Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nội dung dạy học lịch sử lớp 5 ở trường tiểu ...

Tài liệu Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nội dung dạy học lịch sử lớp 5 ở trường tiểu học cẩm vân theo định hướng phát triển năng lực

.PDF
25
102
132

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD&ĐT CẨM THỦY SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NỘI DUNG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 5 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC CẨM VÂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH Người thực hiện: Nguyễn Thị Lan Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Cẩm Vân SKKN thuộc môn: Lịch sử CẨM THỦY, NĂM 2018 MỤC LỤC TRANG A. PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài : 1 2. Mục đích nghiên cứu:............................................................................. 2 3. Đối tượng nghiên cứu:............................................................................ 2 4 . Phương pháp nghiên cứu.: ..................................................................... 2 B. PHẦN NỘI DUNG 3 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN. 3 1. Khái niệm năng lực và dạy học theo định hướng phát triển năng lực: ……………………………………………………………………….. 3 2. Phân loại năng lực :…………………………………………………. 4 II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY- HỌC LỊCH SỬ ……………….. 5 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 5 1. GV phải nắm vững nội dung và mục tiêu dạy học …………………. 5 2. Trong dạy học Lịch sử tập trung những giá trị cốt lõi, ………. 7 3. Xác định năng lực cần rèn cho học sinh qua từng bài học cụ thể:….. 7 4. Quan tâm các vấn đề thực tiễn, phát triển năng lực hoc sinh:……. 15 5. Sử dụng các hình thức, phương pháp dạy học nhằm tích cực ………… 15 6. Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm:……….. 16 7. Tăng cường sử dụng các kỹ thuật dạy học theo định hướng phát triển năng lực …… 17 IV. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:………………………………… 19 C. PHẦN KẾT LUẬN:…………………………………………………… 20 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về việc thực hiện mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT đã xác định rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học”. Ở các trường phổ thông nói chung và bậc tiểu học nói riêng đang có bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của học sinh, nghĩa là từ chỗ quan tâm tới việc học sinh học được gì đến chỗ quan tâm tới việc học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, giáo viên phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất cho học sinh. Để làm được điều đó, giáo viên cần tổ chức dạy học linh hoạt để học sinh vừa được trang bị đủ kiến thức kỹ năng cơ bản, đồng thời vừa hình thành và phát triển năng lực hợp tác, năng lực tự học giải quyết vấn đề. Cách làm này có thể được coi là dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh. Xuất phát từ tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 3/10/2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành công văn số 4612/BGDĐT-GDTrH về “Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017-2018”. Ngay sau khi công văn của Bộ GD-ĐT được ban hành, các nhà trường đã tăng cường tập huấn, hướng dẫn giáo viên về hình thức, phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực; xây dựng kế hoạch bài học theo hướng tăng cường, phát huy tính chủ động, tích cực, tự học của học sinh thông qua việc thiết kế tiến trình dạy học thành các hoạt động học để thực hiện cả ở trên lớp và ngoài lớp học. Theo đó, để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh đúng như tinh thần chỉ đạo của Bộ, nhiều giáo viên trong các nhà trường tiểu học hiện nay đã và đang lựa chọn các chủ đề, rà soát nội dung các bài học trong sách giáo khoa tương ứng với chủ đề đó để sắp xếp lại thành một số bài học tích hợp của từng môn học; từ đó, xây dựng kế hoạch giáo dục cho từng môn học, hoạt động giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường. Tuy nhiên việc làm này đang còn gặp rất nhiều khó khăn vì nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như năng lực giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường. Và phần đông giáo viên tiểu học chỉ mới quan tâm đến các môn học như Toán, Tiếng Việt (được coi là môn học chính), các môn còn lại 1 chưa thực sự quan tâm. Trong đó, môn Lịch sử được xem là môn học khó, khô khan. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy học Lịch sử ở tiểu học nhiều giáo viên còn coi nhẹ việc hình thành năng lực tái hiện các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử cho học sinh. Là một giáo viên dạy lớp 5 và là Tổ trưởng tổ chuyên môn, tôi luôn băn khoăn, trăn trở: Làm thế nào để phát huy năng lực cho học sinh trong dạy - học lịch sử ?. Từ thực tiễn quá trình dạy học tôi đã quan tâm đến việc “từng bước cấu trúc nội dung, kế hoạch dạy học các môn học, hoạt động giáo dục; phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh” [6] theo yêu cầu và hướng dẫn của Bộ GD&ĐT. Từ đó khái quát những việc làm của mình thành “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nội dung dạy học lịch sử lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” để giúp học sinh nắm vững những tri thức lịch sử, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức hình thành nhân cách cho các em, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo chủ đề định hướng phát triển năng lực cho học sinh. 2. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề cốt lõi trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực. - Vận dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực trong môn Lịch sử lớp 5. 3. Đối tượng nghiên cứu Trong phạm vi đề tài này, như tên gọi của nó, tôi tập trung nghiên cứu các vấn đề lí luận về nội dung dạy học theo định hướng phát triển năng lực để vận dụng vào việc dạy – học lịch sử. 4. Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp điều tra: - Mục đích để tìm hiểu các nội dung dạy học của giáo viên; tìm hiểu tính tích cực nhận thức của học sinh. 2. Phương pháp thực nghiệm: - Dạy thực nghiệm tại lớp 5A, 5B để đối chiếu kiểm nghiệm, đánh giá hiệu quả nghiên cứu. 3. Phương pháp trực quan: - Tìm hiểu nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập… - Trao đổi với giáo viên – học sinh để tìm hiểu thực trạng dạy – học môn Lịch sử lớp 5. 2 B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.Khái niệm năng lực và dạy học theo định hướng phát triển năng lực 1.1. Khái niệm năng lực Theo từ điển Tiếng Việt: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Hoặc: Năng lực là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành công một loại công việc trong một bối cảnh nhất định. Năng lực gồm có năng lực chung và năng lực đặc thù. Năng lực chung là năng lực cơ bản cần thiết mà bất cứ người nào cũng cần phải có để sống và học tập, làm việc. Năng lực đặc thù thể hiện trên từng lĩnh vực khác nhau như năng lực đặc thù môn học là năng lực được hình thành và phát triển do đặc điểm của môn học đó tạo nên. 1.2. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực Các nhà lí luận và phương pháp học cho rằng: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là phương pháp tích tụ dần dần các yếu tố của phẩm chất và năng lực người học để chuyển hóa và góp phần cho việc hình thành, phát triển nhân cách. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học được xem như một nội dung giáo dục, một phương pháp giáo dục như phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Điểm khác nhau giữa các phương pháp là ở chỗ dạy học phát triển năng lực người học có yêu cầu cao hơn, mức độ khó hơn, nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách là chủ thể có nghĩa là: Về mục tiêu: Kết quả học tập cần đạt được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được; thể hiện được mức độ tiến bộ của HS một cách liên tục. Về nội dung: Lựa chọn những nội dung nhằm đạt được kết quả đầu ra đã quy định, gắn với các tình huống thực tiễn. Chương trình chỉ quy định những nội dung chính, không quy định chi tiết. Về phương pháp: Giáo viên chủ yếu là người tổ chức hỗ trợ HS tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp. Chú trọng sử dụng các quan điểm phương pháp dạy học tích cực, các phương pháp dạy học thực nghiệm thực hành… Về hình thức dạy học: Tổ chức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học. [9] Kết quả học sinh với vai trò chủ thể đạt được là các chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình đã được Bộ giáo dục quy định, trong đó chú trọng đến khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống thực tiễn và kết quả này có tính đến sự tiến bộ, thái độ trong quá trình học tập. Nói một cách khác 3 kết quả học tập của học sinh đạt được là “bốn H”: Học để biết- Học để làm- Học để cùng chung sống và học để tự khẳng định. Dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV- HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. 2. Phân loại năng lực 2.1. Năng lực chung Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi, làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp như: năng lực nhận thức, năng lực trí tuệ, năng lực về ngôn ngữ và tính toán; năng lực giao tiếp, năng lực vận động…. Các năng lực này được hình thành và phát triển dựa trên bản năng di truyền của con người, quá trình giáo dục và trải nghiệm trong cuộc sống; đáp ứng yêu cầu của nhiều loại hình hoạt động khác nhau. 2.2.Năng lực chuyên biệt Năng lực chuyên biệt là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt. Năng lực chuyên biệt của môn Lịch sử được hình thành trên cơ sở những năng lực chung, kết hợp với đặc thù môn Lịch sử và chương trình giáo dục phổ thông. Năng lực chuyên biệt cần hình thành và phát triển cho học sinh trong môn Lịch sử ở cấp Tiểu học là:Năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử; năng lực nhận thức xã hội;năng lực thực hành và vận dụng (Năng lực phương pháp học tập bộ môn); năng lực nhận xét, đánh giá rút ra bài học lịch sử từ những sự kiện, hiện tượng, vấn đề, nhân vật lịch sử; năng lực vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Dạy học theo định hướng hình thành và phát triển năng lực người học không chỉ chú trọng phát triển các năng lực chung, cốt lõi mà còn chú trọng phát triển cả năng lực chuyên biệt (môn học). Do đó trong dạy học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực cũng vậy , điều quan trọng nhất là giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực chung và năng lực chuyên biệt của bộ môn Lịch sử. Để làm được điều đó đòi hỏi người giáo viên trong quá trình dạy học cần tăng cường gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, ứng dụng trong thực tiễn. Tăng cường việc học tập theo nhóm, cộng tác, chia sẻ nhằm phát triển nhóm năng lực xã hội. 4 II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY- HỌC LỊCH SỬ HIỆN NAY Việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường tiểu học nói chung và Trường Tiểu học Cẩm Vân nói riêng hiện nay hết sức được quan tâm từ việc chỉ đạo của nhà trường đến đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên.Tuy nhiên qua tìm hiểu , dự giờ và trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy- học cũng như sử dụng các phương pháp dạy- học phát huy năng lực học sinh chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lí thuyết. Chưa tập trung cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy. Tình trạng "dạy chay", bắt học thuộc lòng một cách máy móc vẫn là tình trạng phổ biến. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực tiễn chưa thực sự được quan tâm. Nhiều giáo viên còn gặp khó khăn trong việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Ngoài ra, bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên chưa thực sự hiểu sâu về phương pháp dạy học và kiến thức còn lệ thuộc vào sách giáo khoa, tức là chưa làm chủ được kiến thức dẫn đến giờ học khô khan nhàm chán và nặng nề. Tình trạng này đã làm mất đi tính hấp dẫn của môn lịch sử. Hơn nữa, do tư tưởng coi môn lịch sử là “môn phụ”, nên nhiều học sinh không thích học lịch sử, chưa thực sự chú ý, quan tâm nhiều đến môn này. Nhiều em còn “mơ hồ” về lịch sử dân tộc. Những sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc nhiều học sinh không biết và không hiểu. Các em còn thiếu các kỹ năng cơ bản của bộ môn và năng lực vận dụng liên hệ kiến thức lịch sử đã học để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra là rất hạn chế. Từ thực trạng việc dạy học sử nói trên thì việc tổ chức cho học sinh học tập theo định hướng phát triển năng lực là vô cùng cần thiết.Qua đó phát huy được sự chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập, hình thành và phát triển các năng lực cho học sinh: tái hiện, thực hành bộ môn, nhận xét, vận dụng liên hệ kiến thức... Như vậy, các em không chỉ biết, hiểu sâu sắc kiến thức mà còn vận dụng tốt những điều đã học để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỤ THỂ 1. Giáo viên phải nắm vững nội dung và mục tiêu dạy học của phân môn lịch sử lớp 5 để thiết kế các hoạt động dạy học phù hợp với năng lực chung của cả lớp và năng lực của từng học sinh. Cũng như các môn học khác, khi dạy học phân môn lịch sử giáo viên phải nắm vững nội dung và mục tiêu môn học. Vì khi đã nắm vững nội dung và mục tiêu môn học, giáo viên sẽ dễ dàng thiết kế các hoạt động dạy học phù hợp giúp học sinh nắm kiến thức một cách vững chắc qua đó phát triển năng lực cho học sinh. Do đó, để dạy tốt phân môn lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học việc đầu tiên tôi làm đó là nắm vững nội dung và mục tiêu môn lịch sử: * Về nội dung bao gồm các chủ đề: một số sự kiện, hiện tượng , nhân vật lịch sử Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta năm 1858 đến nay: 5 - Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp xâm lược và đô hộ (1858 – 1945) gồm 11 bài (gồm cả bài ôn tập): Bình Tây Đại nguyên soái; Trương Định; Nguyễn Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước; Cuộc phản công ở kinh thành Huế; Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX; Phan Bội Châu và phong trào Đông du; Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước; Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời; Xô viết Nghệ - Tĩnh; Cách mạng mùa thu; Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập và bài ôn tập. - Bảo vệ chính quyền non trẻ, trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) gồm 7 bài : Vượt qua tình thế hiểm nghèo; “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước”; Thu – đông 1947; Việt Bắc “ mồ chôn giặc Pháp”; Chiến thắng Biên giới thu - đông 1950; Hậu phương những năm sau chiến dich Biên giới; Chiến tháng lịch sử Điện Biên Phủ; Ôn tập. - Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước (1954 – 1975) gồm 8 bài : Nước nhà bị chia cắt; Bến Tre đồng khởi; Nhà máy hiện đại đầu tiên của nước ta; Đường Trường Sơn; Sấm sét đêm giao thừa; Chiến thắng “ Điện Biên Phủ trên không”; Lễ kí Hiệp định Pa-ri; Tiến vào Dinh Độc Lập. - Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước (Từ năm 1975 đến nay) gồm 3 bài: Hoàn thành thống nhất đất nước; dựng nhà máy Thủy điện Hòa Bình; Ôn tập. *Về mục tiêu của phân môn lịch sử: - Cung cấp kiến thức về các sự kiện, nhân vật, lịch sử tiêu biểu, tương đối có hệ thống theo dòng thời gian lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nay. - Hình thành kỷ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu nhập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau. - Nêu thắc mắc, điết đặt câu hỏi trong quá trính học tập và chọn thông tin để giải đáp. - Nhận biết đúng các sự vật , sự kiện, hiện tượng lịch sử . - Trình bày lại kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, sơ đồ, bảng thống kê, phiều học tập ,… - Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống . - Góp phần cho học sinh thói quen ham học hỏi, tìm hiểu để biết về lịch sử của dân tộc . - Biết yêu thiên, con người, quê hương, đất nước. - Tôn trọng, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và các di tích lịch sử văn hoá.[8]. Với việc nắm vững nội dung và mục tiêu dạy học của phân môn lịch sử lớp 5 sẽ giúp giáo viên có phương pháp , hình thức tổ chức dạy học phù hợp với 6 năng lực chung của cả lớp và năng lực của từng học sinh. đảm bảo học sinh có thể phát triển ở mức tối đa. 2. Trong dạy học Lịch sử tập trung những giá trị cốt lõi, tăng cường cho học sinh vận dụng kiến thức vững vàng vào giải quyết vấn đề Dạy và học theo định hướng phát triển năng lực học sinh đòi hỏi người giáo viên, trong quá trình dạy học phải phát huy tốt vai trò của người tổ chức, phân công và hướng dẫn, điều khiển quá trình nhận thức, biết cách khuyến khích, cổ vũ học sinh tham gia vào hoạt động nhận thức tích cực trong dạy học, Chú trọng hoạt động trải nghiệm sáng tạo nghiên cứu khoa học của học sinh, tăng cường cho học sinh vận dụng kiến thức đã học một cách vững vàng để từ đó các em biết vận dụng vào giải quyết vấn đề các vấn đề thực tiễn. .. Ví dụ: Khi học Bài 14. Thu –Đông 1947, Việt Bắc “Mồ chôn giặc Pháp”; Bài 15: “Chiến thắng Biên giới Thu – Đông 1950”; Bài 17.”Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ”, tùy điều kiện cụ thể của nhà trường và địa phương, cần tổ chức các hoạt động phát triển năng lực cho học sinh. Chẳng hạn, giáo viên có thể tổ chức để học sinh thi tìm hiểu, thu thập thông tin từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau (tư liệu viết, phim, ảnh, nhân chứng lịch sử hoặc tại bảo tàng, thực địa..) về chiến dịch Việt Bắc, Biên giới, Điện Biên Phủ. Qua đó rèn cho học sinh kĩ năng làm việc với tư liệu lịch sử, thu thập thông tin, hình thành kiến thức từ nhiều nguồn sử liệu một cách chủ động sáng tạo…. Học sinh cực tham gia thi tìm hiểu nhằm phát triển năng lực bản thân 3. Xác định năng lực cần rèn cho học sinh qua từng bài học cụ thể Có rất nhiều năng lực chung và năng lực chuyên biệt của môn Lịch sử, ở sáng kiến này tôi chỉ đi sâu tìm hiểu một số năng lực chuyên biệt cần được hình thành và phát triển cho học sinh: 7 3.1 Năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử: Là khả năng của học sinh tái hiện lại các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng đến lịch sử thế giới và dân tộc. Năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử của học sinh được thể hiện dưới hình thức ngôn ngữ nói và viết. Để hình thành được năng lực này cho học sinh, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững các sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử; khi trình bày ngôn ngữ phải trong sáng, gãy gọn, dùng từ chính xác và bằng ngôn ngữ của mình; có thể kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan, tài liệu tham khảo. Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy, việc giúp học sinh hình thành năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử không phải là dễ vì nội dung lịch sử quá nhiều, trước khối lượng kiến thức quá lớn từ năm, tháng, địa danh, nhân vật, diễn biến, kết quả, ý nghĩa…, học sinh khó có thể nhớ nổi và học thuộc các kiến thức đó, nhiều học sinh rất lúng túng trong việc trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Do đó giáo viên phải hướng dẫn cụ thể cho các em ghi nhớ thời gian xảy ra sự kiện lịch sử: Mỗi bài, mỗi chương, mỗi quá trình đều có những sự kiện gắn liền với thời gian nhất định; cần dạy cho các em kỹ năng ghi nhớ lôgic biết tìm ra điểm tựa để nhớ, lập dàn ý, lập bảng hệ thống hóa. Ghi nhớ nhân vật lịch sử: Thông thường mỗi sự kiện đều gắn liền với những nhân vật nhất định. Giáo viên cần cân nhắc trong các sự kiện lịch sử, có những nhân vật lịch sử quan trọng nào, cần làm nổi bật những nhân vật nào? Nhằm đạt yêu cầu giáo dục nào? Và luôn động viên các em tự tin, bình tĩnh trình bày vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc.Với cách làm như vậy dần sẽ hình hình thành cho các em năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử một cách tốt nhất. Ví dụ: Bài 9: Cách mạng mùa thu (Lịch sử lớp 5 trang 19) Để hình thành năng lực tái hiện lịch sử cho học sinh, giáo viên treo tranh và hướng dẫn học sinh quan sát, kết hợp với phần kênh chữ ở sách giáo khoa để tìm hiểu về Cách mạng tháng 8 năm 1945 (ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn) *Hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức qua ảnh: “Cách mạng tháng 8 năm 1945 (ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn) + Kiến thức học sinh cần khai thác qua ảnh: Giúp HS thấy được khí thế cách mạng của quần chúng khi nổi dậy cướp chính quyền; lòng yêu nước, sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân. 8 Mặt khác là những minh chứng về thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa qua việc cướp chính quyền tại ba trung tâm chính trị - kinh tế - xã hội lớn nhất đất nước, đặc biệt là thủ đô Hà Nội. + Có thể khai thác các bức ảnh để minh họa cho lời giảng của giáo viên khi dạy về diễn biến và ý nghĩa của Cách mạng mùa thu. - Trước hết cần giới thiệu cho học sinh biết những địa danh trong các bức ảnh, giáo viên nhấn mạnh tính tiêu biểu, điển hình của các địa danh đó (Ví dụ: Phủ Khâm sai là trụ sơ bộ máy chính quyền địch...) Giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi để dẫn dắt học sinh để khai thác tư liệu như: Hãy nhận xét về khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân được thể hiện qua các bức ảnh... [7] Sau khi học sinh trình bày xong, HS khác nhận xét sau đó giáo viên sẽ nhận xét. Với những học sinh trình bày chưa tốt, giáo viên động viên rút kinh nghiệm cho các em về cách dùng từ. Với cách làm như vậy, giáo viên sẽ hình thành năng lực tái hiện lịch sử cho học sinh, giúp các em tự tin để trình bày tốt vấn đề lịch sử. 3.2. Năng lực thực hành môn lịch sử: Năng lực này được thể hiện ở chỗ học sinh biết quan sát, đọc, khai thác nội dung lịch sử thông qua bản đồ, lược đồ, tranh ảnh... Các em còn biết lập niên biểu các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, các chiến dịch, các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thành tựu về kinh tế, văn hóa...Để giúp học sinh phát triển tốt năng lực thực hành môn lịch sử, trong quá trình giảng dạy tôi tập trung hình thành cho các em các năng lực cơ bản sau đây: * Hình thành cho học sinh năng lực quan sát, đọc và trình bày diễn biến trên bản đồ, lược đồ và biết khai thác nội dung cần thiết thông qua bản đồ, lược đồ: Có thể khăng định rằng bản đồ, lược đồ và tranh ảnh là một kênh thông tin cần thiết, trực quan để cung cấp kiến thức cho học sinh, là nguồn tư liệu lịch sử quan trọng, một bộ phận cấu thành của bài học lịch sử giúp các em dễ nhận biết và nhớ lâu kiến thức lịch sử. Do đó, trong quá trình dạy học người giáo viên cần quan tâm đến kỹ năng chỉ bản đồ, lược đồ và trình bày diễn biến trên lược đồ của học sinh. Để giúp học sinh thực hiện tốt kỹ năng này người giáo viên cần phải: -Hướng dẫn cho học sinh biết tên của bản đồ, lược đồ. -Hướng dẫn học sinh đọc bảng chú giải để hiểu rõ nội dung các kí hiệu thể hiện trên bản đồ, lược đồ. -Hướng dẫn học sinh khai thác nội dung các sự kiện lịch sử, kiến thức lịch sử được diễn đạt bằng ngôn ngữ bản đồ, từ đó rút ra những kết luận cần thiết. Giáo viên cần lưu ý học sinh khi lên trình bày cần đứng ở bên phải bản đồ, lược đồ, tay phải dùng que chỉ các địa điểm cho thật chính xác. Đối với việc 9 trình bày diễn biến một trận đánh trên bản đồ hay lược đồ, giáo viên cần hướng dẫn học sinh kết hợp với phần kênh chữ trong sách giáo khoa để tường thuật được đầy đủ. Ví dụ: Bài 17 “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ” ( Lịch sử lớp 5 trang 37) Khi cho học sinh tường thuật về chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi đã tiến hành như sau: -Treo lược đồ cho HS quan sát và yêu cầu học sinh: +Đọc tên lược đồ. + Đọc bảng chú giải để hiểu rõ nội dung các kí hiệu thể hiện trên lược đồ. +Lên chỉ vị trí, địa hình của Điện Biên Phủ trên lược đồ. -Cho HS khác nhận xét, giáo viên nhận xét. Sau đó: -GV giới thiệu về đặc điểm vị trí, địa hình của Điện Biên Phủ. -Giới thiệu về cấu trúc của tập đoàn cứ điểm này (3 phân khu phong thủ) -Y/C học sinh quan sát lược đồ thảo luận theo nhóm và tường thuật những nét sơ lược về diễn biến chính của chiến dịch (ta tấn công và tiêu diệt tập đoàn cứ điểm trong 3 đợt) Từ việc quan sát, xác định vị trí địa hình của Điện Biên Phủ tường thuật những nét sơ lược về diễn biến chính của chiến dịch đã phần nào đó giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản về chiến dịch Điện Biên Phủ. * Hình thành năng lực lập bảng niên biểu cho học sinh: Bảng niên biểu là hệ thống hóa các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời gian, đồng thời nêu mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay nhiều nước trong một thời kì. Để hình thành thành năng lực lập bảng niên biểu cho học sinh giáo viên cần hướng dẫn các em: - Căn cứ vào nội dung bài học, tìm những vấn đề, nội dung có thể hệ thống hóa bằng cách lập bảng. Đó là các sự kiện theo trình tự thời gian, các lĩnh vực. Nhưng chú ý chỉ nên chọn những vấn đề tiêu dễ nắm kiến thức nhất. -Lựa chọn hình thức lập bảng với các tiêu chí phù hợp. -Lựa chọn kiến thức, đảm bảo các yêu cầu cơ bản, chính xác, ngắn gọn. 10 Có rất nhiều sự kiện cũng diễn ra trong một thời điểm, vì vậy phải biết chọn lọc những gì cơ bản nhất, sử dụng từ ngữ chính xác, cô đọng, không nên ôm đồm nhiều kiến thức khiến việc lập bảng trở nên rờm rà, mất đi tính hệ thống lôgic. Ví dụ: Khi dạy bài: Ôn tập: Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp xâm lược và đô hộ (1858-1945) ( Lịch sử lớp 5 trang 23) Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng niên biểu về một số sự kiện mà em cho là tiêu biểu nhất trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.Giáo viên tổ chức cho HS thảo luận theo nhóm. Học sinh các nhóm sẽ thảo luận trong thời gian 5-7 phút, sau đó đại diện các nhóm sẽ báo cáo kết quả. Giáo viên và học sinh sẽ nhận xét, bổ sung để hoàn thiện bảng niên biểu như sau: Thời gian 1945-1946 19-12-1946 Cuối năm 1946 1947 1950 1951-1953 1954 Sự kiện lịch sử tiêu biểu Đẩy lùi giặc đói, giặc dốt Kêu gọi toàn quốc kháng chiến Đồng loạt nổ súng chống giặc Pháp, tiêu biểu là cuộc chiến đấu của nhân dân Hà Nội Chiến dịch Việt Bắc thu - đông Chiến dịch Biên Giới thu - đông Xây dựng hậu phương vững mạnh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng * Hình thành năng lực lập sơ đồ tư duy cho học sinh: Trong sự phát triển của tư duy nói chung cho học sinh, mỗi môn học ở trường đều góp phần hình thành những nét riêng của mình như tư duy toán học, tư duy khoa học…và môn Lịch sử cũng hình thành tư duy lịch sử. Việc phát triển tư duy của các em được tiến hành trong các quá trình dạy học Lịch sử, thông qua mọi khâu, mọi hình thức hoạt động giáo dục của bộ môn. Chính vì thế trong quá trình dạy học lịch sử tôi thường xuyên qua tâm đến việc phát triển tư duy của học sinh thông qua việc hình thành năng lực lập sơ đồ tư duy cho học sinh. Và tôi nhận thấy: - Dùng sơ đồ tư duy để minh họa sẽ làm cho nội dung bài học được trình bày ngắn gọn, cô đọng làm cho học sinh dễ tiếp thu, nhớ bài giảng lâu hơn. - Trong một thời gian ngắn có thể khái quát được một khối lượng kiến thức lớn, có lôgíc giúp học sinh tìm hiểu được bản chất quy luật, xâu chuỗi các kiến thức và tái hiện lại tri thức khi cần thiết. - Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh cùng thực hiện sơ đồ bài học, dễ phát huy tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Ví dụ : Khi dạy bài “Hoàn thành thống nhất đất nước” ( Lịch sử lớp 5 trang58 ) sau khi học sinh tìm hiểu xong nội dung bài học, giáo viên động viên, 11 khuyến khích học sinh vẽ sơ đồ tư duy biểu diễn ý nghĩa của chiến thắng lịch sử 30/4/1975 Giáo viên tổ chức cho HS thảo luận theo nhóm. Học sinh các nhóm sẽ thảo luận trong thời gian 5 phút, sau đó đại diện các nhóm sẽ báo cáo kết quả. Giáo viên và học sinh khác nhận xét, bổ sung để hoàn thiện sơ đồ như sau: Giải phóng hoàn toàn Miền Nam Đánh nhào Ý nghĩa của chiến thắng cho Ngụy Mỹ thua rút về nước lịch sử Thống nhất đất nước 30/4/197 5 Cổ vũ các nước khác 3.3. Năng lực nhận xét, đánh giá rút ra bài học lịch sử từ những sự kiện, hiện tượng, vấn đề, nhân vật lịch sử. Năng lực này thể hiện ở chỗ học sinh biết nhận xét, đánh giá các vấn đề lịch sử: các phong trào yêu nước theo những khuynh hướng khác nhau, những hoạt động của các cá nhân tiêu biểu, các phong trào cách mạng, các hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao...Học sinh nhận thức được nguyên nhân và hệ quả của những sự vật, sự kiện, hiện tượng tiêu biểu, nổi bật trong xã hội, mối quan hệ biện chứng giữa chúng, từ đó rút ra những bài học cho hiện tại. Ví dụ : Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” ( Lịch sử lớp 5 trang 14), sau khi học sinh tìm hiểu xong, giáo viên giao bài tập về nhà cho học sinh: Viết một đoạn văn khoảng 250 từ nói Bác Hồ. Để làm bài tập này, giáo viên hướng dẫn học sinh về nhà khai thác thông tin trên mạng Intenet, kết hợp với nội dung bài học trên lớp. Đến giờ học hôm sau, giáo viên kiểm tra việc làm bài tập ở nhà của các em. Đây là bài tập phát triển nhiều năng lực của học sinh. Qua việc chuẩn bị bài của học sinh, giáo viên đánh giá được năng lực tự học, năng lực khai thác công nghệ thông tin, khả năng viết văn của học sinh như thế nào. Học sinh trình bày bài tập của mình, học sinh khác bổ sung sau đó giáo viên chốt ý đúng về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của Bác. Với cách làm này tôi nhận thấy học sinh rất tích cực và hào hứng tham gia. Không những thế các em còn chịu khó tìm hiểu và viết rất hay: 12 HS tham gia viết một đoạn văn nói Bác Hồ Ngoài ra, thông qua các hội thi kể chuyện, giúp các em rút ra những bài học qua từng câu chuyện về Bác. Học sinh tham gia kể chuyện về Bác Hồ 3.4. Năng lực vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Năng lực vận dụng kiến thức của học sinh là khả năng của bản thân người học huy động, sử dụng những kiến thức, kĩ năng đã học trên lớp hoặc học qua 13 trải nghiệm thực tế của cuộc sống để giải quyết những vấn đề đặt ra trong những tình huống đa dạng và phức tạp của đời sống một cách hiệu quả và có khả năng biến đổi nó. Năng lực vận dụng kiến thức thể hiện phẩm chất, nhân cách của con người trong quá trình hoạt động để thỏa mãn nhu cầu chiếm lĩnh tri thức. Việc phát triển năng lực vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào trong học tập, trong cuộc sống giúp các em học đi đôi với hành. Giúp học sinh xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết; năng lực tự học. Hình thành cho học sinh kĩ năng quan sát, thu thập, phân tích và xử lý thông tin, hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học; hình thành và phát triển kĩ năng nghiên cứu thực tiễn; Có tâm thế luôn luôn chủ động trong việc giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn; Để hình thành năng lực này cho học sinh, giáo viên cần định hướng cho các em vấn đề cần liên hệ giữa kiến thức đã học với thực tiễn là gì: vấn đề môi trường hay vấn đề biển đảo, tranh chấp biến giới hoặc xu thế toàn cầu hóa... Tạo cơ hội cho học sinh tham gia các hoạt động tập thể của Nhà trường. Học sinh lớp 5 liên hệ, vẽ tranh và thuyết trình về chủ đề biển đảo Tùy từng nội dung liên hệ mà giáo viên sẽ có những gợi ý cần thiết cho học sinh. Sau đó giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm trên lớp hoặc giao cho học sinh về nhà làm. Bằng tư duy tích cực của bản thân, kết hợp trao đổi với bạn bè, học sinh sẽ trình bày ý kiến theo cách hiểu và lập luận của mình. Giáo viên cũng cần lưu ý với những câu hỏi vận dụng kiến thức vào thực tiễn thì câu trả lời là đáp án mở, không có lời giải cố định. Học sinh có thể đưa ra những cách giải quyết khác nhau với lập luận chặt chẽ, hợp lý đều đúng. Ví dụ : Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” ( Lịch sử lớp 5 trang 14 ), tôi đã tổ chức cho học sinh thảo luận câu hỏi sau: Nếu em là anh Tư Lê, em có đồng ý đi sang phương Tây tìm đường cứu nước với anh Nguyễn Tất Thành không? Vì sao? 14 Với câu hỏi mở này đòi hỏi học sinh phải tích cực suy nghĩ kết hợp trao đổi với bạn bè trình bày ý kiến theo cách hiểu và lập luận của mình qua đó hình thành năng lực vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào trong học tập, trong cuộc sống . 4. Quan tâm các vấn đề thực tiễn, phát triển năng lực hoc sinh Trước đây, nhà trường là nơi duy nhất để ta tiếp nhận kiến thức. Ngày nay, thế giới càng trở nên phẳng hơn nhờ sách vở, internet và các phương tiện truyền thông làm cho mọi người đều có thể tiếp cận thông tin, dữ liệu một cách bình đẳng, mọi lúc, mọi nơi. Để học sinh rèn luyện, phát triển năng lực giải quyết vấn đề, Nhà trường cần tổ chức các hoạt động đa dạng, phong phú thu hút học sinh tham gia, như hình thức “Rung chuông vàng”, hình thức giới thiệu sách Học sinh lớp 5 tham gia hội thi “Rung chuông vàng” năm học 2017-2018 Học sinh lớp 5 tham gia hội thi “Giới thiệu sách” năm học 2017-2018 5. Sử dụng các hình thức, phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của hoc sinh Phương pháp dạy học Lịch sử theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ trang bị kiến thức cho học sinh mà đặt trọng tâm rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống; đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Phương pháp dạy học Lịch sử theo định hướng tiếp cận năng lực được thực hiện trên nền tảng những nguyên tắc cơ bản của khoa học lịch sử: thông qua các nguồn sử liệu khác nhau để tái hiện lịch sử, phục dựng một cách khoa học, khách quan, chân thực quá trình phát triển của lịch sử. Thông qua việc tổ chức các hoạt động dạy học đa dạng, giáo viên giúp học sinh phát huy năng lực sáng tạo trong học tập Lịch sử, trở thành “người đóng vai lịch sử”, hay “người làm lịch sử” để khám phá kiến thức lịch sử, vận dụng sáng tạo kiến thức vào các tình huống học tập và thực tiễn cuộc sống. 15 Học sinh tái hiện câu chuyện lịch sử qua hoạt động ngoài giờ lên lớp Chính vì vậy, trong quá trình dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng, người giáo viên phải chú trọng việc đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, lựa chọn và phối hợp có hiệu quả giữa các hình thức tổ chức và phương pháp dạy học lịch sử nhằm hướng dẫn học sinh củng cố hệ thống kiến thức cơ bản, nâng cao nhận thức về lịch sử Việt Nam . Qua đó phát triển năng lực cho các em. 6. Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm Xuất phát từ quan điểm dạy học theo định hướng phát triển năng lực, hiện nay các trường đang thực hiện học tập dưới dạng hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Đây được coi là chìa khóa thực hiện việc học đi đôi với hành, học qua làm, học giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống ngay trong lớp, trong trường. Đây cũng được coi là phương pháp thật sự ưu việt cho sự phát triển năng lực sáng tạo, giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thành các kĩ năng, giá trị và phẩm chất của bản thân. Hầu hết học sinh khi được học tập dưới dạng này đều tỏ ra thích thú hứng khởi. Rất nhiều em thể hiện rõ năng lực của mình qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong các môn học. Hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo là các hoạt động giáo dục thực tiễn được tiến hành song song với hoạt động dạy học trong nhà trường. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một bộ phận của quá trình giáo dục được tổ chức ngoài giờ học các môn văn hóa ở trên lớp và có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy học. Thông qua các hoạt động thực hành, những việc làm cụ thể, học sinh sẽ phát huy vai trò cụ thể, tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo của bản thân. Các em được tham gia vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động . Bên cạnh đó, các em còn được bày tỏ quan điểm ý tưởng và lựa chọn ý tưởng của chính mình. Do vậy mà các em thật sự hào hứng và rất tích cực khi được học tập dưới dạng hoạt động trải nghiệm sáng tạo. 16 Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy khi được học tập dưới dạng hoạt động trải nghiệm nhất là môn lịch sử các em rất tích cực tham gia. Nhiều em tỏ ra có năng lực thật sự khi thể hiện các hoạt động. Đó là một điều mà giáo viên chúng tôi rất mừng. Học sinh lớp 5A trải nghiệm hoạt động: Hướng dẫn, giới thiệu về Nhà trường và hoạt động thư viện với các thầy cô và các bạn học sinh huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái về thăm trường (tháng 05/2018) HS tích cực tham gia các hoạt động sáng tạo ngay tại trường Khi thực hiện, bản thân tôi đều cảm thấy bất ngờ về kết quả thu được. Đa số các em đều hào hứng phấn khởi. Nhiều em bộc lộ rõ năng khiếu của mình Ngay cả một số em học sinh cá biệt rất lười học, nhưng khi tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo thì lại hào hứng, nhiệt tình. Qua đó sẽ giúp các em tiếp cận kiến thức một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, tiếp cận và phát triển năng lực của các em học sinh. 7. Tăng cường sử dụng các kỹ thuật dạy học theo định hướng phát triển năng lực Kỹ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của 17 phương pháp dạy học. Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của học sinh vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học sinh. Trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng việc vận dụng các kỹ thuật dạy học tích cực là vô cùng quan trọng. Do đó tùy thuộc vào nội dung từng bài học mà giáo viên lựa chọn các kỹ thuật dạy học sao cho phù hợp. Để phát huy tối đa việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh trong dạy học lịch sử tôi thường sử dụng “Kỹ thuật KWL”. - Kĩ thuật KWL: là biểu đồ liên hệ các kiến thức đã biết liên quan đến bài học, các kiến thức muốn biết và các kiến thức học được sau bài học, trong đó: + K (Know) - kiến thức/hiểu biết học sinh đã có. + W (Want to Know) – những điều học sinh muốn biết + L (Learned) - những điều HS tự giải đáp / trả lời . - Cách tiến hành: Sau khi giới thiệu bài học,mục tiêu cần đạt của bài học, giáo viên phát phiếu học tập KWL. Kĩ thuật này có thể thực hiện cho cá nhân hoăc cho nhóm học sinh. Học sinh điền các thông tin trên phiếu như sau: Tên bài học:…………………… Tên học sinh:…………………… Lớp:…… Trường:…………………… K W L (Những điều đã biết) (Những điều muốn biết) (Những điều HS tự giải đáp / trả lời ) - - - - - - … … … Yêu cầu học sinh viết vào cột K những gì đã biết liên quan đến nội dung bài học hoặc chủ đề. Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết vè nội dung bài học hoặc chủ đề. Sau khi kết thúc bài học hoặc chủ đề, học sinh điền vào cột L của phiếu những gì vừa học được. Lúc này, học sinh xác nhận về những điều các em đã học được qua bài học đối chiếu với điều muốn biết, đã biết để đánh giá được kết quả học tập, sự tiến bộ của mình qua giờ học. -Tác dụng của việc sử dụng sơ đồ KWL 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan