LỜI MỞ ĐẦU
Xuất nhập khẩu hàng hoá là lĩnh vực kinh doanh buôn bán hàng hoá và
dịch vụ với nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế - xã hội
cao nhất. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm vị trí quan
trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế, xu hướng quan hệ hợp tác kinh tế giữa các
nước ngày càng phát triển. Đại bộ phận các doanh nghiệp, công ty hiện nay
trực tiếp hoặc gián tiếp đều có liên quan đến giao dịch thương mại quốc tế.
Chính vì vậy, các quan hệ giao dịch thương mại giữa Việt nam và các nước
Mỹ, Nhật, Tây Âu ... ngày càng tăng cường; và các chính sách của chính phủ
các nước này sẽ có tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nước. Một số doanh nghiệp, Ngân hàng, các công ty bảo hiểm ,
công ty cổ phần mặc dù không liên quan trực tiếp đến buôn bán quốc tế,
song vẫn có những mối quan hệ nhất định về kinh doanh xuất nhập khẩu.
Việc chuyển sang nền kinh tế mở vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với đó là
sự phát triển của hàng loạt các loại hình doanh nghiệp mới: doanh nghiệp
tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.. và kéo theo sự sôi
động của một thị trường tràn ngập hàng hoá. Vì vậy,khó khăn của các
doanh nghiệp Nhà nước là điều không tránh khỏi. Để tồn tại và phát triển
trong nền kinh tế thị trường mang đầy tính cạnh tranh thì không có con
đường nào khác là phải nâng cao khả năng cạnh tranh qua việc nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này càng mang
tầm quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu.
Thông qua xuất nhập khẩu chúng ta có điều kiện nắm bắt và tiếp
cận những thành tựu khoa học kỹ thuật trên thế giới, thúc đẩy sản xuất
trong nước ngày càng phát triển, kích thích và mở rộng nhu cầu trong
nước, đưa cuộc sống con người ngày càng văn minh hiện đại, khai thác
triệt để tiềm năng và thế mạnh của đất nước và thế giới trên cơ sở phân
công lao động quốc tế và chuyên môn hoá quốc tế.
1
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận lớn, là
phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu
ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn
luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu khuyến
khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn
việc làm và tăng thu ngoại tệ.
Xuất phát từ thực tế sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hoá, đồng thời trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả của công tác xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung, cùng
với lượng kiến thức của mình em chọn đề tài: "Một số biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty
Cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA)" làm chuyên đề
của mình.
Bố cục của chuyên đề gồm các phần:
Lời nói đầu.
Chương I : Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất nhập khẩu hàng
hoá trong
nền kinh tế thị trường
Chương II : Phân tích và đánh giá tình hình hình hoạt động kinh
doanh
xuất nhập khẩu ở Công ty SONA
Chương III : Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
xuất nhập
khẩu hàng hoá của Công ty Cung ứng nhân lực Quốc
tế và
Thương mại (SONA)
Kết luận.
Qua đây tôi xin chân thành biết ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo
hướng dẫn Nguyễn Văn Tuấn. Đồng thời cũng xin được gửi lời biết ơn sâu
sắc tới các cán bộ Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và các Phòng khác
2
của Công ty SONA đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập và
nghiên cứu, hoàn thành chuyên đề này.
Tuy nhiên, do thời gian có hạn và lượng kiến thức còn hạn hẹp nên tôi
không tránh khỏi những sai sót trong khi làm chuyên đề, rất mong nhận
được sự cảm thông và đóng góp ý kiến của các thầy cô, bạn bè và đồng
nghiệp đối với chuyên đề này.
3
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I- TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP
KHẨU
1. Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế (TMQT):
Xuất nhập khẩu hàng hoá là lĩnh vực kinh doanh buôn bán hàng hoá
và dịch vụ với nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Buôn bán hàng hoá và dịch vụ là một hình thức của các
mối quan hệ kinh tế - xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
những người sản xuất kinh doanh hàng hoá nói riêng của các quốc gia nói
chung. Xuất nhập khẩu tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân
công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Xuất
nhập khẩu hàng hoá là một trong những yếu tố cơ bản của tăng trưởng
kinh tế và do đó nó góp phần quyết định sự thắng bại của một đường lối
công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển cũng như của Việt Nam.
Xuất nhập khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và
là hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Sự ra đời và phát triển
của TMQT gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Với sự tiến
bộ khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày một tăng. Số sản
phẩm cùng dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con người ngày một dồi dào.
Điều đó phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng.
TMQT cũng vì thế mà ngày càng phát triển mở rộng và phức tạp.
Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì mỗi nước muốn đạt
được sự thịnh vượng phải gia tăng khối lượng tiền tệ. Muốn có của cải,
các nước phải phát triển buôn bán với nước ngoài. Lý thuyết trọng thương
chỉ ra rằng lợi nhuận buôn bán là kết quả của sự thay đổi không ngang giá
và lừa gạt giữa các quốc gia, TMQT chỉ có lợi cho một bên và gây ra thiệt
hại cho bên kia. Đến giai đoạn cuối họ cho rằng có thể tăng cường nhập
khẩu nếu qua đó đẩy mạnh được xuất khẩu, cán cân thương mại vẫn
nghiêng về phía xuất khẩu.
4
Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia là cơ
sở xuất hiện TMQT. Chính sự khác nhau đó mà mỗi nước có lợi thế riêng
là chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện
sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá
cần thiết khác mà trong nước chưa có điều kiện để sản xuất hay sản xuất
với chi phí lớn không hiệu quả. Điều quan trọng ở đây là mỗi quốc gia
phải tự xác định cho được những mặt hàng nào mà nước mình có lợi nhất
trên thị trường cạnh tranh quốc tế. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất
cũng giải thích được lý do buôn bán giữa các nước về những mặt hàng
như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch,... Do đó đã nhiều câu hỏi được
đặt ra là: Tại sao Mỹ lại nhập cà phê và xuất khẩu lương thực? Tại sao
Nhật Bản lại xuất khẩu hàng công nghiệp và chi nhập khẩu nguyên liệu
thô? Tại sao một nền kinh tế kém phát triển như Việt Nam lại có thể hy
vọng đẩy mạnh xuất khẩu?... Lý thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học
David Ricardo (1817) đã phần nào giải thích một cách căn bản và có hệ
thống những câu hỏi này.
Quy luật lợi thế tương đối nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản
xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này
khẳng định nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó
có lợi thế tương đối (hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương
mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Thậm chí nếu một quốc gia có hiệu quả thấp
hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì
quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào TMQT để tạo ra lợi ích cho mình.
Khi tham gia vào TMQT, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả
các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất, xuất khẩu các loại hàng
hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu các hàng hoá mà
việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất.
Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng TMQT vẫn diễn ra do sự chênh
lệch giữa các nước về chi phí cơ hội của hàng hoá tạo ra trong điều kiện
sản xuất khá giống nhau. Chẳng hạn như, một nền kinh tế khép kín có các
nguồn lực nhất định có thể làm ra máy video và áo sơ mi. Càng dùng
nhiều nguồn lực vào việc làm ra máy video, thì càng ít nguồn lực có thể
dùng làm áo sơ mi. Chi phí cơ hội của máy video là lượng áo sơ mi bị hy
5
sinh do dùng các nguồn lực vào việc làm ra các máy video thay cho các áo
sơ mi. Cũng như sự trao đổi buôn bán ô tô là khá phát triển giữa Mỹ và
Nhật Bản; điều tương tự cũng xảy ra đối với các mặt hàng điện tử giữa các
nước Tây Âu. Rõ ràng là, không có thế lực nào bắt buộc hai nước phải
buôn bán với nhau nếu một nước không có lợi. Các quốc gia hoàn toàn tự
do trong việc lựa chọn mặt hàng cũng như đối tác buôn bán có khả năng
đem lại lợi ích cao cho họ. Do vậy, sự chênh lệch giữa các nước về chi phí
tương đối trong sản xuất quyết định phương thức TMQT.
Vậy TMQT bắt nguồn từ đâu:
Một là, TMQT xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản
xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi
thế và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn
nhất thì chắc chắn đem lại lợi nhuận lớn hơn. Nguồn lực tự nhiên gồm: đất
đai, thời tiết, khí hậu, vị trí địa lý. Nguồn tài nguyên ảnh hưởng tới TMQT
là rất rõ, nó giải thích tại sao một nước kinh doanh xuất khẩu nông sản,
lương thực, dầu lửa, dịch vụ du lịch,...
Nguồn nhân lực là lực lượng con người trong một quốc gia. Đây là
lực lượng trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nên nó ảnh hưởng rất lớn đến
điều kiện sản xuất, đặc biệt là lao động có kỹ năng cao. Lực lượng lao
động của một nước càng có kỹ năng cao thì nước đó càng có nhiều khả
năng để trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm chế tạo, đặc biệt là các sản
phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao giá cả phải chăng trên thị trường thế giới.
Những thập kỷ qua đã nói lên điều này, nhờ dựa vào lực lượng lao động
dồi dào, giá nhân công rẻ mạt mà các nước Đông Nam á đã thành công
chiến lược hướng vào xuất khẩu các sản phẩm có sử dụng nhiều lao động.
Hạ tầng cơ sở của một nước như: giao thông vận tải với truyền thông, hệ
thống cung cấp điện năng và các phương tiện công cộng đóng một vai trò
quan trọng về việc có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển thương mại
của một nước đó đối với thế giới. Ví dụ như đường sá, bến cảng không
thích hợp có thể làm tăng chi phí lưu thông hàng hoá, không có điều kiện
để phát triển các hoạt động dịch vụ. Ngược lại, cơ sở hạ tầng tốt là một
nguồn lực phục vụ cho xuất khẩu, như hệ thống truyền thông tin phát triển
6
giúp cho các bên liên lạc trao đổi dễ dàng, nhanh, xúc tiến quá trình
thương mại giữa các nước.
Hai là, hiệu quả kinh tế theo qui mô, nghĩa là hầu hết các hàng hoá
được sản xuất ra đắt hơn khi sản xuất với khối lượng nhỏ, và trở nên rẻ
hơn khi qui mô sản xuất tăng lên. Do vậy mà một nền sản xuất có qui mô
lớn người ta có thể tiết kiệm trong việc sử dụng máy móc thiết bị và
nguyên liệu. Hơn nữa, do sự phân công công việc ra giữa nhiều người
khác nhau, mỗi người có thể trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực của
quá trình sản xuất thông qua kinh nghiệm và đào tạo chuyên môn. Hiệu
quả kinh tế theo qui mô có ý nghĩa quan trọng cho lĩnh vực TMQT của
các nước nhỏ, và bị giới hạn nhiều hơn so với các nước lớn. Điều này cho
thấy tại sao các nước nhỏ thường mở rộng thương mại hơn so với các
nước lớn (khi đo lường, chẳng hạn bằng tỷ lệ xuất khẩu/GDP). Đối với các
nước nhỏ việc cố gắng để sản xuất ra mọi hàng hoá trong nước chắc chắn
là phi hiệu quả. Hiệu quả kinh tế theo quy mô là lý do quan trọng giải
thích TMQT về những hàng hoá nhất định nào đó.
Ba là, sự khác nhau về thị hiếu, sở thích, phong tục tập quán, sự độc
quyền về bản quyền, bằng phát minh sáng chế, tri thức chuyên môn của
một số người. Thị hiếu rất khác nhau cả giữa các nước và mọi người. Điều
này nói lên việc buôn bán các sản phẩm rất khác nhau giữa các nước
tương tự. Một tác động khác là sự tồn tại những bằng phát minh sáng chế,
quyền sở hữu công nghiệp. Công ty có quyền sở hữu về một phát minh
sáng chế có thể từ chối cấp giấy phép sản xuất hoặc gia công chế biến đối
với các công ty ở nước khác hoặc chỉ cho phép với điều kiện là các sản
phẩm ấy không được xuất khẩu. Điều này tạo cho nước sở hữu phát minh
có một sự độc quyền thực sự về loại sản phẩm này. Trên thị trường thế
giới.
Cuối cùng là, do nhu cầu kinh tế hay sở thích làm giầu mà bất cứ một
quốc gia nào trên thế giới cũng muốn. Muốn đất nước giàu có thì TMQT
phải phát triển.
Những lợi ích mà TMQT đem lại đã làm cho thương mại và thị
trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nhân tố
kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, là
7
một phương tiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. TMQT vừa là cầu nối
kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên thế giới, vừa là nguồn hậu
cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh hơn, thịnh vượng
hơn.
Trong thế giới hiện đại không một quốc gia nào bằng chính sách
"đóng cửa với nước ngoài lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong
nước". Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào
nguồn lực của mình mà phải tận dụng có hiệu quả tất cả những thành tựu
kinh tế, khoa học kỹ thuật của loài người đã đạt được. Nền kinh tế "mở
cửa" sẽ mở ra những tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng sự
phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất.
Nhận thức được vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước
đi đúng đắn trong đường lối đối ngoại của mình. Với chính sách đa dạng
hoá và đa phương hoá các quan hệ quốc tế, mở cửa và hướng mạnh ra xuất
khẩu đã làm cho nền kinh tế nước ta sống dậy, hoạt động ngoại thương
trong 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng kể, như hoạt
động xuất khẩu hàng hoá ở nước ta không ngừng gia tăng, từ năm 1986
đến năm 1996 trung bình hàng năm tăng 25-27% đóng góp một phần
không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy, tại Đại
hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: "Tiếp tục thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá và đa dạng hoá các
quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước các tổ chức
quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương
lượng.
2. Khái niệm và các loại hình kinh doanh xuất nhập khẩu chủ
yếu.
2.1. Khái niệm
8
Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các
nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối
quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những
người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự mở rộng của các quan hệ mua
bán trong nước và ngoài nước. Trước đây, khi chưa có quan hệ trao đổi
hàng hoá, cá nhân mỗi con người cũng như mỗi quốc gia đều tự thoả mãn
lấy các nhu cầu của mình, lúc đó mọi nhu cầu của con người cũng như của
quốc gia bị hạn chế. Quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá xuất hiện khi có
sự ra đời cuả quá trình phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá, sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
và tác động của những quy luật kinh tế khách quan, phạm vi chuyên môn
hóa và phân công lao động xã hội ngày càng rộng, nó vượt ra khỏi một
nước và hình thành nên các mối quan hệ giao dịch quốc tế. Chuyên môn
hoá và phân công lao động quốc tế càng sâu sắc, các mối quan hệ quốc tế
càng được mở rộng, các nước càng có sự phụ thuộc lẫn nhau và hình
thành các mối quan hệ buôn bán với nhau.
Tóm lại kinh doanh xuất nhập khẩu là quá trình buôn bán giữa các
nước với nhau, là lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hoá với nước ngoài .
2.2. Các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu chủ yếu
a/ Các hình thức nhập khẩu
- Nhập khẩu uỷ thác
- Nhập khẩu trực tiếp
- Nhập khẩu hàng đổi hàng
- Tái nhập khẩu
- Tạm nhập, tái xuất
b/ Các hình thức xuất khẩu
- Xuất khẩu hàng hoá dưới các hình thức trao đổi hàng hoá, hợp
tác sản xuất và gia công quốc tế.
9
- Xuất khẩu trực tiếp.
-
Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, vật tư phụ tùng cho sản
xuất.
- Chuyển khẩu- tạm nhập tái xuất.
- Tái xuất khẩu.
- Các dịch vụ xuất khẩu như làm đại lý, uỷ thác cho các tổ chức
nước ngoài.
Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở
nước ngoài.
3. Nội dung công tác kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá ở các
doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu .
3.1 Nội dung hoạt động xuất nhập khẩu .
Thông thường nội dung hoạt động bao gồm các nội dung sau:
3.1.1. Nghiên cứu thị trường
Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên với
bất cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị
trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho
một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm. Quá trình nghiên cứu thị
trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh phân
tích những số liệu đó và rút ra kết luận để lập kế hoạch marketing. Khi
nghiên cứu thị trường phải tìm hiểu nước nào là thị trường có triển vọng
nhất đối với sản phẩm của công ty? Khả năng số lượng bán ra được bao
nhiêu? Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước những đòi hỏi của thị
trường? Nên chọn phương pháp bán hàng nào cho phù hợp.
a/ Nghiên cứu thị trường trong nước
Trước hết doanh nghiệp phải nắm chắc tình hình trong nước về
các mặt có liên quan đến việc xuất nhập khẩu
10
- Nhận biết hàng hoá xuất nhập khẩu
- Doanh nghiệp nắm chắc các chính sách, chế độ tập quán của nước
liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá.
b/ Nghiên cứu thị trường nước ngoài
Nghiên cứu thị trường nước ngoài theo các khía cạnh chủ yếu:
đặc tính hàng hoá, thị hiếu của khách hàng, chính sách tập quán thương
mại, tình hình tài chính, tín dụng, điều kiện chuyên chở và bốc xếp, nắm
chắc các điều kiện về phẩm chất và chủng loại hàng, đặc tính thị trường
như dung lượng thị trường, giá thị trường.
c/ Lựa chọn đối tượng giao dịch.
Trên cùng một thị trường, cùng một loại hàng có rất nhiều nhà
kinh doanh khác nhau, vì vậy khi lựa chọn cần tìm hiểu về: thái độ chính
trị của đối tượng giao dịch, khả năng kinh tế , loại hình doanh nghiệp,
phạm vi kinh doanh, vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác , uy tín của
đối tác trên thị trường đó. Lựa chọn đối tượng giao dịch nên dùng các
phương pháp như qua sách báo, tài liệu, qua tư vấn của nhà nước , qua
điều tra trực tiếp hoặc buôn bán thử để tìm hiểu dần.
3.1.2. Các bước giao dịch
Sau giai đoạn nghiên cứu tiếp cận thị trường là giai đoạn giao dịch,
thương lượng với nhau về các điều kiện để đi đến ký kết hợp đồng. Lập kế
hoạch cụ thể để tiến hành hoạt động giao dịch gồm nhiều chi tiết trong đó
có các vấn đề sau:
- Hỏi giá: Người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và
các điều kiện để mua hàng. Nội dung của mục hỏi giá gồm: Tên hàng, quy
cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng.
- Chào hàng: Trong chào hàng nêu rõ: Tên hàng, quy cách phẩm
chất, số lượng, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn giao hàng, điều
kiện thanh toán, bao bì, ký mã hiệu, thể thức giao nhận hàng... trường hợp
hai bên đã có quan hệ mua bán với nhau hoặc có điều kiện chung giao
hàng điều chỉnh thì chào hàng có khi nêu những nội dung cần thiết cho lần
11
giao dịch đó như tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, giá, thời hạn
giao hàng. Những điều kiện còn lại sẽ áp dụng như những hợp đồng đã ký
trước đó hoặc theo điều kiện chung giao hàng giữa hai bên.
- Đặt hàng: Trong đặt hàng, người mua nêu cụ thể về hàng hoá định
mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng.
- Hoàn giá: Khi người nhận được chào hàng (hoặc đặt hàng) không
chấp nhận hoàn toàn chào hàng ( đặt hàng), mà đưa ra một đề nghị mới thì
đề nghị mới này là hoàn giá. Khi có hoàn giá, chào hàng trước coi như huỷ
bỏ. Trong buôn bán quốc tế, mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần
hoàn giá mới đi đến kết thúc.
- Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào
hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng được thành
lập.
- Xác nhận: Hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận
với nhau về điều kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã thoả
thuận, gửi đối phương. Đó là văn kiện xác nhận. Văn kiện do bên bán gửi
thường gọi là giấy xác nhận bán hàng, do bên mua gửi là giấy xác nhận
mua hàng.
3.1.3. Giao dịch, đàm phán trước khi ký kết hợp đồng.
- Đàm phán giao dịch qua thư tín.
- Đàm phán giao dịch qua điện thoại.
- Giao dịch đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp.
3.1.4. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp
đồng mua bán ngoại thương. Hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc
đối với các đơn vị xuất nhập
khẩu của nước ta trong quan hệ với nước ngoài
3.1.5. Tổ chức thực hiện hợp đồngxuất nhập khẩu
12
Sau khi đã ký kết hợp đồng, các bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng
theo đúng những điều khoản đã ký trong hợp đồng.
13
3.2. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá.
* Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá bao gồm các bước
sau:
Ký hợp đồng xuất khẩu
Kiểm tra L/C
Xin giấy phép xuất khẩu
Chuẩn bị hàng xuất
khẩu
Uỷ thác thuê tàu
Kiểm nghiệm hàng hoá
Làm thủ tục hải quan
Giao hàng lên tàu
Mua bảo hiểm
Làm thủ tục thanh toán
Giải quyết khiếu nại
14
* Trình tự nhập khẩu hàng hoá bao gồm các bước sau:
Ký kết kinh doanh nhập
khẩu
Xin giấy phép nhập khẩu
Mở L/C khi bên bán báo
Đôn đốc bên bán giao
hàng
Thuê tàu
Mua bảo hiểm hàng hoá
Làm thủ tục hải quan
Nhận hàng
Kiểm tra hàng hoá
Giao hàng cho đơn vị đặt
hàng
Làm thủ tục thanh toán
Khiếu nại về hàng hoá (nếu
có)
4. Vai trò của xuất nhập khẩu .
Xuất nhập khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực
phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng
15
nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước
khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có
sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước.
Chính vì vậy, xuất nhập khẩu có vai trò to lớn trong sự phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội một nước phát triển
như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này.
Thông qua xuất nhập khẩu có thể làm tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán
cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách nhà nước, kích thích đổi mới công
nghệ, tiếp cận được phương thức quản lý và kinh doanh mới, cải biến cơ
cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, tạo sự cạnh tranh của hàng hoá nội
và ngoại, nâng cao mức sống của người dân.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như
nước ta, những nhân tố tiềm năng : tài nguyên thiên nhiên, lao động.
Những yếu tố thiếu hụt : vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý.
Chiến lược xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với nước ta, đặc biệt
trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá hiện nay. Về thực chất chiến
lược này là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật
của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và
tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế góp
phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu.
Với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách
kinh tế đối ngoại nói chung và thương mại nói riêng phải được coi là một
chính sách cơ cấu có tầm quan trọng chiến lược nhằm phục vụ quá trình
phát triển của nền kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh
thủ được tới mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của
nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, giải quyết việc
làm cho người lao động.
II- NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT
NHẬP KHẨU
A. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài.
1. Nhân tố kinh tế - xã hội trong nước.
16
Nhân tố kinh tế - xã hội trong nước có ảnh hưởng đến hoạt động
xuất nhập khẩu ở đây bao gồm trạng thái của nền kinh tế trong nước và
các chính sách của nhà nước.
1.1 Trạng thái của nền kinh tế trong nước.
a/ Dung lượng sản xuất
Dung lượng sản xuất thể hiện số lượng đầu mối tham gia vào sản
xuất hàng hoá xuất nhập khẩu và với số lượng sản xuất lớn thì nó sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu trong công tác tạo nguồn
hàng, song cũng trong thuận lợi đó, doanh nghiệp có thể phải đương đầu
với tính cạnh tranh cao hơn trong việc tìm bạn hàng xuất khẩu và nguy cơ
phá giá hàng hoá bán ra thị trường thế giới.
b/ Tình hình nhân lực.
Một nước có nguồn nhân lực dồi dào là điều kiện thuận lợi để các
doanh nghiệp trong nước xúc tiến xuất nhập khẩu các mặt hàng có sử
dụng sức lao động. Về mặt ngắn hạn, nguồn nhân lực được xem như là
không biến đổi, vì vậy chúng ít tác động tới sự biến động của hoạt động
xuất nhập khẩu. Nước ta nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ là điều
kiện thuận lợi để xuất khẩu các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như
hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc ... và nhập khẩu thiết bị, máy móc kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến...
c/ Nhân tố công nghệ.
Ngày nay, khoa học công nghệ tác động đến tất cả các lĩnh vực
kinh tế xã hội và mang lại nhiều lợi ích, trong xuất nhập khẩu nó cũng
mang lại hiệu quả cao. Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn
thông, các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm thoại trực tiếp với
khách hàng qua telex, fax, điện tín... giảm bớt những chi phí đi lại, xúc
tiến hoạt động xuất nhập khẩu. Giúp các nhà kinh doanh nắm bắt các
thông tin về diễn biến thị trường một cách chính xác, kịp thời. Bên cạnh
đó, nhờ có xuất nhập khẩu mà các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp xúc
với các thành tựu công nghệ tiên tiến trên thế giới, thay thế, đổi mới công
nghệ trong doanh nghiệp sản xuất. Khoa học công nghệ còn tác động tới
17
các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, các kỹ nghệ nghiệp vụ trong ngân
hàng... Đó cũng chính là các yếu tố tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu.
d. Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng tốt là một yếu tố không thể thiếu nhằm góp
phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Cơ sở hạ tầng bao gồm: đường
xá, bến bãi, hệ thống vận tải, hệ thống thông tin, hệ thống ngân hàng... có
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu các hoạt động này
là hiện đại sẽ thúc đẩy hiệu quả xuất nhập khẩu, ngược lại nó sẽ kìm hãm
tiến trình xuất nhập khẩu.
1.2 Các chính sách và quy định của Nhà nước.
Thông qua việc đề ra các chính sách và quy định, Nhà nước thiết
lập môi trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các doanh
nghiệp nên nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu. Chúng
ta có thể xem xét tác động của các chính sách đó dưới các khía cạnh sau.
a/ Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh tỷ lệ giữa giá trị của hai đồng tiền
của hai nước với nhau.
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng
thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Một tỷ giá
hối đoái chính thức được điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan
gọi là tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan
hay là tỷ giá hối đoái thực tế. Trong quan hệ buôn bán ngoại thương, tỷ
giá hối đoái có vai trò quan trọng, tác động lớn tới hiệu quả hoạt động xuất
nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm sẽ làm thay đổi giá trị hàng hoá
xuất nhập khẩu, ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu. Có thể đưa ra ví dụ trong xuất khẩu như: Nếu tỷ
giá hối đoái chính thức là không đổi và tỷ giá hối đoái thực tế tăng lên thì
các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế, là người bán theo mức giá cả quốc
tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao
hơn do lạm phát trong nước. Hàng xuất khẩu trở nên kém sinh lợi do
ngoại tệ thu được phải bán với tỷ giá hối đoái chính thức cố định không
18
được tăng lên để bù lại chi phí sản xuất cao hơn. Các nhà xuât khẩu các
sản phẩm chế tạo có thể làm tăng giá cả xuất khẩu của họ để bù đắp lại chi
phí nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ
giảm. Họ chỉ có thể giữ nguyên mức giá tính theo ngoại hối và lợi nhuận
thấp. Nếu tình trạng ngược lại là tỷ giá hối đoái thực tế giảm so với tỷ giá
hối đoái chính thức, khi đó sẽ có lợi cho các nhà xuất khẩu nhưng lại bất
lợi cho các nhà nhập khẩu.
b/ Thuế quan và quota.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chịu
ảnh hưởng trực tiếp của thuế xuất nhập khẩu và quota.
