Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp nhằm giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp...

Tài liệu Một số biện pháp nhằm giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp

.PDF
21
63
69

Mô tả:

MỤC LỤC Nội dung Trang Mục lục 1. Mở đầu 1 2 1.1. Lí do chọn đề tài. 2 1.2. Mục đích nghiên cứu 3 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 3 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 4 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 4 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 4 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 6 3 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 3. Kết luận, kiến nghị 18 20 1 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Các môn học nói chung và môn Toán nói riêng trong chương trình Giáo dục Tiểu học có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành trí tuệ và nhân cách con người lao động. Bậc học tiểu học được chia thành 5 khối lớp, các kiến thức Toán học được làm quen và nâng cao dần về độ khó về kiến thức cũng như kĩ năng. Có thể nói, chương trình Toán ở Tiểu học được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 ở các khối lớp 1,2,3 và giai đoạn 2 ở khối lớp 4,5. Trong đó, giai đoạn 1 có thể coi là giai đoạn học tập cơ bản, còn giai đoạn 2 là giai đoạn học tập sâu ( so với giai đoạn trước). Nếu như ở các lớp 1,2,3, học sinh chủ yếu nhận biết các khái niệm ban đầu, đơn giản qua các ví dụ cụ thể với sự hỗ trợ của các vật thật hoặc mô hình, tranh ảnh,...chủ yếu nhận biết cái riêng lẻ, cái toàn thể ...Nhưng đến giai đoạn 2, ở lớp 4,5, các em được học tập các kiến thức và kĩ năng khái quát hơn, tường minh hơn. Tính trừu tượng, khái quát của nội dung môn Toán ở các lớp 4,5 được nâng lên một bậc. Đối với chương trình môn Toán lớp 4, có thể nói học sinh bước vào một giai đoạn học tập mới. Chương trình có kế thừa và phát huy các kết quả về kiến thức và kĩ năng môn Toán ở giai đoạn 1, đồng thời cũng khái quát hóa kiến thức và học những kiến thức mới, những dạng Toán mới. Trong nhiều năm trực tiếp làm GV dạy lớp 4, tôi nhận ra rằng, chất lượng môn Toán của học sinh lớp 4 bao giờ cũng thấp hơn các khối lớp khác. Cũng đối tượng học sinh đó, ở lớp 2,3, tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt môn Toán cao, hầu như không có hs chưa hoàn thành môn học. Nhưng đến khi lên lớp 4, đặc biệt là kết quả cuổi học kì I thì tỉ lệ hs hoàn thành tốt thấp hơn hẳn và tỉ lệ học sinh yếu (nay gọi là học sinh Chưa hoàn thành môn học) tăng lên. Năm học 2016-2017, năm học tiếp tục thực hiện thông tư 30 (và thông tư 22 từ ngày 15/11), đã phần nào giúp học sinh tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ. Đối với giáo viên, việc điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, ...kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ học sinh, có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, tôi đã tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân của thực trạng và tìm những giải pháp cụ thể để gớp phần nâng cao chất lượng môn Toán lớp 4, đồng thời giảm tối 2 thiểu học sinh chưa hoàn thành môn Toán ở khối lớp này. Tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp nhằm giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4” 1.2. Mục đích nghiên cứu: Khi chọn và nghiên cứu đề tài này, tôi muốn tìm ra những giải pháp, con đường đi, những cách dạy sao cho học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng môn Toán lớp 4 nắm vững các mạch kiến thức, có kĩ năng tính toán, giải được các dạng toán cụ thể trong chương trình Toán 4, vận dụng linh hoạt trong quá trình học Toán của mình. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện, bản thân tôi thấy nghiệp vụ chuyên môn được nâng cao, được tham gia nghiên cứu khoa học, được trao đổi với các bạn đồng nghiệp để học tập những kinh nghiệm quý. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Để thực hiện được đề tài đã chọn, Trước hết, tôi đã nghiên cứu chương trình Toán chương trình Toán 4 và các kiến thức các em đã được học ở lớp dưới để xem các em đã có những kiến thức và kĩ năng nào, các dạng toán các em đã được học đến đâu. Nghiên cứu thực trạng việc dạy, học và kết quả học tập môn Toán lớp 4, thực nghiệm trong giảng dạy và rút ra các giải pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện, tôi đã áp dụng nhiều phương pháp như: Phương pháp thực nghiệm sư phạm, phương pháp kiểm tra, phương pháp tổng hợp, phương pháp nghiên cứu tài liệu,...... 3 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 2.1. Cơ sở lí luận: Trong chương trình Toán 4, học sinh đã hoàn thiện về Số tự nhiên và các phép tính với số tự nhiên, các yếu tố hình học và các dạng toán có lời văn rất gần với đời sống hàng ngày ... Với hầu hết học sinh lớp 4 mà tôi đã giảng dạy trong những năm vừa qua, các em đã làm tương đối tốt. Bên cạnh đó vẫn còn học sinh chưa bắt kịp với chương trình, với các kiến thức và kĩ năng cần đạt được trong môn Toán lớp 4, nhất là những bài toán, dạng toán mang tính khái quát hơn, đòi hỏi tư duy cao hơn các lớp dưới mà các em đã học. Để khắc phục tình trạng đó, người giáo viên cần điều chỉnh phương pháp, có những giải pháp riêng biệt đ ể không còn tình trạng học sinh chưa hoàn thành môn Toán 4 2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. a, Thực trạng: Ngôi trường tôi công tác đóng trên địa bàn Thị trấn, tuy vậy, học sinh của trường có đến 50% là học sinh các xã lân cận đến học, với nhiều học sinh là con em đồng bào dân tộc. Qua quá trình quản lí và theo dõi chất lượng đại trà của toàn trường, tôi nhận thấy rằng, cũng lứa, đối tượng học sinh đó nhưng chất lượng môn Toán lớp giảm nhiều so với khi các em học lớp 2, lớp 3. Năm học 2014- 2015, tôi đã tổng hợp kết quả bài kiểm tra định kì lần 2 và lần 4 như sau: ( trên tổng số 30 em) Bài kiểm tra thứ nhất Điểm 9,10 10 Điểm 7,8 11 Điểm 5,6 6 Bài kiểm tra thứ hai Điểm dưới 5 Điểm 9,10 3 11 Điểm 7,8 11 Điểm 5,6 5 Điểm dưới 5 3 Kết quả trên, so với kết quả môn Toán của 30 em học sinh này hồi lớp 3, tôi nhận thấy rằng tỉ lệ học sinh khá giỏi giảm xuống còn học sinh trung bình và yếu lại tăng lên. Cùng với số liệu gần nhất, đồng thời xem xét lại hồ sơ và kết qủa học tập các năm học trước đó, tôi nhận thấy rằng, hầu hết chất lượng môn Toán lớp 4 đều bị giảm sút so với kết quả của cuối năm lớp 3 của chính các em. Tại sao lại như vây? Tôi đi tìm câu trả lời bằng cách bắt tay vào nghiên cứu, tìm hiều nguyên nhân dẫn đến kết quả như trên để tìm ra biện pháp dạy học phù hợp. b. Nguyên nhân của thực trạng . Nguyên nhân từ phía học sinh: 4 Qua quá trình tìm hiểu và từ thực tế dạy học của mình, tôi thấy những học sinh được xếp vào học lực yếu kém ( chưa hoàn thành) môn Toán 4 , phần lớn có nhiều lỗ hổng về kiến thức, kĩ năng. Có khá nhiều lí do dẫn đến học sinh có kết quả môn Toán hạn chế như: chưa nắm chắc kiến thức ở lớp dưới ( chưa thuộc bảng cửu chương, cộng trừ nhẩm còn chậm...); khả năng tiếp thu kiến thức, năng lực tư duy yếu ; khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, lười học tập , suy nghĩ; việc chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền; một số em lại học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức để thực hành tính, kĩ năng giải toán; một số em cũng chưa được sự quan tâm của gia đình, người thân, đi học thiếu sách vở, đồ dùng học tập do bố mẹ đi làm ăn xa hoặc hoàn cảnh gia đình đặc biệt. Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy rằng các đối tượng học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4 thường không thực hiện được kĩ năng tính, nhất là gặp rất nhiều khó khăn khi nhân ( chia ) với ( cho ) số có nhiều chữ số, hay lẫn dạng và chưa phân được cách giải các dạng toán có lời văn mới được dạy trong chương trình (Toán Trung bình cộng, Toán về Tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu , Tổng và tỉ số, Hiệu và Tỉ số), vệc nhận dạng các hình hình học hay kĩ năng chuyển đổi các đơn vị đo lường còn chậm... Nguyên nhân từ phía giáo viên: Đối với giáo viên dạy lớp 4: bản thân tôi, với trình độ đều trên chuẩn và đã đạt danh hiệu GVDG cấp huyện, tôi thấy mình đã cố gắng rất nhiều. Tuy nhiên, từ chính bản thân mình nói riêng và các đồng nghiệp dạy lớp 4 nói chung, tôi thấy còn một số hạn chế như sau: + Chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và độ khó của chương trình Toán 4 + Do khối lượng kiến thức Toán 4 khá nặng, với nhiều kiến thức, kĩ năng mới được đưa vào chương trình, đòi hỏi người giáo viên phải tích cực nghiên cứu phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, hiểu sách và truyền đạt lại cho tất cả học sinh nắm được kiến thức, đặc biệt là hình thành cho các em chia cho số có nhiều chữ số, hay giúp các em phân biệt được các dạng toán có lời văn và giải tốt các dạng toán đó. Tôi đã chưa thực sự đầu tư nghiên cứu và làm tốt công việc này trong những năm học trước. + Tôi thấy mình và đồng nghiệp chưa chú ý đúng mức đến đối tượng học sinh yếu, chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa sút để giúp đỡ các em. + Trong những năm qua, tôi đã có xây dựng các bài tập củng cố kiến thức để phụ đạo và giúp đỡ học sinh yếu, tuy nhiên hệ thống bài tập mà tôi xây dựng đang còn chung chung, chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, nhất là với đối tượng học sinh yếu kém. + Giáo viên chưa chú trọng giải pháp tâm lí cũng như sự động viên, khuyến khích, tuyên dương kịp thời những học sinh có kết quả môn Toán chưa tốt khi các em tiến bộ. 5 Nguyên nhân từ phía gia đình học sinh. Từ thực tiễn dạy học của mình, ngoài những học sinh còn chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng Toán lớp 4 do trí tuệ, còn đa số các em còn lại đều rơi vào những gia đình có hoàn cảnh rất khó khăn, không quan tâm đến việc học của con, hoặc những gia đình quan tâm thì bố mẹ lại không có phương pháp sư phạm, hoặc không nắm được cách giải Toán Tiểu học, hoặc không có kiến thức để giúp hoặc hỗ trợ chợ con cho việc học ở nhà. Chính vì vậy, các đối tượng học sinh này, có nâng bậc và tiến bộ được hay không, phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào cô giáo dạy trên lớp. Nguyên nhân từ phía nội dung chương trình. Chương trình môn Toán lớp 4, học sinh bắt đầu chuyển sang giai đoạn học tập sâu hơn so với các kiến thức và kĩ năng mà các em đã được học ở các khối lớp 1,2,3. Nhiều kiến thức mới được dạy và bổ sung ở các nội dung về số học, phép tính, đo lường, yếu tố thống kê, giải toán có lời văn.... Khi tìm hiểu và nghiên cứu tổng thể chương trình Toán 4, tôi thấy về mạch số học, chương trình đã bổ sung, hoàn thiện, tổng kết , khái quát hóa (dù còn đơn giản) về số tự nhiên và dãy số tự nhiên. Nhân, chia với ( cho) số có nhiều chữ số, hình thành các công thức, khái quát hóa các tính chất của phép tính. Các đơn vị đo lường mới, gắn với thực tế được đưa vào chương trình. Mạch kiến thức về giải toán có lời văn cơ bản của Tiểu học như Tìm hai số khi biết Tổng và hiệu hoặc Tổng và tỉ số hay Hiệu và tỉ số của hai số....được giảng dạy ở chương trình Toán 4. .... Mặc dù các kiến thức, kĩ năng Toán 4 được dạy từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng, nhưng với nhiều học sinh, nhất là những học sinh có tư duy và khả năng tiếp thu kém hơn là cả một vấn đề không đơn giản. Học sinh lớp 4 phải học một khối lượng kiến thức khó và rộng hơn nhiều so với những gì mà các em đã học ở lớp 3. Để tiếp thu, nắm được kiến thức, có những kĩ năng tính và giải toán mà yêu cầu chương trình đưa ra, đối tượng học sinh Trung bình, yếu kém khá vất vả. Đây chính là một nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới nhiều học sinh lớp 4 có kết quả môn Toán đi xuống. * Thấy rõ được thực trạng và nguyên nhân như vậy, tôi đã tìm các giải pháp, lập kế hoạch để nâng cao chất lượng đại trà nói chung, gúp đỡ học sinh yếu kém (chưa hoàn thành) môn Toán lớp 4 nói riêng. Tôi đã thực hiện các giải pháp của mình trong hai năm học 2015-2016, 2016 - 2107 và đạt được những kết quả khả quan. Sau đây tôi xin trình bày “ Một số biện pháp nhằm giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4” 2.3. Các giải pháp thực hiện. Để thực hiện có hiệu quả các giải pháp của mình, tôi đã thực hiện những giải pháp sau: 6 2.3.1. Phân loại đối tượng học sinh, chọn ra những học sinh yếu kém (chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng) môn Toán. (qua kết quả học tập và theo dõi những tuần đầu năm) . Việc đánh giá, phân loại được các đối tượng học sinh trong lớp, tìm hiểu và nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lí cũng như lực học, khả năng tiếp thu bài của mỗi học sinh đầu năm học là một nhiệm vụ chuyên môn quan trọng của mối giáo viêm chủ nhiệm... Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học, qua các bài học trên lớp, theo dõi tìm hiểu kết quả học tập của học sinh các lớp dưới, tôi đã phân loại và chọn ra những học sinh cần giúp đỡ, phụ đạo vì đầu năm lớp 4 mà chất lượng môn Toán chưa tốt thì rất khó khăn cho cả một giai đoạn học tập sau đó. 2.3.2. Nghiên cứu nội dung chương trình , xây dựng các dạng bài tập phù hợp với đối tượng học sinh yếu kém. Những năm học trước đây, việc giúp đỡ, phụ đạo học sinh yếu kém là một nhiệm vụ quan trọng nhưng chưa được chú ý. Tôi chỉ thường giao thêm bài tập cho đối tượng học sinh này mà chưa thực sự đầu tư nghiên cứu một hệ thống bài phù hợp, dễ tiếp thu và khuyến khích được học sinh học tập. Hai năm học vừa qua, tôi đã nghiên cứu chương trình, nghiên cứu lỗ hổng kiến thức, kĩ năng mà học sinh của mình hay mắc để xây dựng một hệ thống bài tập phù hợp theo dạng, theo thời điểm, theo mạch kiến thức, kĩ năng ....sao cho học sinh yếu kém có thể tiếp thu được kiến thức, thực hiện các kĩ năng một cách dễ dàng nhất. Tôi đã xây dựng các bài tập theo các dạng sau: Xây dựng dạng bài tập lấp "lỗ hổng" kiến thức, kĩ năng ở các lớp dưới. Với những học sinh yếu về môn Toán, đa số các em có lỗ hổng kiến thức (chưa nắm được kiến thức ở các lớp dưới). Ở trên lớp, giáo viên quan tâm, phát hiện và phân loại những lỗ hổng kiến thức mà học sinh mắc phải. Có học sinh chưa thuộc bảng cửu chương, nhân (chia) chưa thành thạo với (cho) số có một chữ số, cũng có học sinh kĩ năng trừ nhẩm chưa tốt, hay có em hay mắc lỗi về giải toán có lời văn, có em kém hắn, hổng kiến thức rất nhiều.... Trong chương trình môn Toán lớp 4, càng về sau, chương trình càng nặng về kiến thức và kĩ năng. Phát hiện những lỗ hổng kiến thức đó, tôi đã xây dựng những bài tập phù hợp để cho các em luyện tập thêm trong các tiết học tăng buổi. Các bài tập nhằm lấp lỗ hổng kiến thức cho học sinh cần phải kịp thời, đúng thời điểm và chủ yếu trong thời gian đầu năm học. Ví dụ trước khi dạy cho các em kĩ năng nhân (chia) với ( cho ) số có hai, ba chữ số thì giáo viên cần xem trong lớp những em nào còn chưa thuộc bảng cửu chương, chưa nhân ( chia ) thành thạo với ( cho ) số có một chữ số hay chưa trừ 7 nhẩm thành thạo thì cần có bài tập để lấp những lỗ hổng kiến thức này. Cụ thể, có thể ra các dạng bài tập để củng cố kiến thức, kĩ năng ở lớp 2, lớp 3 mặc dù các em đang học ở lớp 4. Cụ thể: Bài 1: Tính nhẩm: 7  9 = ............ 6  8 = ............ 42 : 7 = ............... 64 : 8 = ............ 54 : 6 = ........... 36 : 4 = .................. Bài 2: Đặt tính rồi tính a, 589 + 72 b, 157 - 78 c, 268  7 d, 384 : 7 Để thực hiện tốt kĩ năng tính ở chương trình Toán 4, học sinh cần phải làm được các bài tập trên, bởi nếu không thuộc bảng cửu chương, không trừ nhẩm được hay chưa có kĩ năng nhân ( chia ) với ( cho) số có một chữ số thì hậu quả kéo theo là các em sẽ không thể nhân (chia) với ( cho ) số có hai, ba chữ số. Tiếp nối mạch kiến thức giải toán có lời văn, chương trình Toán 4 đưa vào dạy các dạng toán có lời văn mới. Trước khi dạy các em các dạng toán có lời văn đó, tôi đã cho các em làm lại một số dạng toán có lời văn đã học ở các lớp dưới, để học lại cách phân tích đề bài, cách tóm tắt, nhớ lại cách giải, rèn kĩ năng tư duy với những bài toán đơn giản, từ đó bắt vào những dạng Toán phức tạp hơn...Các kiến thức trọng tâm được ôn tập kĩ lưỡng, nhiều lần để học sinh vận dụng vào những bài học mới. Với lợi thế học sinh được học hai buổi/ngày, tôi có thời gian để ôn lại cho các em vào các buổi hai mà không ảnh hưởng đến chương trình chính khóa. Thiết kế dạng bài tập vừa sức, phù hợp với học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng. Để đảm bảo yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng đưa ra, ở mỗi tiết học, cần đạt được mục tiêu cụ thể để đảm bảo yêu cầu của chương trình. Tuy nhiên, từ thực tế dạy học, trong những tiết học được dạy cho cả lớp, việc luyện tập được thực hiện theo trình độ chung, nhiều khi không phù hợp với khả năng học sinh yếu kém. Vì vậy khi làm việc riêng với nhóm học sinh có kết quả học tập chưa tốt môn học này, cần dành thời gian để các em tăng cường luyện tập vừa sức mình. Riêng đối với môn Toán của toàn bậc học nói chung và môn Toán lớp 4 nói riêng, ngoài yêu cầu cần đạt về kiến thức kĩ năng, còn yêu cầu học sinh phải hoàn thiện các bài tập cụ thể trong mỗi tiết học. Mặc dù chương trình đã giảm tải để giảm áp lực cho học sinh, để phù hợp với thời lượng một tiết học. Tuy nhiên, với học sinh gặp khó khăn trong môn Toán lớp 4, số lượng bài bài đó vẫn còn rất nặng, và nhiều bài, các em còn chưa thể giải quyết ngay được sau khi giáo viên giảng xong bài mới. Để giải quyết những vướng mắc này, giáo viên cần chủ động, 8 nghiên cứu từng bài tập, thiết kế, bổ sung thêm sao cho học sinh yếu kém hoàn thành được bài tập. Ví dụ: Ở tiết Luyện tập ( trang 74), học sinh phải thực hiện 5 bài tập, trong đó có bài tập sau: Bài 3. Tính bằng cách thuận tiện nhất: a) 142 12 + 142  18 b) 49  365 - 39  365 c) 4  18  25 Với bài tập này, những học sinh có tư duy tốt, các em sẽ làm rất nhanh dạng này (học sinh phải áp dụng những tính chất đã học, đồng thời cần quan sát, linh hoạt trong việc đổi chỗ các thừa số hay nhận ra thừa số chung). Nhưng với học sinh yếu kém, giáo viên có thể xây dựng trên phiếu của bài tập này nhưng dễ hơn để các em hoàn thành được bài tập trên sự định hướng ban đầu của giáo viên như sau: Tính bằng cách thuận tiện nhất (Điền vào chỗ chấm ) a) 142 12 + 142  18 b) 49  365 - 39  365 c) 4  18  25 = 142  ( 12 + 18) = ............................. = ( 4 25)  18 = .............................. = ............................ = ................................. = .............................. = ............................. = .................................. * Hay như sau khi học xong cách thực hiện giải bài toán tìm hai số khi bết hiệu và tỉ số của hai số đó, theo yêu cầu, học sinh phải hoàn thành bài tập sau: Bài 1: Số thứ nhất kém số thứ hai là 123, Tỉ số của hai số là 2 . Tìm hai số đó. 5 Đối với đa số học sinh, chỉ cần dựa vào bài giảng của giáo viên các em có thể hoàn thành ngay được bài giải. Song thực tế, vì đây là bài thực hành đâu tiên, nên để học sinh yếu kém hiểu rõ bản chất và giải luôn được các bài tập này là việc làm rất khó khăn. Chính vì vậy, để giúp các em hoàn thành được, giáo viên cần biến đổi thành các bài tập phù hợp vào phiếu như sau: Bài 1: Số thứ nhất kém số thứ hai là 123, Tỉ số của hai số là 2 . Tìm hai số đó. 5 Hãy điền vào chỗ trống để hoàn thiện bài giải: ? Ta có sơ đồ: Bài giải Số thứ nhất : ? Số thứ hai: 123 Hiệu số phần bằng nhau là: .................................................. 9 ................................................. ................................................. .................................................. ................................................. Qua các dạng bài tập cụ thể, từ hững bài tập thực hành từ dễ đến khó, dưới sự hướng dẫn thêm của giáo viên, học sinh yếu kém sẽ dần dần hình thành được kĩ năng giải toán. Để làm được công việc này, đòi hỏi giáo viên phải thực sự đầu tư về thời gian, trí tuệ, phải thực sự mong muốn học sinh của mình ngày càng tiến bộ. Đối với học sinh yếu kém. Tôi đã coi trọng tính vững chắc của kiến thức, kĩ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức nên đã dành thời gian để các em thực hành các bài tập vừa sức. Ở các tiết ôn luyện ở buổi 2, tôi đã đưa hệ thống các bài tập nhưng chia bài theo nhóm học sinh, chẳng hạn, nhóm yếu, kém làm bài 1, bài 2, nhóm Trung bình làm bài 2,3 và nhóm khá, giỏi làm bài 3,4. Như vậy tất cả các học sinh trong trong lớp đều có bài tập vừa sức, tạo nên sự hứng thú cho học sinh. Thiết kế các bài tập để học sinh dễ so sánh và phân biệt các kiến thức, kĩ năng hay nhầm lẫn. Học sinh Tiểu học, nhanh nhớ nhưng cũng rất dễ quên. Với học sinh yếu, lại càng nhanh quên. Trong chương trình Toán lớp 4, có một số kiến thức mà học sinh rất dễ lẫn, như chia một tích cho một và chia một tổng cho một số, hay các em hay lẫn lộn giữa các các dạng toán có lời văn ( Toán về tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu, Tổng và tỉ số, Hiệu và Tỉ số ). Sau mỗi dạng Toán, các em làm có thể đã thành thạo, nhưng sau một thời gian lại quên dạng và quên mất cách làm. Chính vì vậy, ở các tiết ôn tập chung, giáo viên cần xây dựng các bài tập sao cho có thể phân biệt nhiều dạng bài khác nhau để học sinh linh hoạt hơn trong việc xã định dạng toán, tranh lẫn dạng này với dạng khác. Từ các bài tập đó các em nhìn ra điểm chung, riêng của từng kiến thức, kĩ năng để ghi nhớ. Ví dụ: Để phân biệt chia một tích cho một số và chia một tổng cho một số. Với hai kĩ năng này, học sinh được học chia một tổng cho một số trước, với cách tính được hướng dẫn như sau: Khi chia một tổng cho một số, nếu các số hạng của tổng chia hết cho số chia thì ta có thể chia từng số hạng cho số chia, rồi cộng các kết quả tìm được với nhau. Ví dụ: Tính: (21 + 35 ) : 7 Với bài này học sinh thực hiện cách thứ hai như sau (Ngoài cách tính thông thường là trong ngoặc trước): (21 + 35 ) : 7 = 21 : 7+ 35 : 7 = 3 + 5 = 8 10 Nhưng đến khi học bài Chia một tích cho một số, nếu học sinh gặp bài toán : Tính theo hai cách : ( 21 35 ) : 7 thì không chỉ học sinh yếu kém đã làm cách thứ hai như sau: ( 21  35 ) : 7 = 21 : 7  35 : 7 = 3  5 = 15 ( sai) Như vậy, học sinh đã nhầm lẫn hai kiến thức này với nhau, áp dụng sai kiến thức này cho kiến thức kia. Chính vì vậy, tôi đã linh hoạt, ngoài ôn tập riêng mỗi dạng, giáo viên còn nên ra thêm hai dạng này cùng một lúc để các em nhận biết, phân biệt rõ hơn hai dạng kiến thức này. Hay để giải quyết việc lẫn dạng ba dạng toán quan trọng của chương trình Toán 4 đó Tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu, Tổng và tỉ số, Hiệu và Tỉ số, giáo viên cũng nên đưa ra cả ba dạng bài trong một tiết học ( ở các tiết ôn tập chung, buổi 2). Yêu cầu các em đọc kĩ từng bài, phân biệt từng dạng rồi mới cho các em giải. Thiết kế các bài tập theo chủ đề, theo mạch kiến thức đề để luyện tập những kiến thức, kĩ năng khó. Học sinh Tiểu học nói chung, kĩ năng, kĩ xảo được hình thành dựa vào sự lặp đi, lặp lại. Với học sinh yếu kém, khả năng tiếp thu của các em bao giờ cũng chậm hơn các bạn. Chính vì vậy, sau mỗi kiến thức mới, các em thường không làm ngay được các bài tập vận dụng như các bạn khác mà cần phải qua thời gian, qua nhiều lần thực hành, qua sự giúp đỡ của cô, bạn. Nắm được đặc điểm đó, giáo viên cần xác định những kiến thức các em còn hổng, kiến thức, kĩ năng trọng tâm và khó trong chương trình để xây dựng các bài tập theo chủ đề, theo dạng toán...để đảm bảo các em được luyện tập thành thạo, ghi nhớ chúng qua quá trình luyện tập. Ví dụ: Chia cho số có hai, ba chữ số là kiến thức, kĩ năng trọng tâm và khó trong chương trình. Chính vì vậy, trong các tiết luyện tập ( trong thời gian đang dạy kiến thức này), giáo viên cần đưa ra các bài tập nhằm củng cố kĩ năng chia cho số có hai, ba chữ số. Chẳng hạn: Bài 1: Đặt tính rồi tính: 4575 : 74 23507 : 243 Bài 2: Tìm x x  56 = 4144 235  x = 13630 Bài 3: Có 825 bộ bàn ghế được xếp đều vào 25 phòng học. Hỏi mỗi phòng học xếp ddeuf được bao nhiêu bộ bàn ghế? Hay khi dạy đên các dạng toán có lời văn ( Toán về TBC, toán về tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu, Tổng và Tỉ số, Hiệu và Tỉ số ), sau mỗi dạng toán, giáo viên cần ra 11 các bài tập cùng củng cố một dạng toán để các em nhớ dạng, nhớ các bước thực hiện, bước giải của mỗi dạng toán đó. 2.3.3. Giúp học sinh yếu kém đạt yêu cầu tối thiểu bằng cách vận dụng linh hoạt các kiến thức, kĩ năng đã học. Trong chương trình Toán 4, các mạch kiến thức thức được mở rộng dần và ngày càng nâng cao về độ khó. Chính vì vậy, đối với những học sinh yếu kém, rất cần sự linh hoạt của giáo viên khi hình thành kiến thức và kĩ năng cho các em. Ví dụ: a) Trong chương trình Toán 4, tiết 172, tiết 173 dạy cho học sinh cách thực hiện phép chia cho số có hai chữ số theo các bước chia: Chia, nhân, trừ. Nhưng đến tiết 175, 176, cũng với yêu cầu chia cho số có hai chữ số, các bước chia cũng như vậy nhưng cách viết thì lại ngắn gọn hơn bởi ở bước trừ, các em cần phải trừ nhẩm luôn chứ không viết kết quả phép nhân ngược rồi mới trừ. Với yêu cầu tiết học như vậy, số học sinh thực hiện ngay được bước trừ nhẩm trong tiết học không phải là nhiều, chưa kể đến đối tượng học sinh yếu kém. Tiết 176 yêu cầu học sinh làm bài tập về rèn kĩ năng chia cho số có hai chữ số như sau: Đặt tính rồi tính. a) 4725: 15 b) 35136: 18 4674 : 82 18408 : 52 4935: 44 17826 : 48 Theo mục tiêu của tiết học và cách thực hiện phép chia cho số có hai chữ số đến thời điểm này, các em sẽ thực hiện phép chia 4725: 15 như sau: 4725 15 22 315 75 0 Nếu yêu cầu cả lớp thực hiện chia và trừ nhẩm luôn như trên thì chắc chắn, nhiều em sẽ không hoàn thành bài tập. Trong tình huống này, tôi đã khuyến khích cho những học sinh chưa nắm được cách trừ nhẩm luôn ( nhất là với học sinh yếu kém) thực hiện theo cách thông thường ( viết kết quả phép nhân ra rồi mới trừ ) như sau: 4725 15 45 315 22 15 75 12 75 0 Làm như vậy, học sinh vẫn tìm ra được kết quả bài toán, thực hiện được yêu cầu của tiết học, tạo tâm lí tự tin cho những học sinh tiếp thu chậm hoặc chưa năm bắt được cách trừ nhẩm luôn. Đến khi nào, các em thực hiện thành thạo, giáo viên mới dẫn cho các em thực hiện bước trừ nhẩm để cách trình bày phép tính ngắn gọn hơn. b) Khi dạy dạng toán có lời văn Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó, định hướng của SGK, các em thực hiện theo công thức tìm số lớn hoặc số bé Số lớn = ( Tổng + Hiệu) : 2 Số bé = ( Tổng - Hiệu ) : 2. Ví dụ khi thực hành giải bài toán: "Cả hai lớp 4A và 4B trồng được 600 cây. Lớp 4A trồng được ít hơn lớp 4B là 50 cây. Hỏi mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây? " Theo công thức, học sinh có thể làm ngay: Bài giải Số cây lớp 4A trồng được là: (600 - 50) : 2 = 275 (cây) Số cây lớp 4B trồng được là 600 - 275 = 325 ( cây) Đáp số : Lớp 4A: 275 cây Lớp 4B: 325 cây Song với học sinh yếu kém, ngoài việc cho các em quan sát trực tiếp trên sơ đồ, giáo viên có thể cho các em làm thêm bước " Tìm hai lần số cây 4A " hoặc "hai lần số cây 4B". Cụ thể như sau: Tóm tắt: ? cây 4A: 50 cây 4B: 600 cây. ? cây Bài giải Hai lần số cây lớp 4A: 600 - 50 = 550( cây) Số cây lớp 4A trồng được là: 550 : 2 = 275 (cây) Số cây lớp 4B trồng được là 600 - 275 = 325 ( cây) Đáp số : Lớp 4A: 275 cây Lớp 4B: 325 cây ( Hoặc hs có thể tính 2 lần số cây 4B trước ) 13 Như vậy, so với cách thông thường, ta đã thêm bước giải ( Tính hai lần số bé hoặc 2 lần số lớn ) để học sinh yếu được tường minh. Đến khi các em thành thạo, hiểu vấn đề thì giáo viên mới cho học sinh làm gọn lại như cách của các bạn học sinh khác. Với mỗi đối tượng học sinh, giáo viên có những định hướng khác nhau khi làm bài tập. Nhất là với học sinh yếu kém, cần chọn con đường mà các em dễ hiểu nhất ( dù cách giải có hơi dài dòng), để các em có thể giải quyết được các bài tập theo yêu cầu của tiết học. 2.3.4. Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp, linh hoạt trong hình thức tổ chức dạy học, hướng dẫn cách học hiệu quả cho học sinh. Với riêng với học sinh yếu kém - đối tượng học sinh khiến cho những người quản lí giáo dục, những giáo viên tâm huyết với nghề luôn trăn trở - thì đổi mới phương pháp dạy học lại quan trọng hơn bao giờ hết. Lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh...là quan điểm của việc đổi mới phương pháp dạy học mà lâu nay chúng ta vẫn làm.Với đối tượng học sinh này, nhiều em có thiếu tự tin, không mạnh dạn phát biểu trước lớp, không dám thể hiện mình. Chính vì vậy, giáo viên cần quan tâm, dành nhiều thời gian cho các em hơn. Trong các hình thành kiến thức mới, cần có những câu hỏi, cách gợi ý phù hợp để học sinh yếu có thể trả lời được tạo điều kiện cho các em được thể hiện mình. Nhất là với đối tượng học sinh có tư duy kém, giáo viên cần sử dụng đồ dùng dạy học nhiều hơn, đi từ cụ thể đến trừu tượng. Những tiết luyện tập thực hành, giáo viên chủ động giúp đỡ học sinh qua hoạt động cá thể hóa, qua việc thiết kế các bài tập vừa sức. Giáo viên cũng cần linh hoạt trong hình thức tổ chức dạy học, lựa chọn hình thức nhóm, cá nhân hay cả lớp phù hợp với từng nội dung bài sao cho học sinh yếu kém có thể tự tư duy hoặc học hỏi được các bạn trong nhóm. Cách học của học sinh cũng rất quan trọng. Một trong những lí do dẫn đến nhiều học sinh nói chung và học sinh yếu nói riêng là phương pháp học chưa tốt, chưa khoa học. Với riêng môn Toán lớp 4, qua tìm hiểu, với những đối tượng học sinh yếu kém, thường vấp ngay từ những bước đầu tiên. Ví dụ khi thực hiện cộng , trừ số có nhiều chữ số, các em đã sai ngay từ bước đặt tính. Hay thực hiện phép nhân, chia thì ước lượng thương không đúng. Khi thực hành giải toán thì kĩ năng phân biệt giữa các dạng toán ( Tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu, Tổng và tỉ số, Hiệu và Tỉ số), kĩ năng phân tích đề bài cũng chậm). Đa số học sinh yếu kém thường không đọc kỹ yêu cầu cũng như các dữ kiện của bài toán đã cho, vội vàng làm bài khi chưa xác định được bài toán cần tìm gì... Số học sinh của đối tượng này lại không chăm học, thiếu ý chí... 14 Qua nghiên cứu, tham khảo, rút kinh nghiệm từ chính quá trình dạy học của mình trước kia, tôi đã nhận ra các giai đoạn để một học sinh yếu kém nắm bắt dược kiến thức và hình thành các kĩ năng cần phải thực hiện, đó là: -Lắng nghe, quan sát, tiếp thu kiến thức: Giai đoạn này là giai đoạn quan trọng, qua ví dụ cụ thể, học sinh rút ra cách tính, cách giải chung. Với học sinh yếu kém, việc lắng nghe, quan sát một lần chưa đủ. Các kiến thức cần chốt, cần hình thành ở tiết học nên cho học sinh yếu kém nhắc lại ( thậm chí nhiều lần) để ghi nhớ, để áp dụng vào thực hành luyện tập. - Làm theo hướng dẫn của giáo viên hoặc của bạn: ở giai đoạn này. học sinh bước đầu vận dụng hiểu biết của mình vào tính hoặc giải toán. Đối với học sinh yếu, các em thường vẫn còn lúng túng, do học sinh chưa nhớ, chưa hiểu sâu sắc. Chính vì vậy, rất cần sự tiếp sức của giáo viên hay sự giúp đỡ của bạn cùng nhóm. Hướng dẫn ở đây không phải là làm thay, mà là gợi ý, định hướng để các em có thể tự tin làm bài tập. Tùy theo dạng bài tập, sự nắm bắt kiến thức của học sinh trong tiết học đó mà giáo viên có sự hỗ trợ phù hợp. - Tự làm theo mẫu: Các bài tập làm theo mẫu ở Tiểu học nói chung và Môn Toán lớp 4 nói riêng không phải ít. Những bài tập này, giáo viên tạm đứng ngoài cuộc để quan sát học sinh độc lập thao tác. Học sinh nào hiểu bài thì có thể hoàn thành được bài tập, học sinh nào chưa hiểu bài sẽ còn lúng túng. Thông qua giai đoạn này, giáo viên có thể nắm bắt được việc học tập cũng như mức độ hiểu bài của cả lớp và từng cá nhân, từ đó đề ra biện pháp thích hợp cho từng đối tượng. - Độc lập làm bài tập: Mục đích hướng đến sau cùng với tất cả học sinh đó là độc lập giải quyết được các bài tập cần làm trong mỗi tiết học, trong các bài kiểm tra. Đối với học sinh yếu, kém, tự làm được các bài tập là một thành công. * Nắm được các giai đoạn trên, giáo viên sẽ không nóng vội và sốt ruột khi học sinh của mình chưa thể giải ngay được những bài toán theo yêu cầu ngay sau khi dạy bài mới. Đó chính là lí do vì sao cần phải dành nhiều thời gian cho học sinh yếu kém. Giáo viên cũng cần biết học sinh của mình đang ở giai đoạn nào, có thể với kiến thức, kĩ năng này, các em đang ở giai đoạn làm theo mẫu, nhưng với nhóm bài tập khác, các em đã đến giai đoạn độc lập làm bài, từ đó, giáo viên có cơ sở để ra các bài tập phù hợp. Giáo viên cũng nên đưa bài tập theo từng nhóm kiến thức, tăng dần về độ khó để các em tiếp nhận dần dần nhưng có tính vững chắc. Cũng là học sinh yếu kém, nhưng lí do yếu kém của mỗi em mỗi khác. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên cũng cần có cách ứng xử phù hợp: - Với những học sinh yếu do trí tuệ, tư duy kém, ở các tiết học, các em chậm hiểu, khó hoàn thiện các bài tập, không theo kịp các bạn trong lớp. Các đối tượng này, giáo viên 15 cần chú ý nhiều hơn, cho các em ngồi lên phía trên, cần sự giúp đỡ của thầy, cô, bạn bè một cách thường xuyên để hoàn thiện những bài tập cơ bản. - Với những học sinh yếu do hay nói chuyện riêng, không tập trung vào bài giảng, không chịu học bài, giáo viên cần gây hứng thú học tập cho học sinh bằng việc tăng cường tổ chức các hoạt động nhóm, tổ chức trò chơi, làm những mô hình dạy - học toán gần gũi, bắt mắt, ... - Với những học sinh yếu kém do gia đình không quan tâm, không có đủ sách vở, đồ dùng học tập thì lại rất cần đến sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình nhiều hơn, sự hỗ trợ của nhà trường, của giáo viên để các em có đủ sách vở, đồ dùng phục vụ cho việc học tập của học sinh. Chính vì vậy, muốn các em tiến bộ, điều đầu tiên, giáo viên phải làm cho các em thích học. Điều này tùy thuộc vào phương pháp và định hướng của giáo viên ( như đã trình bày ở các mục trên). Tiếp đến là dạy cho các em cách học như thế nào cho hiệu quả. Khi chỉ đạo họp tổ chuyên môn với khối 4, bàn về việc nâng bậc học sinh yếu, tôi đã chỉ đạo cho các giáo viên có học sinh yếu kém môn Toán cần dạy cho các em cách học phù hơp: - Trước khi thực hành làm bài tập, các em cần nhớ được các bước thực hiện phép tính, các bước giải từng dạng toán, các công thức tổng quát thể hiện tính chất giao hoán, tính chất kết hợp... - Khi thực hành, cần đọc kĩ yêu cầu, nhất là với toán có lời văn, phải phân biệt được dạng toán, xác định cái gì đã cho, cái gì cần tìm. - Luôn có ý thức học, không biết, chưa hiểu thì mạnh dạn hỏi thầy cô, hỏi bạn. - Tham gia tích cực vào các hoạt động nhóm, các trò chơi học tập 2.3.5. Xây dựng phong trào giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Những học sinh khá, giỏi trong lớp sẽ là những trợ thủ đắc lực cho cô giáo giúp đỡ các bạn yếu kém tiến bộ. Chính vì vậy, tôi đã lập những "đôi bạn cùng tiến" mà mỗi đôi bạn, sẽ có một học giỏi ( hoặc khá ) để kèm cặp, giúp đỡ một bạn yếu kém. Các đôi bạn được chọn phải có tính tình hợp nhau, bạn giỏi hơn luôn có tinh thần giúp đỡ bạn. Để làm tốt việc này, giáo viên cần giao nhiệm vụ cho học sinh khá- giỏi cùng chơi, cùng học với bạn để giúp bạn tiến bộ bằng cách nhắc nhở bạn học, dăn bạn mang đầy đủ sách vở nếu bạn hay quên, hay kiểm tra bảng cửu chương, các kiến thức cần ghi nhớ ở tiết học trước trong 15 phút đầu giờ. Giúp đỡ bạn hiểu bài, giảng cho bạn những bài bạn chưa hiểu .... 16 Hay "Nhóm bạn yêu thích môn toán" trong đó khuyến khích học sinh yếu kém tham gia để hòa nhập và học hỏi thêm các bạn. Với học sinh lớp 4, việc làm này có hiệu quả thiết thực. Làm được điều này, giáo viên sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn, vừa khích lệ được tinh thần giúp đỡ lẫn nhau của các em học sinh, học sinh yếu cũng cảm thấy bợt ngại ngùng hơn khi hỏi bài của bạn hơn là hỏi thầy cô. Giáo viên phải luôn khen ngợi những đôi bạn tiến bộ, những nhóm có phương pháp học thích hợp làm tấm gương trước lớp để các đôi bạn, nhóm khác noi theo, giúp đỡ các nhóm gặp khó khăn trong quá trình hợp tác. 2.3.6. Kịp thời khuyến khích, khen thưởng sự cố gắng, tiến bộ của học sinh yếu kém sau mỗi tuần học. Như thường lệ, lâu nay chúng ta thường khen thưởng những học sinh khá, giỏi chứ ít thấy khen thưởng cho những học sinh yếu kém nhưng có sự tiến bộ. Hai năm học gần đây, ngoài việc tuyên dương những học sinh học tốt, cuối mỗi tuần học, tôi đều nêu gương những học sinh yếu kém nhưng có tiến bộ trong học tập cũng như các hoạt động khác. Năm nay, thông tư 22 ra đời, không bó hẹp đối tượng khen thưởng, nhà trường cũng đã khen thưởng cho những học sinh có tiến bộ một mặt, nhằm khuyến khích, động viên các em luôn cố gắng học tâp. 2.3.7. Có kế hoạch cụ thể, thực hiện kiểm tra, đánh giá kết quả phụ đạo, giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng. Việc kiểm tra chất lượng học sinh yếu diễn ra thường xuyên. Có thể là những bài kiểm tra kiến thức thông thường, cũng có thể kiểm tra qua việc thực hành hàng ngày của học sinh yếu kém trong các tiết học Toán. Nhà trường trường cũng đánh giá sự tiến bộ của các em thông qua các bài kiểm tra định kì. Kết quả kiểm tra cũng là sự phản hồi, đánh giá sự cố gắng của giáo viên trong công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu, góp phần hạn chế tối đa học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4. 2.3.8. Phát huy vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với giáo viên để giúp đỡ, phụ đạo học sinh. Hơn ai hết, phụ huynh học sinh là những người mong con em họ tiến bộ nhiều nhất. Chỉ một số rất ít phụ huynh do hoàn cảnh đặc biệt mới không quan tâm đến con hoặc bỏ mặc con cho ong bà, cô, dì, chú , bác. Nắm được tình hình đó, tôi đã phối hợp với phụ huynh học sinh trong tất cả các hoạt động của lớp nói chung, giúp đỡ học sinh yếu kém nói riêng. Để có sự phối hợp nhịp nhàng, có hiệu quả giữa gia đình học sinh và giáo viên chủ nhiệm, tôi đã gặp riêng nhóm phụ huynh này để trao đổi kĩ về tình hình học tập của 17 con em họ, bàn bạc, thống nhất, tìm cách cùng phối hợp để giúp con em họ tiến bộ hơn, đó là: + Phụ huynh có thể tự kiểm tra con em đã nhớ, thuộc bảng cửu chương chưa ( vì với đối tượng học sinh này, các em rất dễ quên kiến thức đã học), nếu chưa, kèm và hướng dẫn cho các em đọc lại, khi nào thuộc mới thôi. + Các phụ huynh có thể cùng con ôn bài, xem lại bài hôm nay học gì, giảng cho con ( hặc nhờ một người khác có kiến thức) nếu con em mình chưa hiểu bài ở lớp... + Theo dõi, nhắc nhở con em soạn sách vở đúng theo thời khóa biểu, chuẩn bị Đ DHT đầy đủ trước khi đến lớp + Thường xuyên xem sách vở của con, kiểm tra xem hôm nay con có hoàn thành bài trên lớp không, cô giáo nhận xét con em mình thế nào để hỗ trợ con những kiến thức, kĩ năng còn non kém.... 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường Cuối mỗi năm học, học sinh Tiểu học nói chung và học sinh khối 4 nói riêng được kiểm tra định kì cuối năm học. Đây là kết quả bài kiểm tra cuối năm học 2015- 2016, lớp 4 (năm học tôi đã triển khai các giải pháp nhằm giúp học sinh gặp khó khăn trong môn Toán lớp 4) với đề bài như sau: KIỂM TRA ĐỊNH KÌ CUỐI NĂM HỌC- LỚP 4 MÔN : TOÁN. Thời gian : 40 phút Câu 1. ( 4,5 điểm) Mỗi bài tập dưới đây có kèm theo một số câu trả lời A, B, C, D ( là đáp số, kết quả tính) . Hãy khoanh tròn vào chữ đặt trước câu trả lời đúng 1. . 27m2 9dm2 = .... dm2. Số điền vào chỗ chấm là: A. 2709 B. 2790 C. 279 D. 27009 2. Trên bản đồ tỉ lệ 1: 800, chiều dài sân trường đo được là 10 cm. Vậy chiều dài thực tế của sân trường là: A. 80 km B. 800 m C. 80 m. D. 80 dm 3. Các phân số được sắp xếp theo thứ tự từ lớn đến bé là : A. 2 3 ; 5 6 4. Cho phân số A. 3 4 ;2 5 2 4 4 B. 6 ; 3 ; 2 5 2 C. 2 ; 6 ; 3 2 4 12 ...  Số thich hợp điền vào chỗ chấm là: 36 9 B. 4 C. 5 18 5 D. 3 ; 2 ; 6 D. 6 5. Trong hình bình hành ABCD dưới đây, các cặp cạnh song song với nhau là: 6. A. AH và HC ; AB và AH B. AB và BC ; CD và AD C. AB và DC ; AD và BC D. AB và CD; AC và BD 3 7 A C B H D số A bằng 21. Vậy số A là: A. 9 B. 29 C. 39 D. 49 Câu 2: ( 1 điểm) Nối vào hai biểu thức có giá trị bằng nhau: 4 x 2145 3968 x 6 10287 x 5 (3+ 2) x 10287 (2100 + 45) x 4 (4+ 2) x (3000 + 968) Câu 3: ( 1điểm) Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống. a. Số 2562 chia hết cho 3 và 2. b. Số nào chia hết cho 3 thì chia hết cho 9 c. Số nào chia hết cho 9 thì chia hết cho 3. d. Số có tận cùng bằng 0 thì chia hết cho 2 nhưng không chia hết cho 5 Câu 4 ( 1,5 điểm) : Tính a) ( 425 x 50): 25 = ........................................................................................................... 4 b) 5  3 = ........................................................................................................................ c) 1 :4 2 = ...................................................................................................................... Câu 5 ( 1,5 điểm) Một mảnh đất hình chữ nhật có nửa chu vi là 105 m, chiều rộng bằng 2 3 chiều dài. Tính diện tích mảnh đất đó đó. …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………............................... …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… Câu 6 ( 0,5 điểm) Tính bằng cách thuận tiện: 19 14 25 18 = 9 2 7 2 5 5 .............................................................................................................. Với đề bài như trên, kết quả kiểm tra như sau: Năm học 2015 - 2016 (29em) Trong tổng số Tổng số Điểm 9, 10 Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm dưới 5 29 11 11 6 1 Như vậy, năm học 2015-2016 (đã thực hiện) và năm 2016 -2017 (đang thực hiện) thực hiện các gải pháp trên, tôi thấy học sinh yếu kém môn Toán lớp 4 đã có nhiều tiến bộ. Tất nhiên, không phải toàn bộ học sinh yếu kém đều được nâng bậc, nhưng các em đã nhanh hơn, tự tin hơn các khóa học trước. Hơn thế nữa, bản thân tôi cũng đã có một định hướng phù hợp để giúp học sinh yếu kém môn Toán 4 nắm được kiến thức của chương trình, giúp các em hoàn thành môn học một cách thuyết phục. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Từ thực tiễn dạy học và những giải pháp mà tôi đã áp dụng, tôi cho rằng, việc dạy học nói chung và việc dạy đối tượng học sinh yếu nói riêng, cần đến cái tâm của người làm thầy hơn bao giờ hết. Có thể, các giải pháp mà tôi đưa ra chưa thực sự tối ưu, nhưng qua quá trình triển khai, các giải pháp trên đã phần nào đã định hướng được cho bản thân hướng nâng bậc học sinh yếu kém môn Toán lớp 4 và đã có những kết quả bước đầu. Tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm cho chính bản thân mình khi triển khai các biện pháp giúp học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4, đó là: - Giáo viên cần coi việc giúp đỡ, phụ đạo học sinh yếu, giúp các em hoàn thanh môn học là nhiệm vụ quan trọng trong công tác dạy học của mình. - Bản thân nghiên cứu, trao đổi, học hỏi thêm đồng nghiệp thực hiện các biện pháp để giúp học sinh yếu kém môn Toán lớp 4 tiến bộ, đó là: + Phân loại đối tượng học sinh, chọn ra đối tượng học sinh yếu kém. + Xây dựng hệ thống bài tập phù hợp cho đối tượng học sinh yếu kém. + Giúp học sinh yếu kém đạt yêu cầu tối thiểu bằng cách vận dụng linh hoạt các kiến thức, kĩ năng đã học + Xây dựng phong trào cùng giúp nhau tiến bộ. + Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp, linh hoạt trong hình thức tổ chức dạy học, hướng dẫn cách học hiệu quả cho học sinh + Kịp thời khuyến khích, khen thưởng sự cố gắng của học sinh yếu kém. + Có kế hoạch cụ thể, thực hiện kiểm tra, đánh giá kết quả phụ đạo, giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng. + Phối hợp với phụ huynh học sinh để cùng kèm cặp, giúp đỡ con em hoàn thành tốt môn học. Tôi rất mong được sự chia sẻ, ủng hộ của các đồng chí lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan