LỜI NÓI ĐẦU
Hàng thủ công mỹ nghệ là loại hàng hoá khá đặc biệt, vừa
mang giá trị sử dụng lại mang giá trị nghệ thuật, bao gồm các
loại: hàng gốm sứ, hàn thêu ren, hàng cói mây, hàng sơn mài,
chạm khảm... Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ là sự biểu
trưng cho những khía cạnh khác nhau của đời sống tinh thần - xã
hội, của truyền thống văn hoá dân tộc thật độc đáo, thật khác biệt
so với các nền văn hoá khác. Được chế tác hoàn toàn bằng đôi
tay khéo léo của người nghệ nhân, các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ luôn mang đậm dấu ấn của sự sáng tạo, cần cù và tỉ mỉ.
Người tiêu dùng hàng thủ công mỹ nghệ luôn hướng tới giá trị
nghệ thuật, sự tinh tế và tính tiện dụng của sản phẩm. Do vậy
khách hàng tiêu dùng loại sản phẩm này thường có thu nhập
tương đối cao và có lòng yêu mên với nghệ thuật.
Hoạt động xuất khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản
xuất kinh doanh của nền kinh tế nói chung và hiệu quả kinh
doanh của ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng. Từ khi Việt Nam
chính thức gia nhập khối ASEAN và chuẩn bị là một trong
những thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì
xuất khẩu càng trở nên đặc biệt có ý nghĩa.
Có thể nói xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ đơn
thuần là góp phần kích đẩy sự phát triển của nền kinh tế mà nó
còn có ý nghĩa to lớn khác đó là sự đóng góp tích cực vào việc
phát huy vốn văn hoá cổ truyền, giới thiệu và truyền bá nét đặc
sắc của văn hoá dân tộc đến bạn bè thế giới.
1
Trước tình hình hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ trên, em đã chọn đề tài: "Một số biện pháp nâng cao hiệu
quả hợp đồng gia công hàng xuất khẩu ở Công ty Artexport".
Nội dung bản chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận còn
bao gồm:
Chương I :Khái quát cơ sở lý luận của hàng xuất khẩu.
Chương II : Thực trạng gia công xuất khẩu ở Công ty
Artexport.
Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hợp đồng gia
công hàng xuất khẩu của Công ty xuất nhập khẩu
thủ công mỹ nghệ Artexport.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tinh của
thầy giáo, sự tận tình chỉ dạy của bác trưởng phòng, các cô chú
trong phòng thêu ren của Công ty Artexporrt và sự giúp đỡ của
phòng Tổ chức hành chính, phòng Tài chính - kế hoạch đã giúp
em có đủ điều kiện để hoàn tất bản chuyên đề này.
Sinh viên
Giang Ngọc Quý
2
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CƠ SỞ LÝ LUẬN HÀNG XUẤT KHẨU
I. XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ MỞ.
1. Bản chất của thương mại quốc tế.
Trước hết, thương mại xuất hiện từ sự đa dạng và điều kiện
tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá sản
xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác
từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn
sẽ đem lại lợi nhuận lớn.
Tuy nhiên, sự khác nhau về điều kiện sản xuất không thể
giải thích được tại sao những nước đã sản xuất một mặt hàng mà
3
vẫn nhập khẩu mặt hàng đó, tại sao những nước có trình độ sản
xuất thấp lại vẫn có thể thao gia trao đỏi buôn bán với những
nươc công nghiệp phát triển? Những câu hỏi đó chỉ có thể giải
thích bằng lý thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người
Anh - David Ricardo (1772 - 1823).
Theo lý thuyết này, nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào các
sản phẩm mà nươc đó có lợi thế tương đối (hay hiệu quả sản xuất
so sánh cao nhất) thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Thậm
chí nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia
khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó
vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho
mình. Khi tham gia vào thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả
thấp trong sản xuất hầu hết các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá
sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít
bất lợi nhất và nhập khẩu các loại hàng mà việc sản xuất chúng
bất lợi nhiều nhất.
Như vậy, việc mỗi nước đi vào chuyên môn hoá sản xuất
loại hàng nước đó có lợi thế so sánh sẽ làm giảm chi phí sản
xuất, do đó lợi ích thu được do thực hiện trao đổi buôn bán quốc
tế sẽ tăng cao hơn. Đồng thời, việc buôn bán quốc tế cũng góp
phần làm thoả mãn những nhu cầu, sở thích khác nhau ở các
quốc gia trên thế giới.
Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, con đường xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ theo kiểu cô lập với bên ngoài, tự cấp,
tự túc hay thay thế nhập khẩu là hoàn toàn không có sức thuyết
phục. Thực tế cho thấy con đường dẫn đến phát triển nhanh, bền
vững không phải qua chuyên môn hoá ngày càng sâu, rộng để
sản xuất ra những sản phẩm sơ chế, mà thông qua việc mở rộng
và phát triển các ngành sản xuất chế biến sâu, có giá trị thặng dư
4
cao hướng về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả cao hơn để khai thác tốt
nhất các lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên
nhiên, vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường cho sự phát triển.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế mở.
Mỗi quốc gia cũng như mỗi cá nhân không thể sống riêng rẽ
mà vẫn có thể đáp ứng được hết nhu cầu của mình. Thương mại
quốc tế có ý nghĩa sống còn vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng tất
cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với
ranh giới của đường giới hạn khả năng sản xuất (nếu nước đó
thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán).
Xuất khẩu là hoạt động thương mại quốc tế có vai trò quan
trọng, là cơ sở của nhập khẩu và hoạt động kinh doanh đem lại
lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Đối với
nước ta, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là nhiệm vụ chiến lược để
phát triển và thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện ở những mặt sau:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có số
vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn cho nhập khẩu bao gồm các
nguồn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du
lịch, dịch vụ, xử lý sức lao động... Trong đó, nguồn vốn từ hoạt
động xuất khẩu là quan trọng nhất, quyết định quy mô và tốc độ
tăng của nhập khẩu.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền
kinh tế hướng ngoại.
5
Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau:
+ Xuất khẩu những sản phẩm của nước ta cho nước ngoài.
+ Xuất khẩu từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức
sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà các nước khác cần.
Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ
hội phát triển thuận lợi. Ví dụ khi phát triển ngành thủ công mỹ
nghệ thì sẽ tạo cơ hội cho các ngành sản xuất nguyên liệu như
gồ, mây, gốm...
+ Xuất khả tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung
cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến từ nước ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá trong nước có điều kiện
tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới.
+ Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi
mới, hoàn thiện công tác l kinh doanh, nâng cao chất lượng và hạ
giá thành sản phẩm.
- Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống
của nhân dân.
Hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu đã thu hút hàng triệu lao
động, tạo ra nguồn vón để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết
yếu phục vụ đời sống của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ
kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế
6
đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với sự phân công
lao động quốc tế.
Như vậy, vai trò của hoạt động xuất khẩu là không thể phủ
nhận. Đối với đất nước ta, kể từ khi chuyển đổi cơ chế kinh tế từ
tập trung sang cơ chế thị trường, thực hiện khẩu hiệu "Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước", nền kinh tế đã có những
chuyển biến rõ rệt. Đến này, chúng ta đã có quan hệ với hơn 150
quốc gia, ký hiệp định thương mại với 60 nước trên thế giới.
Hàng hoá của Việt Nam đã được xuất đi nhiều nước, kim ngạch
xuất khẩu có xu hướng ngày càng tăng qua các năm. Nếu như
năm 1990, giá trị xuất khẩu của nước ta là 2,404 tỷ USD, năm
1991 là 2,0871 tỷ USD thì đến năm 1995 là 5,4489 tỷ USD, năm
1998 đạt 9,361 tỷ USD và năm 1999 là 11,523 tỷ USD 1. Như
vậy, năm 1999 so với năm 1990 giá trị xuất khẩu đã tăng 379,3%
một con số chứng tỏ trình độ phát triển trong giao dịch thương
mại quốc tế của Việt Nam.
Cùng với sự tăng trưởng trong xuất khẩu, vấn đề công ăn
việc làm cho người lao động trong nước cũng được giải quyết. Ở
nước ta, do trình độ của người công nhân chưa cao nên nếu xuất
khẩu được khoảng 1 tỷ USD thì sẽ tạo được việc làm cho 50.000
lao động. Như vậy, với 11,523 tỷ USD xuất khẩu năm 1999 thì
spps việc làm tạo ra cho người lao động là khá lớn, góp phần vào
việc giải quyết nạn thất nghiệp hiện nay. Năm 1999, tỷ lệ thất
nghiệp của người lao động ở khu vực thành thị trong độ tuổi lao
động là 7,4%, tỷ lệ này của cả nước là 6,86%. Đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu tạo cho chúng ta cơ hội khai thác có hiệu quả
nhất mọi lợi thế của đất nước như lợi thế về con người, tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý... đồng thời tạo điều kiện phát
1
Theo thời báo kinh tế "Kinh tế 1999 - 2000 - Việt Nam và Thế giới"
7
triển những ngành nghề có nhiều tiềm năng, góp phần đẩy mạnh
công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
3. Các hình thức xuất khẩu.
Mỗi quốc gia, mỗi tổ chức khi tham gia vào các hoạt động
thương mại quốc tế đều có sẵn những thế mạnh cũng như điểm
yếu riêng của mình. Mục tiêu khi tham gia buôn bán của các bên
đều là lợi nhuận, do đó họ phải lựa chọn cho mình phương thức
giao dịch có lợi nhất, thoả mãn được các mục đích kinh doanh
của họ, đồng thời giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra. Giao
dịch quốc tế có nhiều hình thức, có thể nêu ra sau đây một vài
hình thức chủ yếu:
* Xuất khẩu trực tiếp.
Là việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ do chính doanh
nghiệp đó sản xuất ra hoặc mua từ các đơn vị sản xuất trong
nước tới khách hàng thông qua các tổ chức của mình.
Xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng rủi ro trong kinh doanh
song lại có ưu điểm là giảm bớt chi phí trung gian và từ đó tăng
lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đồng thời phương thức này cũng
khiến doanh nghiệp có sự liên hệ trực tiếp với khách hàng và thị
trường nước ngoài, gắn doanh nghiệp với nhu cầu của thị trường
để có thể sản xuất và xuất khẩu hàng hoá theo đúng yêu cầu của
khách hàng.
* Xuất khẩu uỷ thác.
Là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị ngoại thương đóng
vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký
kết hợp đồng mua bán ngoại thương, tiến hành các thủ tục cần
thiết để xuất khẩu hàng hoá của nhà sản xuất và qua đó thu một
8
số tiền nhất định (thường là tỷ lệ % của giá trị lô hàng xuất
khẩu).
Ưu điểm của phương thức này là mức độ rủi ro thấp, không
cần bỏ vốn vào kinh doanh và có thể thu về một khoản lợi nhuận
đáng kể. Ngoài ra trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại
thuộc về người sản xuất.
* Buôn bán đối lưu.
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu gắn liền với
nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá
mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích xuất
khẩu ở đây không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm
có được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị lô
hàng xuất khẩu.
Lợi ích của buôn bán đối lưu là tránh được những rủi ro về
sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường, đồng thời còn có
lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán lô hàng nhập
khẩu của mình. Bên cạnh đó, đối với một quốc gia, buôn bán đối
lưu còn có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán
cân thanh toán.
* Giao dịch qua trung gian.
Là việc giao dịch mà mọi việc thiết quan hệ giữa người bán
và người mua đều phải thông qua người thứ ba gọi là trung gian
thương mại. Người này thay mặt cho bên mua giao dịch với bên
bán, thay mặt bên bán giao dịch với bên mua hoặc thay mặt cả
hai bên để đưa ra các điều kiện giao dịch buôn bán. Người thứ ba
này thường là đại lí, môi giới.
9
Ưu điểm của việc sử dụng người trung gian là có thể tận
dụng cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn liếng của họ, giảm chi phí lưu
thông, tăng tốc độ quay vòng vốn do người trung gian thường có
mạng lưới bán lẻ... Tuy nhiên sử dụng trung gian cũng có những
hạn chế như phải chia sẻ lợi nhuận, phụ thuộc vào trung gian,
không hiểm tường tận phản ứng của khách hàng về hàng hoá của
mình.
* Tái xuất khẩu.
Là xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu
và xuất khẩu với mục đích thu về một khoản ngoại tệ lớn hơn
vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn luôn thu hút ba nước:
nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Do đó giao
dịch tái xuất còn được gọi là giao dịch ba bên hay giao dịch tam
giác.
* Gia công quốc tế.
Là hình thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận
gia công) nhập khẩu nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của
bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành phẩm rồi
giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia
công).
Như vậy với phương thức gia công quốc tế, có thể kết hợp
tận dụng nhân công với giá rẻ ở các nước nhận gia công với khai
thác các loại máy móc thiết bị, công nghệ có chất lượng cao, đem
lại lợi nhuận cho cả hai bên thuê và nhận gia công.
10
II. GIA CÔNG QUỐC TẾ.
1. Khai niệm gia công quốc tế.
Trong từ điển kinh tế (CHDC Đức), nhà xuất bản Kinh tế
1972, gia công được định nghĩa là sự cải tiến đặc biệt của các
thuộc tính riêng của các đối tượng lao động (vật liệu) được tiến
hành một cách sáng tạo và có ý thức nhằm đạt được một giá trị
sử dụng mới nào đó.
Theo điều 128, Luật thương mại (ngày 10/05/1997) của
nước ta, gia công trong thương mại được hiểu là một hành vi
thương mại, theo đó bên nhận gia công thực hiện việc gia công
hàng hoá theo yêu cầu, bằng nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia
công để hưởng tiền gia công, bên đặt gia công nhận hàng hoá đã
gia công để kinh doanh thương mại và phải trả tiền gia công cho
bên nhận gia coong.
Nội dung của gia công trong tm gồm sản xuất, chế biến, chế
tác, sửa chữa, tái chế, lắp ráp, phân loại, đóng gói hàng hoá theo
yêu cầu và bằng nguyên vật liệu của bên đặt gia công.
Đó là những khái niệm về gia công nói chung, còn gia công
quốc tế là phương thức kinh doanh trong đó một bên, gọi là bên
nhận gia công, nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của
một bên đặt gia công, để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho
bên đặt gia công và nhận thù lao, gọi là phí gia công. Như vậy,
khi hoạt động gia công vượt ra biên giới quốc gia thì gọi là gia
công quốc tế.
Luật thương mại nước ta nêu rõ: gia công với thương nhân
nước ngoài là việc gia công trong thương mại, theo đó bên đặt
gia công, bên nhân gia công là thương nhân có trụ sở chính hoặc
11
nơi cứ trù thường xuyên tại các nước khác nhau phải có một bên
là thương nhân hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Gia công quốc tế có hai hình thức là gia công thuê cho nước
ngoài và thuê nước ngoài gia công. Tuy nhiên ở nước ta, nói đến
hoạt động gia công quốc tế chủ yếu là nói đến hoạt động gia công
thuê cho nước ngoài. Suy cho cùng, gia công quốc tế là một hình
thức xuất khẩu lao động, nhưng là loại lao động dưới dạng được
sử dụng (được thể hiện trong hàng hoá) chứ không phải dưới
dạng xuất khẩu nhận gia công ra nước ngoài.
2. Các hình thức gia công quốc tế.
Có thể phân chia các hình tứhc gia công quốc tế theo một số
tiêu thức sau:
2.1. Theo quyền sở hữu nguyên liệu.
* Hình thức nhận nguyên phụ liệu, giao thành phẩm.
Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho
bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ thu hồi
thành phẩm và trả phí gia công. Trong trường hợp này, trong thời
gian chế tạo, quyền sở hữu về nguyên liệu vẫn thuộc về bên đặt
gia công. Bên đặt gia công cũng có thể giao cả máy móc thiết bị,
cử chuyên gia sang hướng dẫn kỹ thuật và kiểm tra chất lượng
sản phẩm trong quá trình thực hiện gia công. Bên nhận gia công
cũng có thể đi mua phụ liệu nếu được sự đồng ý của bên đặt gia
công.
* Hình thức mua đứt bán đoạn.
Hình thức này được thực hiện thông qua các hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế. Bên đặt gia công sẽ bán đứt nguyên vật
liệu cho bên nhận gia công và sau một thời gian sản xuất, chế tạo
sẽ mua lại toàn bộ thành phẩm. Trong trường hợp này, quyền sở
12
hữu nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia
công. Sự ràng buộc giữa các bên thể hiện ở trường hợp quy định
số sản phẩm tạo ra và định mức tiêu hao nguyên vật liệu. Sau quá
trình sản xuất, bên nhận gia công có trách nhiệm bán lại toàn bộ
sản phẩm cho bên đặt gia công và bên đặt gia công có nghĩa vụ
mua lại toàn bộ số sản phẩm đó.
* Hình thức kết hợp.
Là hình thức trong đó bên đặt gia công chỉ giao nhận những
nguyên liệu chính, còn bên nhận gia công sẽ mua nguyên liệu
phụ trong nước để bổ sung và tiếp tục hoàn thành sản xuất theo
hợp ddồng đã kí.
2.2. Theo giá gia công.
Theo tiêu thức này, gia công quốc tế có hai hình thức.
* Hợp đồng thực chi thực thanh (Cost plus contract)
Bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ
những chi phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công.
* Hợp đồng khoán.
Người ta xác định một mức giá định mức (Target price) cho
mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức.
Dù chi phí của bên nhận gia công là bao nhiêu đi nữa, hai bên
vẫn thanh toán với nhau theo giá định mức đó.
Ngoài hai cách phân loại trên, người ta còn có thể phân chia
các hình thức gia công quốc tế theo công đoạn gia công hay theo
chủ thể tham gia quan hệ gia công. tuy nhiên, riêng lĩnh vực gia
công hàng thêu ren xuất khẩu là hoạt động gia công chính ở nước
ta thì các phân chia theo tiêu thức quyền sở hữu nguyên vật liệu
trong quá trình sản xuất sản phẩm là các phân chia thích hợp
nhất.
13
3. Yêu cầu và vai trò của gia công quốc tế.
3.1. Yêu cầu.
Gia công quốc tế là một hình thức xuất nhập khẩu hàng hoá
được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế. Đối với nước ta,
kim ngạch xuất khẩu từ hoạt động gia công chiếm tỷ lệ không
nhỏ trong toàn bộ giá trị xuất khẩu. Chính vì vậy để tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động gia công xuất khẩu, Luật thương mại và
các văn bản dưới luật của nước ta cũng có những điều khoản quy
định, hướng dẫn thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia quan hệ gia công, trên cơ sở đó đảm bảo lợi ích cho các bên.
Nghị định 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/07/1998
là nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua hàng hoá với
nước ngoài. Theo nghị định này, các bên tham gia vào hoạt động
gia công quốc tế có quyền và nghĩa vụ sau:
* Đối với bên đặt gia công.
- Giao toàn bộ hoặc một phần nguyên vật liệu gia công theo
thoả thuận tại hợp đồng gia công.
- Nhận và đưa ra khỏi Việt Nam toàn bộ sản phẩm gia công,
máy móc thiết bị cho thuê hoặc mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật
tư phế liệu sau khi thanh lý hợp đồng gia công.
- Được cử chuyên gia đến Việt Nam để hướng dẫn kỹ thuật
sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm gia công.
- Chịu trách nhiệm về quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá,
tên gọi, xuất xứ hàng hoá.
- Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam có liên
quan đến hoạt động gia công và các điều khoản của hợp đồng gia
công đã ký kết.
14
* Đối với bên nhận gia công.
- Được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị,
nguyên liệu, phụ liệu tạm nhập khẩu theo định mức để thực hiện
hợp đồng gia công.
- Được thuê thương nhân khác gia công.
- Được cung ứng một phần hoặc toàn bộ nguyên phụ liệu,
vật tư để gia công và phải nộp thuế nhập khẩu theo quy định của
luật thuế xuất nhập khẩu đối với phần nguyên phụ liệu, vật tư
mua trong nước.
- Được nhận tiền thanh toán của bên đặt gia công bằng sản
phẩm gia công, trừ sản phẩm thuộc danh mục hàng hoá cấm nhập
khẩu. Nếu là sản phẩm xuất nhập khẩu có điều kiện thì phải được
sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền.
- Phải tuân thủ luật pháp và các điều kiện trong hợp đồng
gia công.
3.2. Vai trò của gia công quốc tế.
* Đối với bên đặt gia công.
Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong hoạt động
giao dịch thương mại quốc tế của nhiều nước. Đối với bên đặt gia
công, phương thức này giúp họ giảm được chi phí do tận dụng
được nguồn nhân lực và một phần nguyên vật liệu thường là với
giá rẻ của nước nhận gia công. Chính lợi ích này quyết định xu
hướng chuyển dịch các ngành sản xuất đòi hỏi có nhiều nhân
công, nhiều công đoạn sản xuất từ các nước phát triển sang các
nước đang phát triển, có nguồn lao động dồi dào.
Bên thuê gia công thường có lợi thế về thị trường tiêu thụ là
thị trường truyền thống hoặc thị trường có những đòi hỏi khắt
khe mà chỉ họ mới có thể đáp ứng được. Bởi vậy khi thị trường
15
phát sinh những nhu cầu lớn người thuê gia công có thể đáp ứng
mà không cần bỏ thêm vốn đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút nhân
công...
Trong quá trình thuê gia công, bên đặt gia công còn có thể
tạo thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá cho mình ngay tại nước
nhận gia công.
* Đối với bên nhận gia công.
Đối với bên nhận gia công phương thức này giúp họ giải
quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc
nhập được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây
dựng nền công nghiệp hoá đất nước.
Việc gia công cho nước ngoài giúp nước nhận gia công
khắc phục được những khó khăn về thị trường tiêu thụ, không
phải chịu rủi ro khi tìm kiếm thị trường nước ngoài. Qua hoạt
động gia công, có thể kết hợp xuất khẩu những loại vật tư,
nguyên liệu sẵn có trong nước, phát triển thêm nguồn hàng, khai
thác sử dụng những máy móc thiết bị tiên tiến hay công nghệ
hiện đại mà không mất thời gian thử nghiệm.
Nhiều nước đang phát triển đã nhờ phương thức gia công
quốc tế mà có nền công nghiệp hiện đại như Hàn Quốc, Thái
Lan, Singapor...
Ở Việt Nam, với nguồn lao động dồi dào, chúng ta cũng đã
và đang đẩy mạnh hoạt động gia công quốc tế mà thế mạnh của
ta là gia công hàng may, thêu ren xuất khẩu. Công nghiệp thêu
ren, dệt may là các ngành có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển
của các ngành công nghiệp khác. Khi dệt may là ngành công
nghiệp hàng đầu của nền kinh tế, nó sẽ cần một khối lượng lớn
nguyên vật liệu là sản phẩm của các ngành khác vì thế tạo điều
16
kiện để đầu tư và phát triển các ngành kinh tế này. Bên cạnh đó,
lao động ngành may và thêu ren có đặc điểm là số lượng lao
động nhiều, thời gian đào tạo nhanh, hợp cả với lao động nam và
nữ, đặc biệt là lao động nữ. Vì thế, khi hoạt động gia công hàng
may xuất khẩu phát triển, nó sẽ vừa giải quyết được vấn đề việc
làm cho người lao động, vừa là cơ sở để cho các ngành liên quan
phát triển. Trong hơn 10 năm qua, ngành may, thêu với đốc độ
phát triển bình quân khoảng 20% năm đã thu hút một lực lượng
lao động đông đảo.
Bên cạnh vai trò tạo công ăn việc làm và tạo động lực cho
các ngành liên quan phát triển, gia công hàng thêu xuất khẩu còn
góp phần tăng thu nhập quốc dân qua tăng nguồn thu ngoại tệ
cho đất nước. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu là 9,361 tỷ USD,
năm 1999 là 11,523 tỷ USD, trong đó phần thu từ hoạt động gia
công chiếm từ 70 - 80%. Đây là phần đóng góp quan trọng cho
công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong giai đoạn hiện
nay.
Do những lợi ích to lớn mà hoạt động gia công quốc tế đem
lại cho cả hai bên đặt và nhận gia công nên phương thức giao
dịch quốc tế này ngày càng phát triển. Không chỉ ở những nước
đang phát triển mà ngay cả những nước phát triển cũng sử dụng
gia công quốc tế nhằm tận dụng tối đa lợi ích mà hoạt động này
đem lại. Đối với nước ta, gia công quốc tế, đặc biệt là gia công
hàng thêu ren xuất khẩu là phương thức giao dịch không thể
thiếu trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
17
III. HỢP ĐỒNG GIA CÔNG QUỐC TẾ.
Cũng như các hoạt động khác trong buôn bán giao dịch
quốc tế, trong hoạt động gia công hàng xuất khẩu cần phải có
hợp đồng gọi là hợp đồng gia công quốc tế.
Theo Luật thương mại nước ta, hợp đồng gia công trong
thương mại phải được lập thành văn bản giữa bên nhận gia công
và bên đặt gia công.
Nội dung của hợp đồng gia công trong thương mại, quyền
và nghĩa vụ của bên nhận gia công và bên đặt gia công được áp
dụng theo các quy định về hợp đồng gia công của Bộ luật dân sự.
1. Đặc điểm của hợp đồng gia công quốc tế.
Là một dạng hợp đồng trong giao dịch ngoại thương, trước
tiên hợp đồng gia công cho thương nhân nước ngoài cũng mang
những đặc điểm của hợp đồng kinh tế thông thường như: Việc kí
kết dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có
lợi, đồng thời phải tuân theo sự điều chỉnh của một hệ thống các
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ này. Ngoài ra, hợp đồng
gia công cho thương nhân nước ngoài còn có những đặc điểm
khác biệt được hình thành bởi yếu tố nước ngoài của hợp đồng
bao gồm:
- Chủ thể của hợp đồng gia công quốc tế là các thương
nhân, pháp nhân có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau.
- Đối tượng của hợp đồng gia công quốc tế là nguyên vật
liệu, bán thành phẩm, các sản phẩm gia công được chuyển dịch
qua biên giới nên các đối tượng này phải chịu sự kiểm tra, giám
sát của cơ quan Hải quan các nước tại cửa khẩu, thực hiện các
18
nghĩa vụ về thuế xuất nhập khẩu và thực hiện các điều ước quốc
tế về giao thông.
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng gia công là ngoại tệ
đối với một trong hai bên hoặc cả hai bên.
- Nguồn luật điều chỉnh quan hệ gia công quốc tế là hệ
thống pháp luật các quốc gia các bên, các công ước, hiệp ước
song phương và đa phương, các tập quán thương mại quốc tế...
Có thể nói, đặc điểm tiêu biểu nhất chỉ rõ bản chất của hợp
đồng cc quốc tế là quan hệ hợp đồng này là làm thuê đẻe nhận
thù lao, ở đây sức lao động là hàng hoá.
Với tính chất là hợp đồng làm thuê cho nước ngoài, hợp
đồng gia công quốc tế thể hiện việc xuất khẩu tại chỗ sức lao
động, một hoạt động đem lại lợi ích kinh tế cho mỗi quốc gia và
phù hợp với xu hướng phân công lao động và chuyên môn hoá
ngày càng cao của nền kinh tế thế giới.
2. Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng gia công quốc tế.
Theo quyết định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/07/199 của Chính
phủ: Điều 12 hợp đồng gia công phải được lập thành văn bản và
bao gồm những điều khoản như sau:
2.1. Điều khoản về tên, địa chỉ của các bên ký hợp đồng.
Trong hợp đồng nhất thiết phải ghi rõ ràng và chính xác tên,
địa chỉ các bên tham gia ký kết hợp đồng. Nếu không tuân thủ
nguyên tắc này sẽ gây khó khăn trong vấn đề thông báo, khởi tố
và giải quyết tranh chấp (nếu có) sau này. Trong thực tế nhiều
người cho rằng phần này không quan trọng, đó là một quan niệm
sai lầm trong buôn bán quốc tế và đã để lại những bài học chua
xót. Bên Việt Nam khi tham gia ký kết hợp đồng với các đối tác
nước ngoài cần lưu ý và thận trọng với những tế viết tắt ở phần
19
chủ thể ký tên, chỉ có thể chấp nhận tên viết tắt khi nó phù hợp
với đăng ký kinh doanh ở nước ngoài.
2.2. Điều khoản về tên, số lượng sản phẩm gia công.
Nhằm giúp các bên xác định được sơ bộ loại hàng cần mua
bán, hợp đồng phải diễn tả thật chính xác tên và quy cách phẩm
chất của mặt hàng gia công. sản phẩm của ngành thêu ren, thủ
công mỹ nghệ, tên hàng thường được ghi kèm với quy cách chính
của nó.
2.3. Điều khoản về giá gia công.
Trong hoạt động gia công hàng cho thương nhân nước
ngoài, điều khoản về giá gia công là một điều khoản quan trọng,
do đó các bên trong hợp đồng cần thoả thuận kỹ lưỡng, chi tiết
về nó. Điều khoản giá cả bao gồm những vấn đề về đồng tiền
tính, phương pháp quy định giá, phương pháp xác định mức giá
cơ sở của giá cả.
+ Đồng tiền tính giá: Trong hợp đồng gia công hàng xuất
khẩu, giá cả mặt hàng gia công xuất khẩu được đo lường bằng
đồng tiền nước người nhận gia công, đồng tiền nước đặt gia công
hoặc đồng tiền của nước thứ ba. Thông thường đó là đồng tiền có
khả năng chuyển đổi mạnh. Thực tế, các thương nhân thường
chọn các đồng chuyển đổi như: Đôla (USD), tiền Pháp (Frans),
bảng Anh (Pound)...
+ Phương pháp xác định giá: Giá cả có thể xác định ngay
trong lúc ký hợp đồng hoặc xác định trong thời gian có hiệu lực
của hợp đồng. Tuỳ theo cách xác định giá mà phân biệt thành các
loại giá sau: giá cố định hay giá xác định ngay, giá quy định sau,
giá có thể xét lại, giá di động hay giá trượt.
Trong hợp đồng gia công ở nước ta hiện nay chủ yếu sử
dụng loại giá cố định (giá xác định ngay).
20
- Xem thêm -