Thuế xuất khẩu có xu thế làm giảm xuất khẩu và do đó làm giảm
nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Tuy nhiên, đối với nước ta hiện nay, thực
hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu nên hầu hết các mặt hàng xuất
khẩu, đặc biệt các mặt hàng nông sản, không phải chịu thuế xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu có xu thế làm giảm nhập khẩu và do đó làm tăng
nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Hiện nay ở nước ta, rất nhiều mặt hàng
phải chịu thuế nhập khẩu để hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ các ngành
sản xuất các mặt hàng đồng nhất ở trong nước. Nhưng bắt đầu giai đoạn
này, thực hiện chủ trương hội nhập với thế giới, tham gia vào AFTA,nước
ta đang tiến dần tới việc xoá bỏ dần một số hình thức bảo hộ bằng thuế
nhập khẩu.
Còn quota là hình thức hạn chế về số lượng xuất nhập khẩu, có
tác động một mặt làm giảm số đầu mối tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp,
mặt khác tạo cơ hội thuận lợi cho những người xin được quota xuất nhập
khẩu.
c/ Các chính sách khác của Nhà nước.
Các chính sách khác của Nhà nước như xây dựng các mặt hàng
chủ lực, trực tiếp gia công xuất khẩu, đầu tư cho xuất nhập khẩu, lập các
khu chế xuất, các chính sách tín dụng xuất nhập khẩu ... cũng góp phần to
lớn tác động tới tình hình xuất nhập khẩu của một quốc gia. Tuỳ theo mức
độ can thiệp, tính chất và phương pháp sử dụng các chính sách trên mà
19
hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của nó tới lĩnh vực xuất nhập khẩu sẽ như
thế nào. Bên cạnh các chính sách trên, nhóm các chính sách hỗ trợ mang
tính thể chế - tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống hành chính cũng là
một trong các nhân tố tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu của
các doanh nghiệp.
Những thay đổi cơ bản trong quản lý quá trình xuất nhập khẩu của
Nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu. Đặc biệt là từ
khi ra đời Nghị định 57/1998NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ và
các văn bản hướng dẫn thi hành thì quyền tự do kinh doanh của thương
nhân được mở rộng tạo ra một bước tiến mới, họ được quyền kinh doanh
tất cả những gì mà pháp luật cho phép, tạo ra một môi trường kinh doanh
lành mạnh cho các doanh nghiệp. Thủ tục xin phép đăng ký kinh doanh
xuất nhập khẩu trực tiếp với những điều kiện ràng buộc về vốn, tiêu
chuẩn, nghiệp vụ... đối với doanh nghiệp đã được dỡ bỏ. Từ khi thi hành
nghị định này ( 1/9/1998 ) nước ta đã có hơn 30.000 doanh nghiệp được
quyền tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, sự tăng lên về con số này khó
tránh khỏi tình trạng tranh mua, tranh bán, giá cả cạnh tranh, ép giá, dìm
giá , làm cho nhiều doanh nghiệp bước đầu chưa tìm được lối thoát nên
hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu còn thấp.
Những thay đổi về thủ tục thông quan xuất nhập khẩu hàng hóa
tại các cửa khẩu, việc áp dụng các luật thuế mới đối với hàng hóa xuất
nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến quá trình xuất nhập khẩu. Nhà nước luôn
luôn tạo điều kiện để xúc tiến nhanh quá trình xuất nhập khẩu nhưng việc
áp dụng các văn bản đã được ban hành xem ra vẫn còn tồn tại một khoảng
cách khá xa giữa văn bản và thực tế, giữa nói và làm, nhiều khi vẫn còn
xảy ra " cuộc chiến " giữa " luật và lệ ".
2. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nhân tố quan
trọng làm cơ sở cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất nhập
khẩu. Nó góp phần ảnh hưởng đến loại hàng, quy mô hàng xuất nhập khẩu
của quốc gia.
20
- Xem thêm -