗng. Tóm lại: Mỗi cảnh đều nằm trong một khung không gian và thời gian, đó là cái nền cho cảnh vật được miêu tả. Các em cần nêu được khung cảnh chung này, nhưng đặc biệt cần tập trung tả nét tiêu biểu. Khi tả cảnh các em có thể lồng tả người, tả vật trong cảnh để cho bài văn thêm sinh động. 3.1.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề: Bài văn của học sinh được viết theo đề bài cụ thể, nên yêu cầu hàng đầu là các em phải viết đúng đề bài, đúng thể loại. Như vậy, để làm được bài văn hay giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh thực hiện được những công việc sau: - Đọc kĩ đề: GV lưu ý học sinh có thể dùng bút chì gạch chân các từ ngữ trọng tâm của đề bài. 4 - Phân tích đề: Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu nội dung, yêu cầu về trọng tâm. Ví dụ: Đề bài: Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). Giáo viên giúp học sinh hiểu được việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội dung bài viết. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài qua việc xác định: a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”). b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ “cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”. c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên…) Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”... Như vậy việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan,….. 3.2. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn lựa hình ảnh, nội dung miêu tả. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh: 3.2.1. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn lựa hình ảnh, nội dung miêu tả: a. Tập cho học sinh thói quen quan sát: Học sinh thường không có thói quen quan sát. Phải quan sát để tìm ra những nét nổi bật, độc đáo của đối tượng miêu tả. - Quan sát tổng thể đối tượng, ở cả trạng thái động và tĩnh, quan sát bằng tất cả các giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác… - Cần xác định vị trí quan sát, thời điểm quan sát, trình tự và nội dung quan sát. - Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật kĩ. - Quan sát và so sánh điểm giống nhau và khác nhau với các đối tượng khác có ở xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó. - Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật xung quanh. - Có thể ghi nhớ trong đầu, hoặc ghi chép cẩn thận, đầy đủ vào sổ sách. - Có thể quan sát trực tiếp hoặc bằng tranh, ảnh, hồi tưởng bằng trí nhớ. - Quan sát phải luôn gắn với việc tìm ý và tìm từ ngữ để diễn tả. - Lập bảng quan sát và yêu cầu các em ghi kết quả quan sát vào bảng. Một số ví dụ: 5 - Hướng dẫn học sinh quan sát và hoàn thành bảng quan sát khi tả dòng sông quê hương: Sông rộng mênh mông, trải dài… Thuyền bè đi lại trên sông tấp nập… Sóng nhấp nhô… Bờ bên phải: bãi ngô xanh biêng biếc… Bờ bên trái: Bãi cát trải dài, trắng xoá… Mặt trời, mặt trăng soi bóng xuống mặt nước… Mặt sông loang loáng, lấp lánh… Tai nghe Sóng vỗ rì rào, soàn soạt… ( Thính giác) Bãi ngô bên bờ rì rầm, xào xạc… Tiếng hát của ngư dân trong đêm trên sông… Mũi ngửi Mùi tanh tanh của thuyền no bụng cá… ( Khứu giác) … Da( Xúc giác) Nước mát rượi… - Hướng dẫn học sinh hoàn thành bảng quan sát dòng sông theo trình tự thời gian: - Sông hiền hoà chảy, uốn lượn như dải lụa. - Sóng rì rào ca hát Sáng - Trên mặt sông, thuyền chở người, chở hàng...đi lại như mắc cửi. - Bến sông nhộn nhịp tiếng cười nói. Mặt trời chiếu tia nắng chói chang làm sông đỏ ngầu giận dữ, Trưa cuồn cuộn chảy về xuôi. - Mặt nước gợn sóng, những con sóng nhẹ nhàng xô vào hai bên bờ. Chiều - Lũ trẻ tắm sông tha hồ lặn ngụp. - Làn nước mát rượi ôm ấp lũ trẻ. - Đoàn thuyền no bụng cá nối đuôi nhau cập bến. - Trăng lên, ánh trăng toả xuống mặt sông. - Mặt sông như trải rộng mênh mông, bàng bạc một màu. - Ánh đèn hai bên bờ tạo thành vệt sáng lung linh. Tối - Tiếng gõ lanh canh của thuyền đánh cá đêm, tiếng hát của ngư dân làm dòng sông thêm đẹp, thêm sinh động. Mắt thấy (Thị giác) - - Khi dạy cho học sinh tả cánh đồng quê em, giáo viên yêu cầu học sinh tự quan sát cánh đồng làng mình hoặc tổ chức cho học sinh đi tham quan thực tế theo hình thức ngoại khoá để các em tận mắt quan sát cánh đồng, cây lúa, ngô, con trâu, con người có những đặc điểm, hoạt động gì ? 6 Cánh đồng lúa làng Tri Thiện xã Nga Thiện - Những cảnh định tả mà nơi ở của học sinh không có, các em không thể quan sát trực tiếp được, giáo viên sưu tầm một số tranh ảnh cho học sinh quan sát để giúp các em có vốn kiến thức thực tế hơn. VD: Để tả cảnh dòng sông quê em, giáo viên cho học sinh quan sát tranh, ảnh dòng sông và dùng câu hỏi khai thác. ( Sông chảy thẳng hay quanh co, uốn lượn ? Lòng sông rộng hay hẹp ? Nước sông nhiều hay ít ? Màu sắc của nước sông như thế nào ? Trên mặt sông có những hình ảnh gì nổi bật ? Cảnh hai bên bờ sông có gì làm em thích thú ?...........) Sông Hoạt - Huyện Nga Sơn 7 Với cách dạy cho học sinh quan sát tranh, tôi nhận thấy bài văn của học sinh có nhiều hình ảnh phong phú, cách nhìn cảnh vật tinh tế hơn. Do đó khả năng sản sinh văn bản cũng tốt hơn. b. Lựa chọn hình ảnh tiêu biểu và nội dung để tả. Để lựa chọn hình ảnh tiêu biểu và nội dung để tả trong bài văn, GV hướng dẫn học sinh: - Căn cứ vào hình ảnh lựa chọn khi quan sát. - Căn cứ vào nội dung ghi chép được. - Chọn lựa những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và khác biệt của đối tượng để miêu tả. Lựa chọn hình ảnh, hoạt động của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên hình ảnh tổng thể về đối tượng, có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó mật thiết với đối tượng. 3.2.2. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh: Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy vốn hiểu biết về cảnh, về sự thay đổi của cảnh của học sinh còn quá ít, thậm chí có sự sai lệnh. Điều này do nhiều nguyên nhân: có thể các em chưa có cơ hội tiếp cận cảnh để quan sát, để khám phá về cảnh, chưa có thời gian để quan sát cảnh trong một thời gian dài và vốn hiểu biết về tự nhiên còn hạn chế. Ví dụ: - Học sinh không rõ sông ít nước vào mùa nào, nhiều nước vào mùa nào, nước sông luôn ngầu đục hay có lúc đục, lúc trong, bờ có bên lở bên bồi… - Học sinh không nắm rõ được sự thay đổi của cảnh vật theo thời gian nên khi tả có thể tả cây phượng vào mùa xuân có tán lá xum xuê, xanh mướt, cánh đồng lúa chín vàng vào tháng sáu, tháng bảy… Chính vì kiến thức về cảnh không có hoặc có ít đã làm các em thiếu tự tin trong khi viết văn miêu tả cảnh vật đó. Do các em chưa hiểu rõ về cảnh nên chưa thể tự tin viết được một bài văn hay. Muốn khắc phục tình trạng trên giáo viên cần làm những việc sau: + Tích cực yêu cầu học sinh đi quan sát thực tế các cảnh vào các thời điểm khác nhau, ở các vị trí khác nhau. + Bổ sung vốn kiến thức về cảnh qua các tiết Tiếng Việt, có dữ liệu đưa ra liên quan đến cảnh vật, qua tiết địa lý, khoa học… + Cho học sinh xem tổng quan về cảnh qua kênh thông tin truyền hình. + Thường xuyên bổ khuyết vốn sống của học sinh ở mọi nơi mọi lúc. + Hướng dẫn học sinh lập từ điển cá nhân về các cảnh vật được quan sát và yêu thích. 3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý: - Để làm bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, đẹp về hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng... đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản. - Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích 8 xây dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng học sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm. - Hướng dẫn học sinh lập dàn ý chung: - Bài văn tả cảnh thường có 3 phần: + Mở bài : Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả. + Thân bài: Tả từng phần của cảnh (nếu tả theo trình tự không gian) hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian( nếu tả theo trình tự thời gian). + Kết bài : Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ về cảnh được tả. + Hướng dẫn học sinh áp dụng để lập dàn ý chi tiết. Sau khi có trong tay dàn ý chung cho cho bài văn, học sinh sẽ áp dụng để lập dàn ý chi tiết. Dàn ý này cũng chính là cái sườn sát nhất cho học sinh viết thành bài văn cụ thể. Ví dụ 1: Đề bài: Tả một buổi chiều trên cánh đồng.Tôi đưa ra hệ thống câu hỏi sau: + Đọc kĩ đề bài xác định thể loại? + Trọng tâm của đề bài là gì? Sau khi đã quan sát được, học sinh sẽ tự sắp xếp ý để lập dàn bài chi tiết cụ thể: * Mở bài: + Chiều nào em cũng đi học về qua cánh đồng làng. + Con đường đi học của em uốn quanh làng, men theo đồng lúa . + Mỗi chiều đi học về, em thả hồn mình trước cánh đồng lúa ngút ngàn. * Thân bài: Tả theo trình tự thời gian. + Ông mặt trời lững thững đạp xe qua ngọn tre. + Những tia nắng vàng nhạt dần. + Cánh đồng là một màu vàng. + Những đợt sóng lúa nhấp nhô theo làn gió. + Dọc 2 bên bờ sông là hàng bạch đàn cao vút, soi bóng xuống mặt nước trong veo. + Đàn trâu bò mộng, đàn bò vàng mượt trên đường làng dưới hàng cây. + Lũ chim chiền chiện lúc bay, lúc sà xuống ruộng lúa, lúc chấp chới trên không trung . + Chim cu gáy bay về từng đàn. + Trên bờ ruộng mấy bác nông dân đang trò chuyện, tay nâng bông lúa lên ngắm. Gương mặt ai cũng tràn trề niềm vui, tin tưởng chờ đợi một vụ mùa bội thu. + Ven bờ, một chị phụ nữ đang buộc những khóm lúa cạnh bờ. + Xa xa, mấy bạn nhỏ đang đi học về. * Kết bài: Trời nhá nhem tối, em về nhà trong tâm trạng vui vui, Em ước sao khoảnh khắc hoàng hôn còn ở mãi trên cánh đồng để ai cũng nhìn thấy một màu vàng của no ấm. Ví dụ 2: Dàn bài tả buổi sáng trong vườn cây. * Mở bài: Gần nhà em có khu vườn của Bác Bảy trồng nhiều loại cây ăn trái. Sáng nay chủ nhật em ra thăm khu vườn và trò chuyện với Bác Bảy. 9 * Thân bài: Tả từng bộ phận của cảnh vật. + Khu vườn rộng khoảng 1 hecta. + Xung quanh được rào bằng dây thép quét sơn trắng nổi bật giữa màu xanh của cây lá. + Nhiều loại cây được trồng theo hàng lối, quả sai, cành lá xanh mượt óng lên dưới ánh nắng ban mai. + Chim chóc làm tổ trong vườn hót líu lo. + Vài người làm vườn đang tỉa lá, bắt sâu, vun gốc. * Kết bài: Em rất thích vào chơi khu vườn vào những buổi sáng như thế vì nơi đây có không khí trong lành, được Bác Bảy giải thích ích lợi từng loại cây… 3.4. Giải pháp 4: Rèn kĩ năng dựng đoạn và hoàn thiện bài văn tả cảnh: 3.4.1. Rèn kĩ năng dựng đoạn trong bài văn tả cảnh: Dựng đoạn văn chính là cách sắp xếp các lời văn diễn đạt sao cho hợp lý, logic, chặt chẽ, mạch lạc. Học sinh thường rất lúng túng không biết tả cảnh cụ thể là tả cảnh gì? Tả như thế nào? Theo trình tự từ đâu? ... Các em thường kể lể liệt kê cảnh một cách lộn xộn, tràn lan, không tạo được ấn tượng cho người đọc về cảnh. Trong đoạn văn của các em có thể đủ ý theo nội dung đã quan sát nhưng các em chưa biết cách sắp xếp sao cho đoạn văn có lôgic về nội dung, chưa có các từ nối để liên kết các câu với nhau. Vậy chúng ta phải làm như thế nào để khắc phục tình trạng này. Trước hết, tôi hướng cho học sinh hình dung mỗi một cảnh nhỏ sẽ viết thành một đoạn văn trọn vẹn. Trong đoạn văn đó sẽ đi từ khái quát đến cụ thể. Bao giờ câu đầu đoạn cũng là câu miêu tả khái quát cảnh đó. Sau câu tả khái quát là một loạt câu miêu tả cụ thể theo trình tự từ gần đến xa ( hoặc ngược lại) theo tầm mắt. Trong quá trình miêu tả, cần lưu ý cho học sinh trình tự miêu tả cho phù hợp với vị trí quan sát kết hợp lời văn so sánh, lời văn nhận xét, đánh giá và sự tưởng tượng phong phú, ý câu trước với câu sau lôgic với nhau tạo độ kết về mặt nghĩa. Những câu ở cuối đoạn thường là những câu có ý nghĩa sâu sắc, làm đậm nét cho bức tranh thiên nhiên nên hướng cho học sinh biết dành những lời văn trội hơn vào cuối đoạn. Ví dụ về cách dựng đoạn: Cách dựng đoạn của học sinh Cách dựng đoạn theo gợi ý của thầy Ngôi trường của em rất đẹp. Bước chân đến cổng trường, trước Chúng em có một khoảng sân mắt em là tấm biển Trường Tiểu học Nga rộng để vui đùa, có cả ghế đá của Lĩnh bằng chữ màu xanh trên nền trắng những thầy cô và các anh chị đi trang trọng. Vào bên trong, các dãy trước tặng lại nhà trường để ngồi phòng học cánh cửa vẫn còn đóng im. nghỉ ngơi trong giờ giải lao. Bên trên, một màn sương lờ mờ như trùm Những hàng xà cừ, bằng lăng, lên cảnh vật. Xung quanh là những cây bàng, phượng vĩ đã đứng đó mấy cảnh, dáng vẻ như e thẹn, lá vẫn còn đẫm chục năm rồi, cùng chia sẻ buồn sương đêm. Mỗi cây có một dáng vẻ vui với bao thế hệ học trò. Những riêng, cây nào cũng đẹp. Dưới bàn tay cây phượng cành khẳng khiu như chăm sóc, sắp đặt của các thầy cô, hình 10 hàng trăm cánh tay vươn ra giữa như mỗi cây có một nét đẹp riêng. Lôi trời xanh. cuốn nhất là cây sanh, gốc to, từng túm lá xòe ra trông rất ngộ nghĩnh. 3.4.2. Hướng dẫn xây dựng mở bài, thân bài, kết bài trong bài văn tả cảnh: a. Xây dựng phần mở bài: Chương trình dạy tập làm văn lớp 5 có hướng dẫn học sinh mở bài khi miêu tả cảnh như: Mở bài gián tiếp và trực tiếp. Tuy nhiên học sinh mới hiểu phần lí thuyết mà chưa biết cách làm thế nào cho hay cho sinh động và ở hai kiểu mở bài đó có những cách mở bài nào. Đây chính là nguyên nhân khiến cho các em vô cùng lúng túng và mất nhiều thời gian để suy nghĩ trong khi đã sẵn sàng viết phần thân bài. Mở bài là phần đầu tiên, vị trí của nó bao giờ cũng nằm ở phần đầu bài, là phần trước nhất đến với người đọc, gây cho người đọc cảm giác, ấn tượng về bài viết, tạo ra âm hưởng chung cho toàn bài. Phần này có vai trò và tầm quan trọng khá đặc biết vì một mở bài gọn gàng, hấp dẫn sẽ tạo được hứng thú cho người đọc và báo hiệu một nội dung tốt. Để học sinh làm tốt phần mở bài giáo viên cần cho học sinh hiểu thế nào là mở bài trực tiếp, gián tiếp, ưu nhược điểm của từng loại. * Mở bài trực tiếp: Là giới thiệu ngay với người đọc cảnh mà mình sẽ miêu tả. - Ưu điểm: Cách trình bày nhanh gọn, tự nhiên, giản dị, dễ tiếp nhận và thích hợp với bài viết ngắn. - Nhược điểm: Nếu mở bài không khéo sẽ gây cảm giác khô khan, ít hấp dẫn. Với kiểu mở bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách vào bài trực tiếp như sau: + Mở bài bằng một câu cảm nhận xét, đánh giá về cảnh. Ví dụ : Ôi, dòng sông Hồng mới đẹp làm sao ! + Mở bài bằng cách nêu cảnh miêu tả và vị trí, thời gian quan sát cảnh. Ví dụ: Chiều qua, em cùng các bạn ra bờ sông Hồng chơi. Cảnh ở đó rất đẹp. * Mở bài gián tiếp: là nói chuyện khác có liên quan rồi dẫn vào giới thiệu đối tượng mình định tả. Có một số cách mở bài gián tiếp như: - Mở bài bằng một âm thanh. - Một cách so sánh . - Một lời đối thoại. - Trích dẫn câu văn, câu thơ câu hát… về đối tượng. Giáo viên cần khuyến khích học sinh mở bài theo cách gián tiếp. Vì mở bài gián tiếp sẽ làm cho bài văn thêm sinh động, gợi cảm hấp dẫn gây hứng thú cho người đọc. Tuy vậy nếu mở bài không khéo sẽ lan man, vòng vèo, làm phân tán sự chú ý của người đọc. Tuỳ theo từng đối tượng mà ta lựa chọn cách mở bài gián tiếp cho phù hợp. 11 Cách mở bài gián tiếp Ví dụ Quê hương em có rất nhiều cảnh đẹp. Cánh đồng lúa chín vàng thẳng cánh cò bay, triền đê xanh mượt cỏ với những buổi chiều hè đá bóng thả diều. Nhưng cảnh đẹp nên thơ và là niềm tự hào nhất của người Bằng hình ảnh so sánh dân quê em chính là dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa quanh năm hiền hoà chảy. “Bộp…bộp…” Tiếng mưa nặng nề rơi xuống mái Bằng một âm thanh tôn làm mọi người hoảng hốt nhận ra trời đã mưa. - Mai ơi, cậu thích nhất cảnh nào ở quê mình? - Quê mình có rất nhiều cảnh đẹp nhưng mình thích nhất được ngắm cảnh dòng sông Hồng. Bằng lời đối thoại - Vì sao thế? - Vì mình thấy đó là một cảnh sông nước rất đẹp và nên thơ. “Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi bóng những hàng tre Trích dẫn câu văn, câu Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè thơ, câu hát …về đối Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng...” tượng Mỗi khi đọc những câu thơ trên, em không khỏi bồi hồi khi nghĩ về dòng sông Hồng yêu dấu của quê hương, nơi giữ biết bao kỉ niện đẹp đẽ thời thơ ấu. Mỗi một đề văn giáo viên cần khéo léo đặt các câu hỏi để học sinh suy nghĩ và tìm ra cách mở bài hay nhất độc đáo nhất. b. Xây dựng phần thân bài: - Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết theo từng phần, từng ý đã sắp xếp khi quan sát, khi chuẩn bị bài. Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để tả. - Giáo viên cần hướng dẫn học sinh: + Bám sát dàn bài chi tiết. + Dùng từ gợi tả, gợi cảm và các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa. + Dùng từ đặt câu có liên kết và các biện pháp tu từ về câu. + Đoạn văn trình bày đúng cách có liên kết đoạn. + Sử dụng đúng các dấu câu. Để học sinh làm tốt phần thân bài, giáo viên cần hướng dẫn học sinh viết theo một trình tự nhất định đã được chọn khi lập dàn bài. c. Xây dựng phần kết bài: Nếu như mở bài như một lời thân ái mời chào của chúng ta đối với khách tới thăm nhà thì kết bài là lời tạm biệt đầy tình cảm mến yêu, nó khép lại trước mắt người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà các em đã miêu tả, nó kết lại những ý lớn ở phần thân bài. Vì thế khi viết phần kết bài, giáo viên cần hướng dẫn học sinh viết làm sao cho thật cô đọng, ngắn gọn, tránh 12 hành văn cộc lốc, công thức hoặc khuôn sáo. Giáo viên hướng dẫn học sinh hai kiểu kết bài mở rộng và không mở rộng. Với mỗi cách kết bài đều có những cách diễn đạt khác nhau. * Kết bài không mở rộng thường được đóng ý một cách gọn đủ các ý: - Nhận xét, đánh giá về cảnh. - Tình cảm đối với cảnh. - Hành động: Chăm sóc, bảo vệ,... Các ý trên có thể được sắp xếp ở các vị trí khác nhau để cho các kết bài khác nhau. Ví dụ: Khi kết bài văn tả khu vườn vào buổi sáng học sinh nêu được các ý: 1. Nhận xét, đánh giá: Khu vườn thật đẹp. 2. Tình cảm: Yêu quý và luôn cảm thấy thích thú khi ngắm. 3. Hành động: Chăm sóc, bảo vệ cây cối. Với 3 ý trên học sinh có thể viết được các kiểu kết bài. Ví dụ: - Kiểu 1: Khu vườn thật đẹp. Được ngắm nhìn nó em thấy rất thích thú và thoải mái. Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt. - Kiểu 2: Được ngắm nhìn khu vườn em rất thích thú trước vẻ đẹp của nó. Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt. - Kiểu 3: Chăm sóc và bảo vệ cây cối ở đây để khu vườn ngày thêm đẹp là niềm vui của em. * Kết bài mở rộng: Khi viết kết bài mở rộng học sinh vẫn đưa 3 ý suy nghĩ, tình cảm, hành động như mở bài không mở rộng nhưng diễn đạt mở rộng bằng cách: - Nêu ra câu hỏi. Nêu một ý mới lạ. - Đưa ra một lời bình. Từ việc phân tích một số mẫu kết bài trên học sinh sẽ luyện tập viết kết bài theo một trong các cách kể trên. Ví dụ: Đề bài Tả khu vườn vào buổi sáng. Học sinh có thể viết kết bài mở rộng như sau: Bạn thấy khu vườn nhà mình thế nào ? Rất tuyệt vời phải không ? Sáng nào cũng vậy, cứ ra ngắm khu vườn mình lại tìm thấy một cảm giác thật dễ chịu, sảng khoái. Nêu câu hỏi Mình sẽ chăm sóc cho khu vườn ngày thêm đẹp, cho cây cối quanh năm tươi tốt, tràn trề sức sống. Bản hoà tấu có tiếng chim ca hát, có tiếng lá xào xạc, tiếng cựa mình của cây cùng với cảnh vui chơi nhảy nhót của nắng của gió, của ong bướm đã làm khu vườn thật đẹp, Nêu một ý tưởng thật lộng lẫy, không gian thật khoáng đạt, trong lành. Yêu biết mấy khu vườn nhà em. Khu vườn không rộng, không lộng lẫy những sắc màu Đưa ra một lời của các loài hoa nhưng khi đứng mgắm nhìn nó, em luôn bình có một cảm giác thật dễ chịu và thoải mái. Ngày qua ngày, 13 nó cứ bình yên hiền lành sống vui bên nắng gió, bên gió bên tiếng chim ca hát. Yêu biết mấy khu vườn nhà em ! Tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài nhưng kết bài rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được rất nhiều tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy, học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết bài không mở rộng. Kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc. Vì vậy giáo viên cần phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc tự nhiên của mình. 3.4.3. Giúp học sinh hoàn thiện bài văn tả cảnh: Đây là bước quan trọng, cần thiết để có được một bài làm văn tốt nhất. Để bài văn đạt hiệu quả cao, lời nhắc nhở dặn dò của giáo viên trước lúc viết cũng rất quan trọng. Ngoài việc thực hiện theo đúng các bước trong tiết viết bài, trong mỗi tiết viết tôi còn chú ý dặn thêm: - Liên kết phần mở bài, thân bài, kết bài để tạo thành bài văn hoàn chỉnh. - Cần lựa chọn, sử dụng đúng và hay các từ ghép, từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình...nhằm gợi tả rõ không khí của cảnh. - Chú ý dùng cách so sánh, nhân hoá, làm nổi bật cảnh chính.. - Khi làm bài vào vở, học sinh chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Đó là những yếu tố giúp học sinh thành công trong quá trình học làm văn.. 3.5. Giải pháp 5: Xây dựng một số bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật tu từ: Trong thời gian học sinh học về tả cảnh thì giáo viên có thể xây dựng các bài tập bổ trợ về cách dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn nói về cảnh. Các bài tập này có thể làm vào các tiết luyện tiếng việt buổi 2 hoặc lồng ghép trong các tiết thuộc phân môn Tiếng Việt. * Một số lưu ý khi xây dựng bài tập bổ trợ: - Bài tập đưa ra phải có dữ liệu đảm bảo tính chính xác về cấu tạo ngữ pháp, tính nghệ thuật trong ngôn từ và cú pháp. - Bài tập phải phát huy được sự sáng tạo của học sinh. Bài tập có nhiều hướng giải quyết khác nhau tạo sự phong phú trong suy nghĩ của học sinh. 3.5.1. Bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ: * Mục đích: - Qua bài tập, học sinh nhận thấy tác dụng của việc sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm. - Học sinh biết cách chọn từ và sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm phù hợp với văn cảnh. * Một số kiểu bài tập: Bài 1: Tìm các từ ghép, từ láy chỉ về: a. Độ rộng. b. Độ cao. c. Độ sáng. 14 d. Màu sắc của cây cối. Bài 2: Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống để câu văn diễn tả cụ thể, sinh động: a. Trên vòm cây, bầy chim hót…. b. Đàn cò bay…trên cánh đồng rộng… c. Ngọn núi cao…nổi bật giữa bầu trời xanh... d. Những tàu lá chuối …. trong gió. Bài 3: Thay các từ in nghiêng dưới đây bằng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm. a. Vầng trăng tròn quá, ánh trăng trong xanh tỏa khắp khu rừng. b. Gió bắt đầu thổi mạnh, lá cây rơi nhiều, từng đàn cò bay nhanh theo mây. c. Tiếng sấm sét vang lên kèm theo ánh chớp sáng ngang bầu trời. 3.5.2. Bài tập rèn kĩ năng viết câu có hình ảnh: * Mục đích : Rèn kĩ năng sử dụng câu tả, sử dụng các biện pháp tu từ trong viết văn để tạo ra những câu văn có hình ảnh sinh động * Một số kiểu bài tập. Bài 1: Mở rộng thành phần câu để được câu văn có hình ảnh hơn. a. Lá rơi. b. Biển đẹp. c. Cánh đồng lúa rất rộng. d. Mặt trời mọc. Bài 2: Chuyển các câu kể sau thành câu tả có sử dụng biện pháp nhân hoá hoặc so sánh. - Những bông hoa nở trong nắng sớm. - Mấy con chim đang hót ríu rít trên vòm cây. - Mặt trời mọc từ phía đông, chiếu những tia nắng xuống cánh đồng lúa xanh rờn. 3.5.3. Dạng bài tập cảm thụ cái hay, cái đẹp trong việc dùng từ và biện pháp tu từ trong một số đoạn văn, đoạn thơ hay: * Tác dụng: Đây là dạng bài tập cảm thụ văn học, dạng bài tập này giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong các văn bản từ đó có kĩ năng dùng từ, viết câu và khả năng thể hiện những tình cảm, những xúc cảm của mình khi viết văn. * Ví dụ: Bài 1: Trong cuốn Hồi kí Bác Hồ, hai nhà văn Hoài Thanh và Thanh Tịnh đã tả phong cảnh Quê hương Bác như sau: Trước mắt chúng tôi, giữa hai dãy núi là nhà Bác với cánh đồng quê Bác. Nhìn xuống cánh đồng có đủ các màu xanh, xanh pha vàng của ruộng mía, xanh rất mượt của lúa chiêm đương thời con gái, xanh đậm của những rặng tre. Đọc đoạn văn trên, em có nhận xét gì về cách dùng từ ngữ chỉ màu xanh ? Cách dùng từ ngữ như vậy đã góp phần gợi tả điều gì về cảnh vật trên quê Bác? Bài 2:Trong bài Mặt trời xanh của tôi, nhà thơ Nguyễn Viết Bình có viết: 15 Rừng cọ ơi! Rừng cọ Lá đẹp, lá ngời ngời Tôi yêu thường vẫn gọi Mặt trời xanh của tôi. Theo em, khổ thơ trên đã bộc lộ tình cảm của tác giả đối với rừng cọ của quê hương như thế nào? 3.6. Giải pháp 6: Giúp học sinh tích lũy vốn từ dùng cho tả cảnh, làm giàu trí tưởng tượng của các em khi tả: 3.6.1. Tích lũy vốn từ: - Vốn từ được tích lũy từ nhiều nguồn: trong giao tiếp hàng ngày; qua đọc sách, báo; qua xem, nghe truyền hình, truyền thanh; trao đổi với bạn bè; thầy cô giáo cung cấp… - Ghi chép lại dùng để miêu tả. Ví dụ như: + Các từ dùng để miêu tả cây cối: xanh mướt, xanh rì, xanh mơn mởn, xanh non, xanh lá mạ, xanh biết, xanh lục, …. rung rinh, um tùm, sum suê, khẳng khiu, rực rỡ, mỡ màng, vàng úa, xơ xác, trơ trụi, lác đác, xào xạc, lả tả,… + Các từ ngữ dùng để miêu tả âm thanh: vi vu, ầm ầm, đì đùng, xoèn xoẹt, lách cách, cót két, phành phạch, râm ran, ríu rít, rào rào, tí tách, đồm độp, … + Các từ dùng để tả mùi vị: thơm thoang thoảng, ngòn ngọt, chan chát, nồng nồng, cay xè, ngai ngái, hăng hắc, dìu dịu, ngào ngạt, sực nức, ngọt mát,… + Cung cấp và khuyến khích học sinh tích luỹ vốn từ ngữ khi học, đọc các bài văn, thơ về cảnh. - Giáo viên cần phân tích, mở rộng việc dùng từ, đặt câu, việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi học các văn bản nghệ thuật, đặc biệt là tả cảnh. Số lượng từ ngữ miêu tả ở các bài thơ, văn rất phong phú đồng thời cách sử dụng chúng rất sáng tạo nên khi dạy tập đọc giáo viên cần chỉ ra các từ ngữ miêu tả, cách sử dụng biện pháp tu từ, các đặt câu…trong một vài trường hợp đặc sắc để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng. Việc phân tích này giúp các em tiếp cận đựơc với các văn bản nghệ thuật, tiếp cận với kĩ năng viết văn một cách thường xuyên và có chất lượng mà lại nhẹ nhàng không áp đặt. - Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ ngữ miêu tả nói chung và tả cảnh nói riêng thông qua các tiết dạy: Luyện từ và câu và các tiết họat động ngoại khóa. Những tiết luyện từ và câu giáo viên có thể cho học sinh được mở rộng vốn từ bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa, các từ gợi tả, gợi cảm sau đó lựa chọn chép vào sổ tay từ ngữ của mình 3.6.2. Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng: - Tưởng tượng trong văn miêu tả nói chung; văn tả cảnh nói riêng là rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được điểm tương đồng với đối tượng khác. Từ tưởng tượng học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình đối với cảnh sẽ tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng được miêu tả hoàn thiện hơn, đẹp hơn, sống động hơn và gần gũi với con người hơn. 16 - Tưởng tượng thế nào? + Không trực tiếp quan sát mà tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng. + Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnh hưởng tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh. + So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng. Đây là một trong những “bí quyết” để viết văn miêu tả nói chung, tả cảnh nói riêng được hay hơn. Chẳng hạn, khi tả trăng ta có thể so sánh với những sự vật như con thuyền, cánh diều, quả bóng, cái đĩa,…Tả chiếc lá bàng ta có thể so sánh với cái quạt, chiếc bánh đa,… Hay khi tả những chùm hoa phượng ta có thể so sánh với những đốm lửa hồng bập bùng; tả những quả bàng xanh tại sao ta lại không so sánh với những chú rùa con bé xíu… + Phân tích đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng. + Ghi chép lại những gì mà mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết của mình. + Nhân hóa hay tự nhiên hóa một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng. Ví dụ: “Máy tuốt to lù lù đững giữa sân kho, kêu tành tạch. Người ta nhét những ôm lúa vào miệng nó. Nó nhằn nhằn một thoáng rồi phì rơm ra” (tả một ngày mùa). 3.7. Giải pháp 7: Tổ chức cho học sinh được tương tác trong tiết tập làm văn. 3.7.1. Tổ chức tương tác giữa trò và trò: Trong giờ tập làm văn, giáo viên cần chia nhóm phù hợp cho từng hoạt động học, từng đơn vị kiến thức kĩ năng. Hình thành cơ cấu nhóm phải linh hoạt phù hợp với tất cả mọi đối tượng học sinh nhằm tạo cơ hội nhiều hơn cho những em yếu, trung bình được hoạt động. Từ đó, vừa vun đắp cho các em khả năng thích nghi giao tiếp trong mọi hoàn cảnh, vừa bồi đắp tình yêu, lòng say mê văn học, lòng tự hào về tiếng Việt Việt, xây dựng được lòng ham thích đọc sách báo cho học sinh. Đặc biệt chú trọng việc tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm trong quá trình quan sát, tìm ý và lập dàn ý để chọn ra những nét tiêu biểu của cảnh và tả đúng theo trình tự. Tổ chức cho học sinh thảo luận để tìm ra các câu văn hay, các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong những đoạn văn, bài văn hay của các bạn hoặc trong các bài văn mẫu để học tập. Ví dụ: Với đề văn tả cảnh buổi sáng mùa xuân, cho học sinh thảo luận nhóm với yêu cầu sau: Đọc đoạn văn sau và làm các yêu cầu ở dưới: Xuân sang, xua tan đi cái không khí giá rét, ẩm thấp, thay vào là sự ấm áp của đất trời. Ông mặt trời đã thức giấc nhưng hình như vẫn còn mơ màng trong giấc mộng ngọt ngào, ló ra kéo chiếc đèn lửa lên cao, thắp sáng, xua đi cái nền trời xám xịt, nặng nề cua mùa đông. Những đám mây trắng tựa bông bồng bềnh trôi thanh thản, nhẹ nhàng như đang lướt qua một làn nước xanh, cao vút. Những lộc non ấy bé li ti, xanh mơn mởn nhú ra, vươn mình, cựa quậy thích thú nhìn ra thế giới bên ngoài như một đứa trẻ vừa tinh nghịch, vừa tò mò muốn khám phá bao điều xung quanh, muốn được ngắm nhìn tất cả mọi vật. Rồi thân 17 cây mẹ sau một mùa đông kiên nhẫn, lặng thầm chắt chiu cũng bừng giấc, dang tay vẫy chào cô tiên mùa xuân và bắt đầu cho một sự sống mới với bao hứa hẹn. - Tìm ra các câu văn hay trong đoạn văn. - Tìm các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn văn. - Các biên pháp nghệ thuật đó có tác dụng gì? - Em cùng bạn thảo luận để viết một số câu văn tương tự như các câu văn vừa nêu. Nhận được yêu cầu, học sinh thảo luận rất sôi nổi. Từng nhóm thi nhau nêu các câu văn hay, các hình ảnh đẹp và nêu tác dụng của các biện pháp nghệ thuật. Sau đó các nhóm nêu câu văn của nhóm mình. Quả thật, câu văn của các em đã hay hơn rất nhiều, có nhiều hình ảnh gợi tả, gợi cảm. Từ đó tôi nhận thấy, tổ chức cho học sinh được trao đổi, thảo luận để tìm cái hay, cái đẹp trong tiết Tập làm văn thực sự có hiệu quả. 3.7.2. Tổ chức tương tác giữa thầy và trò: Tổ chức tương tác giữa thầy và trò được thể hiện trong quá trình giảng dạy, giáo viên dùng hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời, nhận xét, đánh giá học sinh. Ví dụ: Với đề văn tả cảnh cánh đồng, giáo viên tương tác với học sinh bằng hệ thống câu hỏi sạu: - Cánh đồng em tả ở đâu ? - Em quan sát cánh đồng trong hoàn cảnh nào ? - Cánh đồng đó có rộng không, chạy từ đâu tới đâu ? - Khi bình minh lên cánh đồng đẹp như thế nào? - Khi mặt trời lên cao, cánh đồng như thế nào? Từng thửa ruộng ra sao ? - Có người làm việc ngoài đồng không ? Họ đang làm gì ? Có cây bóng mát không ? Có chim chóc không ? Chúng ở đâu và đang làm gì ? - Cảm nghĩ của em về cảnh vật và cuộc sống nơi đồng quê ? Đặc biệt ở tiết trả bài tập làm văn, tổ chức tương tác giữa thầy và trò rất quan trọng, giúp các em sửa chữa lỗi, rút kinh nghiệm cho bài viết lần sau và học tập các bạn những cách viết hay để vận dụng vào các bài văn. Tuy nhiên, ở tiết học này một số giáo viên thường làm qua loa, không chữa kĩ càng, bớt xén thời gian để dạy môn khác. Vậy, muốn có được tiết trả bài có hiệu quả giáo viên cần phải: - Chấm bài cẩn thận, kĩ càng; chữa từng lỗi nhỏ của bài viết cho học sinh. - Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại như: lỗi về cách dùng từ, đặt câu; lỗi diễn đạt; lỗi chính tả;… ghi lại các từ, các câu hay, đoạn văn hay. - Nhận xét ưu điểm, nhược điểm trong bài làm của học sinh. - Chữa lỗi cho học sinh theo các lỗi giáo viên đã tổng hợp khi chấm bài. - Đọc những câu văn hay, đoạn văn hay để học sinh học tập. - Trả bài và cho học sinh tự sửa lỗi và viết lại một đoạn cho đạt yêu cầu. 3.8. Giải pháp 8:Rèn kĩ năng viết văn cho học sinh thông qua các môn học khác: Tất cả các môn học ở Tiểu học đều có nội dung rèn kĩ năng làm văn được tích hợp trong nó. Để khai thác tốt và giúp học sinh vận dụng chúng một cách có 18 hiệu quả, tôi luôn xem xét môn học đó hoặc bài học đó cần rèn cho học sinh kĩ năng nào. Từ đó giáo viên có định hướng tích hợp chúng vào bài dạy. Ví dụ: Đối môn toán: Qua các bài tập giải toán có lời văn, chúng ta rèn cho học sinh trí thông minh, tư duy nhanh nhẹn, khả năng tính toán. Cũng trong môn học này, khi hướng dẫn học sinh giải bài tập, tôi rèn cho học sinh kĩ năng đọc hiểu đề bài, phân tích đề bài, kĩ năng lập đề bài từ sơ đồ cho trước, kĩ năng viết các câu lời giải sao cho đủ ý nhưng vẫn đúng cấu trúc cần thiết của câu. Đối với các môn học như Lịch sử - Địa lí, Đạo đức…, qua tìm hiểu nội dung bài học, tôi cho học sinh đọc kĩ văn bản, hiểu rõ câu từ trong đó. Khi các em trình bài bài làm, tôi cũng thường xuyên yêu cầu cao về cấu trúc, bố cục, nội dung. Từ đó kĩ năng viết văn của các em cũng dần được hoàn thiện. Ví dụ như bài của em Phạm Thị Như Ý lớp 5A như sau: Ngoài các môn học trong chương trình, trong các buổi sinh hoạt tập thể, tôi cũng luôn chú trọng để rèn kĩ năng cho học sinh. Khi các em giao tiếp với thầy cô thì ngôn ngữ, giọng điệu phải ra sao, giao tiếp với bạn thì thế nào. Khi các em giao tiếp có biểu hiện lệch lạc, tôi kịp thời điều chỉnh, uốn nắn để học sinh của mình có thói quen nói đủ câu, nói có sắc thái biểu cảm. Qua đó tôi cũng rèn được phần nào kĩ năng viết văn cho học sinh. * Kết luận: Tích hợp rèn kĩ năng làm văn cho học sinh trong các môn học ở trường Tiểu học là vấn đề cốt yếu. Để rèn cho học sinh có hiệu quả, tôi luôn coi trọng vấn đề lập kế hoạch bài học. Kế hoạch nhất thiết phải có nội dung tích hợp nếu như bài đó có thể thể lồng ghép được. Qua nhiều lần thực hiện, tôi đã hình thành cho học sinh thói quen rèn kĩ năng sản sinh văn bản sau mỗi tiết học. Từ đó giúp học sinh có đủ điều kiện về ngôn ngữ để tham gia tốt việc học tập nói chung và học văn nói riêng. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan