Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1...

Tài liệu Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1

.PDF
20
9
149

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ XUÂN TRƯỜNG TIỂU HỌC CÁT TÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 1 Người thực hiện: Vi Thị Thu Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Cát Tân huyện Như Xuân - Thanh Hóa SKKN thuộc môn: Toán NHƯ XUÂN NĂM 2017 1 MỤC LỤC NỘI DUNG 1. MỞ ĐẦU - Lý do chọn đề tài. - Mục đích nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận của giải Toán có lời văn ở Lớp 1 2.2. Thực trạng của việc dạy và học dạng Toán có lời văn ở Lớp 1 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nang cao chất lượng giải Toán có lời văn ở Lớp 1. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ - Kết luận - Kiến nghị. Tài liệu tham khảo Danh mục các đề tài SKKN TRANG 1 2 2 2 2 3-4 4 - 11 11 - 13 13 - 14 14 - 15 2 1. MỞ ĐẦU - Lý do chọn đề tài. Để hoà chung với sự đi lên của toàn cầu, đất nước đang chuyển mình trong xu thế đổi mới và phát triển chủ của toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Để bước sang một thời đại mới, một thế kỷ mới. Thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học công nghệ thông tin với mục tiêu xây dựng đất nước ta: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để theo kịp với các nước tiên tiến trên thế giới, ngành giáo dục đã có đổi mới trong việc dạy và học. Chương trình dạy học ở Tiểu học rất quan tâm rèn luyện cho học sinh phát triển toàn diện các mặt: Đức, trí, thể, mỹ ... trong đó trọng tâm là giáo dục đạo đức, phát triển trí tuệ học sinh. Có thể nói, Toán học là một trong những bộ môn có vai trò chủ đạo trong việc giúp học sinh phát triển trí tuệ của mình. Bởi vì, dạy học Toán và nhất là giải Toán, đòi hỏi học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và kỹ năng đã có vào các tình huống khác nhau. Học giải Toán học sinh phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo để phát hiện những dữ kiện, điều kiện chưa được đưa ra môt cách tường minh. Vì vậy, có thể nói giải Toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của trí tuệ học sinh. Qua học giải Toán, giáo viên từng bước giúp học sinh phát triển tư duy, đồng thời rèn luyện những đức tính và phong cách làm việc của con người lao động thế kỷ XXI tính nhanh nhẹn, hoạt bát, tính làm việc có kế hoạch, tính chăm chỉ cận thận, thói quen làm việc xét đoán có căn cứ khoa học, có kiểm tra kết quả cuối cùng, từng bước hình thành phát triển và rèn luyện thói quen suy nghĩ làm việc học độc lập, linh hoạt sáng tạo … Trong quá trình học tập, giải Toán giúp học sinh tạo thói quen không thoả mãn với kết quả tìm ra để học sinh say mê tìm tòi hơn nữa. Quá trình dạy học giải Toán giúp học sinh biết trình bày bài làm rõ ràng, mạch lạc, khoa học, đúng quy cách; biết sử dụng câu lời giải phù hợp ... Từ đó giúp học sinh hiểu cái hay, cái đẹp trong Toán học. Vì ý nghĩa giáo dục nhiều mặt của dạy học Toán nói chung, giải Toán nói riêng, mà trong quá trình dạy học giải Toán phải làm sao cho các em thành thạo các bài toán có lời văn trong chương trình Lớp 1 là một việc làm cần thiết mà chúng ta phải bồi dưỡng cho học sinh để làm nền tảng, tạo đà cho các lớp trên. Thực tế giảng dạy Toán Lớp 1 cho thấy, việc dạy học sinh giải toán có lời văn là việc làm khó khăn, đòi hỏi giáo viên phải giải quyết tốt các vấn đề liên quan để khắc phục khó khăn đó. Đồng thời, phối hợp vận dụng những kinh nghiệm của bản thân với kiến thức và phương pháp dạy học để đạt kết quả tốt. Ngoài ra, phải nắm vững và phân loại đối tượng học sinh để có kế hoạch dạy học phù hợp với trình độ học sinh, dạy học phải biết cá thể hoá hoạt động học tập của học sinh để giúp học sinh có khả năng phát triển tối đa hoạt động trí tuệ của mình. Đấy là mục đích cuối cùng của việc dạy học Toán. Do đó, tôi chọn nghiên cứu “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn cho học sinh lớp 1” để tìm ra những biện pháp hữu 3 hiệu nhằm khắc phục các mặt hạn chế, giúp cho việc giải Toán có lời văn của học sinh Lớp 1 đạt hiệu quả cao. - Mục đích nghiên cứu: + Tìm biện pháp giúp học sinh giải Toán; + Trang bị thêm kiến thức cho bản thân. - Đối tượng nghiên cứu: + Nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn cho 15 học sinh lớp 1B Trường Tiểu học Cát Tân - Như Xuânnăm học 2016 - 2017; + Những nguyên nhân và giải pháp để nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn. - Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện tốt biện pháp nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn cho học sinh Lớp 1, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: + Phương pháp nghiên cứu cơ sơ lí luận; + Phương pháp quan sát; + Phương pháp khảo sát, thực nghiệm. 2. NỘI DUNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 1 2.1. Cơ sở lí luận của việc giải Toán có lời văn cho học sinh Lớp 1 Trong phân phối chương trình Toán 1, nội dung giải Toán có lời văn chính thức ở tuần 22 mới có bài cụ thể, vì giai đoạn này học sinh đã học gần hết các vần, đọc được tương đối nhiều từ ngữ. Nhưng trước đó (từ bài phép cộng trong phạm vi 4 ở tuần 7) học sinh đã được làm quen với dạng Toán giải ở mức độ quan sát tranh, nêu miệng bài toán rồi mới viết phép tính thích hợp vào các ô trống; và đến tuần thứ 16 học sinh tiếp tục được làm quen dạng toán này dựa vào tóm tắt bài toán để viết phép tính. Như vậy có thể nói, mạch Toán có lời văn xuyên suốt và chiếm lĩnh thời lượng tương đối lớn ở sách Toán 1. Vì vậy, để nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn cho học sinh Lớp 1 cần có những giải pháp hữu hiệu nhất. Môn Toán, đặc biệt là giải Toán có lời văn còn góp phần giáo dục ý thức tìm tòi sáng tạo và nhiều kỹ năng tính toán cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. Bậc Tiểu học, một yêu cầu quan trọng là dạy cho trẻ cách học nhằm xây dựng cho học sinh những kỹ năng cơ sở giao tiếp; đặc biệt, giải Toán có lời văn giúp học sinh phát triển về nhân cách, óc sáng tạo một cách nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn và chất lượng hơn. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học phải thiết thực, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học, tạo điều kiện để cá thể hoá dạy học và khuyến khích dạy học phát triển ra nội dung của bài học. 4 2.2. Thực trạng của việc dạy và học về dạng Toán có lời văn Lớp 1 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Trong những năm trước, khi dạy các dạng Toán có lời văn cho học sinh Lớp 1, tôi rút ra những nhận xét sau đây: 2.2.1. Về phía giáo viên: Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã chú ý đến việc phát huy tính tích cực của học sinh, học sinh tự tìm ra tri thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Hình thức dạy học đa dạng, phong phú, các trò chơi đã được đưa vào dạy học một cách có hiệu quả nhằm giúp học sinh "học mà chơi, chơi mà học”, từ đó giúp học sinh nắm chắc bài một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Bên cạnh đó vẫn còn có phần ít giáo viên do tuổi tác, do trình độ nhận thức nên việc sáng tạo trong dạy học vẫn có phần hạn chế. Chủ yếu là chuyển tải nội dung trong Sách giáo khoa, hình thức dạy học tẻ nhạt. Quy trình lên lớp chủ yếu rập khuôn vào Sách giáo viên do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành nên học sinh chưa thực sự ham học; phương pháp dạy học của giáo viên chưa phù hợp với trình độ và tâm lí học sinh, đôi khi còn máy móc, cứng nhắc chưa phát huy được sự sáng tạo của học sinh. 2.2.2. Về phía học sinh: Đối với học sinh Lớp 1, tư duy logic chưa phát triển, cơ bản là tư duy cụ thể nên giải các bài Toán có lời văn đối với các em là rất khó khăn, tỉ lệ làm đúng còn ít và chưa chặt chẽ. Trong thực tế ở Trường Tiểu học Cát Tân, việc giải các bài tập về dạng Toán có lời văn ở Lớp 1 học sinh còn lúng túng rất nhiều. Đa số các em đọc đề là làm ngay, bỏ qua các bước giải Toán có lời văn. Tỉ lệ biết tóm tắt bài toán còn thấp, cách giải nghèo nàn, thậm chí bị bế tắc khi giải bài toán. Thực tế giảng dạy cho thấy nguyên nhân chủ yếu các em vấp phải khi giải Toán có lời văn: + Nguyên nhân 1: Các em chưa đọc kỹ đề bài. + Nguyên nhân 2: Phần lớn các em chưa biết sàng lọc những yếu tố nào cơ bản, yếu tố nào không cơ bản cần phải loại bỏ để tóm tắt bài toán. + Nguyên nhân 3: Các em chưa biết phát hiện từ "chìa khoá", dẫn đến làm sai phép tính. + Nguyên nhân 4: Khi viết câu lời giải của bài toán các em chưa biết dựa vào câu hỏi làm câu lời giải cho bài toán. Đứng trước thực trạng đó, tôi băn khoăn trăn trở phải làm thế nào để chất lượng môn Toán năm sau cao hơn năm trước, nhất là giải Toán có lời văn. Qua theo dõi chất lượng môn Toán ở lớp 1A (Tổng số học sinh: 24 em) trong năm học 2015 – 2016 tôi tổng hợp được như sau: 5 HỌC KÌ I MỨC ĐỘ HỌC KÌ II Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Hoàn thành Tốt 6 25 7 29,1 Hoàn thành 16 66,5 13 54,2 Chưa hoàn thành 2 8,5 4 16,7 Qua bảng tổng hợp trên ta thấy, chất lượng môn Toán cuối kỳ I cao hơn ở học kỳ II. Vì sao vậy? Như đã nói trước, ở tuần 22 học sinh bắt đầu học sinh giải Toán có lời văn và khoảng tuần thứ 25 và 26 là thi học kỳ II để kiểm tra chất lượng. Như vậy rõ ràng chất lượng thấp ở học kỳ II có phần do có bài toán giải có lời văn. Xem thực tế bài làm của học sinh nhiều em bị mất điểm ở bài Toán giải có lời văn. Để khắc phục được các nguyên nhân trên, tôi đã trăn trở tìm tòi và đúc rút kinh nghiệm trong việc giải Toán có lời văn. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn ở Lớp 1 2.3.1 Về giải pháp: - Nghiên cứu dạng giải Toán có lời văn trong chương trình Toán 1. Ở phạm vi sáng kiến này tôi chỉ đề cập đến một mảng kiến thức trong Sách giáo khoa Toán lớp 1, đó là nội dung giải Toán có lời văn, bao gồm: + Nhận biết về bài toán có lời văn. + Biết giải các bài toán đơn về thêm, bớt. + Biết trình bày bài giải. - Tìm hiểu đối tượng học sinh. + Tâm lý học sinh: Với đối tượng là học sinh Lớp 1, các em bắt đầu bước vào môi trường mới, có quá nhiều điều lạ lẫm với các em, tâm lý lo âu, sợ sệt, rụt rè, ảnh hưởng nhiều đến kết quả học tập. Theo Tâm lý học thì nhận thức của các em chủ yếu thông qua con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Dưới tác động của việc học tập tư duy của trẻ đang phát triển. + Trình độ học sinh: Có thể nói học sinh Lớp 1 như một tờ giấy trắng. Giờ đây các em mới bắt tay vào học tập, lĩnh hội trí thức và hầu như các hoạt động học tập của các em chưa được làm quen. Về kinh nghiệm và vốn sống quá ít ỏi. Do vậy, đối tượng này giáo viên phải thật bình tĩnh, không được nôn nóng, mà phải tác động dần dần trong quá trình học tập mới mong đạt kết quả cao. 6 Để bước đầu học sinh Lớp 1 thực hiện giải Toán có lời văn, yêu cầu học sinh biết cách tìm hiểu đề, học sinh cần nhận thức đúng đắn về việc tìm hiểu đề, tóm tắt và phân tích đề, thực hiện lời giải và giải bài toán. - Nghiên cứu phương pháp giảng dạy về dạng giải Toán có lời văn. Để giúp các em giải Toán có lời văn đạt kết quả cao, trước hết người giáo viên cần nghiên cứu bài dạy ở Sách giáo viên và Sách giáo khoa. Ngoài ra, còn tìm hiểu thêm ở các tài liệu có liên quan như: Tập san, sách nâng cao, tài liệu dạy lớp 1 theo chương trình Tiểu học mới... Hơn nữa, giáo viên cần chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học như: Bộ đồ dùng biểu diễn, tranh minh hoạ, vật thật và tự học tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ cho bản thân. Giáo viên là người định hướng, dẫn dắt học sinh lĩnh hội kiến thức. Do đó giáo viên phải nhận rõ vai trò và nhiệm vụ mới của mình, tránh làm thay việc của các em. Xác định phương pháp và hình thức dạy học cụ thể: + Phương pháp: Nêu vấn đề; Quan sát - hỏi đáp; Luyện tập - thực hành. + Hình thức: Cá nhân; Nhóm; Toàn lớp. Các phương pháp và hình thức tổ chức phải được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt. Xác định rõ về hai dạng giải Toán có lời văn: + Dạng 1: Bài toán về thêm một số đơn vị. + Dạng 2: Bài toán về bớt một số đơn vị. Xác định các hoạt động dạy học về giải Toán có lời văn: + Bước 1: Tìm hiểu và tóm tắt bài toán; + Bước 2: Phân tích các bài toán; + Bước 3: Trình bày bài toán; + Bước 4: Kiểm tra, đánh giá bài giải. 2.3.2. Về các biện pháp tổ chức thực hiện Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức các dạng Toán đơn về cộng, trừ. Trường hợp 1 : "Tìm tổng khi biết hai số" Ví dụ 1: Bài 4, trang 125 Toán 1 Đoạn thẳng AB dài 3cm và đoạn thẳng BC dài 6cm. Hỏi đoạn thẳng AC dài mấy xăng-ti-mét? Bước 1: Tóm tắt bài toán. A 3cm B 6cm C ... cm? 7 Bước 2: Bài giải: §o¹n th¼ng AC dài số cm là: 3 + 6 = 9 (cm) Đáp số: 9 cm. Ví dụ 2: Một hộp bút có 12 bút xanh và 3 bút đỏ. Hỏi hộp đó có tất cả bao nhiêu cái bút? Bước 1 : Tóm tắt bài toán. Có : 12 bút xanh. Có : 3 bút đỏ. Có tất cả: … cái bút ? Bíc 2: Bài giải Có tất cả số bút là : 12 + 3 = 15 (cái bút) Đáp số : 15 cái bút Trêng hîp 2 : " Tìm hiệu khi biết số bị trừ và số trừ ". Ví dụ : Bài tập 2 – trang 149 - Toán 1 An có 8 quả bóng, An thả 3 quả bay đi. Hỏi An còn lại mấy quả bóng? Bước 1: Tóm tắt bài toán. An có : 8 quả bóng. Thả đi : 3 quả bóng. Còn lại … quả bóng ? Bước 2: Bài giải: Số bóng An còn lại là: 8 – 3 = 5 (quả bóng) Đáp số: 5 quả bóng. Nhận xét: Trong chương trình học Toán của Lớp 1 hiện nay, chỉ có hai loại toán bài giải như vừa nêu trên. Thực tế đây là bài thuộc dạng Toán đơn giản nhất của kiểu bài: Giải bài Toán có lời văn. Chính vì thế khi dạy, giáo viên cần khắc sâu cho học sinh biết mối quan hệ giữa các thành phần trong đề toán. Từ đó để tìm ra thành phần chưa biết dựa trên các thành phần đã biết, như thế là ta đã giúp học sinh trả lời câu hỏi của đề toán. Trong thực tiễn ở các trường Tiểu học, khi dạy cho học sinh giải các bài toán có lời văn, các em còn rất lúng túng trong việc ghi tóm tắt bài toán, cách trình bày và nhất là tìm ra được câu lời giải thích hợp với mỗi đề toán. Chỉ có 10 - 15 % học sinh có thể tự ghi tóm tắt và tìm được câu lời giải thích hợp, còn đa số học sinh không tóm tắt đề bài mà dập khuôn từ một dạng nào đó áp dụng vào giải các bài tập nên kết quả chưa cao. 8 Các em chưa biết dựa vào tóm tắt và chưa thấy được tầm quan trọng của việc tóm tắt, đây là bước đầu tiên, quyết định cách giải bài toán. Qua các vấn đề trình bày trên đây và những khó khăn mà học sinh mắc phải khi giải bài Toán có lời văn, tôi xin củng cố lại một số mẹo nhỏ bên cạnh đường lối chung như sau: Biện pháp 2: Giúp học sinh tìm ra các bước, tiến hành giải bài Toán có lời văn. Từ các ví dụ cụ thể và qua việc học sinh thực hành làm bài tập, giáo viên giúp học sinh tiến hành giải bài Toán có lời văn qua 4 bước sau: 1. Đọc - tìm hiểu bài toán; 2. Tóm tắt bài toán; 3. Phân tích các đại lượng liên quan; 4. Thực hiện bài giải. Bước 1: Yêu cầu học sinh nhất thiết phải đọc kỹ đề bài (3 lần trở lên), tìm hiểu để biết được cái đã cho và cái phải tìm, đến đây là điều quan trọng không thể bỏ qua được. Giáo viên cần nhắc nhở học sinh tránh thói quen xấu là vừa đọc đầu bài xong hoặc chưa hiểu kỹ bài đã vội vàng giải toán. Như vậy là không tránh khỏi sự bế tắc khi giải toán hoặc làm lạc đề toán. Để giúp học sinh hiểu rõ đề hoặc tránh việc học sinh bỏ qua việc tìm hiểu đề, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi để giúp học sinh hiểu đề hơn. Ví dụ: + Bài toán cho biết những gì? Hay: Bài toán yêu cầu ta tìm gì? Cũng có thể yêu cầu học sinh nhắc lại đề toán mà không cần phải nhìn sách vở. Nếu các em nhớ đề, đọc lại được cũng có nghĩa là các em đã hiểu đề. Bước 2: Tóm tắt bài toán. Đây là bước rất quan trọng nó là kết quả ban đầu của bước 1; lúc này bài toán được tóm gọn lại, chủ yếu bằng lược đồ đơn giản. Nhờ đó mà mối quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm hiện rõ hơn, dễ hiểu hơn. Học sinh cần tóm tắt được bài toán, biết phân tích tổng hợp, xác định được yêu cầu của bài ra, tìm ra cách giải thích hợp. Ở chương trình Lớp 1, giáo viên dạy cho học sinh những cách tóm tắt như sau: + Tóm tắt bằng chữ: Ví dụ: Mai gấp được 6 cái thuyền, Hà gấp được 3 cái thuyền. Hỏi 2 bạn gấp được mấy cái thuyền? 9 Tóm tắt: Mai gấp : 6 cái thuyền. Hà gấp : 3 cái thuyền. Có tất cả … cái thuyền ? + Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng: Ví dụ: 6 cái thuyền 3 cái thuyền ...cái thuyền? + Tóm tắt bằng sơ đồ ven: Ví dụ: Hằng có 7 quả cam, Nga có 2 quả cam. Hỏi cả hai bạn có tất cả bao nhiêu quả cam? 7 ? 2 + Tóm tắt bằng chữ và dấu: (Thường là mũi tên hoặc dấu ngoặc) Ví dụ: Lan có 10 điểm 9 và 8 điểm 10, Hỏi Lan có tất cả bao nhiêu điểm 9, 10 ? Tóm tắt: Có 10 điểm 9. Điểm 9, 10 ? Có 8 điểm 10. Trên đây là 4 cách tóm tắt bài toán mà tôi thường áp dụng để dạy học sinh Lớp 1. Tuy nhiên đối với học sinh Lớp 1 hiện nay thì kiểu tóm tắt bằng chữ là chủ yếu và thông dụng nhất. Các cách tóm tắt trên giúp cho các em học sinh dễ hiểu và khi học sinh đã tóm tắt được bài toán thì các em sẽ dễ dàng tìm ra cách giải. Bước 3: Phân tích đề bài toán. Đây là bước quan trọng trong quá trình giải Toán tập trung cao độ tư duy của học sinh. Để lập được mối liên quan giữa các đại lượng, trong bước này giáo viên giúp các em biết suy luận. Muốn biết được yêu cầu của đề bài là gì thì ta phải làm như thế nào? Để thực hiện được điều đó, giáo viên cần tổ chức cho học sinh đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khóa quan trọng như: “Thêm, và, tất cả,…” hoặc “Bớt, bay đi, ăn mất, còn lại,…” (Có thể quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). 10 Trong thời kỳ đầu (Tiết 81, 82) giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt bằng cách đàm thoại: “Bài toán cho biết gì?,Bài toán hỏi gì?” và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để học sinh ngầm phân tích đề toán. Ví dụ: Nhà Lan có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà Lan có tất cả mấy con gà? Qua ví dụ trên, ta phân tích như sau: + Bài toán cho biết gì? (nhà Lan có 5 con gà) + Còn cho biết gì nữa? (mẹ mua thêm 4 con gà). + Bài toán hỏi gì? (nhà Lan có tất cả mấy con gà?). + Giáo viên nêu tiếp: “Muốn biết nhà Lan có tất cả mấy con gà, em làm tính gì ?” (tính cộng). - Mấy cộng mấy? (4 + 5); 4 + 5 bằng mấy? (4 + 5 = 9). Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp: “9 này là 9 con gà”, nên ta viết “con gà” vào trong dấu ngoặc đơn: 4 + 5 = 9 (con gà). Trong các bước phân tích bài toán, giáo viên cần hướng dẫn học sinh qua các câu hỏi cụ thể để đi đến yêu cầu được giải quyết tránh tình trạng lan man thiếu trọng tâm và hướng học sinh đi lệch vấn đề. Bước 4: Trình bày bài giải: Đây là bước cụ thể hóa của vấn đề tư duy trên, nó được thể hiện rõ nét kỹ năng, kỹ xảo giải bài tập của học sinh. Học sinh dựa vào sơ đồ phân tích trên để viết bài toán, nó được chuyển dịch tư duy ngược lại khi phân tích. Nhìn vào bảng tóm tắt phân tích ví dụ trên, ta đi đến trình bày bài giải như sau: Bài giải: Nhà Lan có tất cả số gà là : 4 + 5 = 9 (con gà). Đáp số : 9 con gà. Lưu ý : Khi giải bài Toán có lời văn thông thường, các em chỉ cần viết bước 4, còn lại các bước 1, 2, 3 là bước suy nghĩ và làm miệng. Song cũng cần phải tỉ mỉ, cẩn thận, chính vì việc không để cho các em suy nghĩ cho nên dẫn đến đa số các em làm qua loa, đại khái, dẫn đến kết quả sai, bế tắc trong khi giải. Trong quá trình giảng dạy bài Toán có lời văn, có hai điều mà tôi cần lưu ý là: + Luôn củng cố ý thức nắm các bước giải toán. + Thành thạo kỹ năng tính toán, học thuộc bảng cộng, bảng trừ; biết làm cộng trừ trong phạm vi 100 không nhớ. 11 + Nếu trong quá trình giải Toán, học sinh không nắm được các quy tắc và tiến trình các bước thì không thể tránh được sự nhầm lẫn, bài toán có thể bế tắc hoặc tìm ra cách giải chưa hay, chưa nhanh nhất. Cho nên giải một bài Toán có lời văn dù là đơn giản hay phức tạp thì học sinh cần phải tuân thủ các bước tiến hành, không thể qua loa đại khái bước nào thì kết quả mới cao được. Điều này giáo viên và học sinh cần ghi nhớ. Nếu trong quá trình giải toán, học sinh không thuộc bảng cộng, trừ thì kết quả không tránh khỏi sự sai sót. Đây chính là kỹ năng quan trọng trong tính toán. Vì thế cho nên bất cứ bài toán nào cũng đòi hỏi đến kỹ năng tính toán. Vì vậy giáo viên phải luôn rèn luyện cho học sinh đọc đúng các phép tính cộng, trừ (không nhớ) và vận dụng thành thạo. Qua một số biện pháp kể trên ta có thể nhận thấy dễ dàng: Muốn giải một bài Toán có lời văn tốt thì học sinh phải: + Nắm chắc đường lối chung giải bài toán; + Nhớ các bước và vận dụng thành thạo. Biện pháp 3 : Tổ chức cho học sinh cách thực hiện các bước tóm tắt đề toán, trình bày lời giải, phép tính trong dạng "Giải toán có lời văn". Đối với Lớp 1, bài toán có lời văn chỉ đơn thuần là bài toán đơn, các em chủ yếu làm quen với hai loại bài (như đã nói ở trên), và trong chương trình này yêu cầu học sinh khi giải phải viết thêm lời giải. Đối với bài toán đơn thì các em sẽ dựa vào yêu cầu của bài toán để viết câu lời giải: Ví dụ: Tóm tắt đề toán (Bài tập 2 - trang 149 - Toán 1) Lan có : 8 quả bóng Lan thả : 5 quả bóng Còn lại: … quả bóng? Sau khi tính xong: 8 - 3 = 5 (quả bóng), giáo viên chỉ vào 5 và hỏi  : "5 quả bóng" ở đây là số bóng của ai "còn lại"? (Là số bóng của Lan còn lại). Từ câu trả lời của các em ta giúp học sinh chỉnh sửa thành câu lời giải: " Số bóng của Lan còn lại là ". Ở đây, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh nêu nhiều câu lời giải khác nhau, sau đó cùng bàn bạc, thảo luận để tìm câu trả lời thích hợp nhất. Không nên bắt buộc học sinh nhất thiết phải tuân theo một kiểu nhất định. Ngoài ra, từ tuần học thứ 7 (ở học kỳ I) ta đã ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề để giải bài toán có lời văn sau này, ở đây có sự chuẩn bị từ xa cho việc viết câu lời giải. Ví dụ : Từ bức tranh "3 con chim trên cành, 1 con chim bay tới" ở trang 47 Toán Lớp 1, sau khi học sinh quan sát tranh và điền phép tính vào dãy ô trống: 3 + 1 = 4 12 Giáo viên nên định hình dần cho các em bằng việc đặt thêm các câu hỏi: "Vậy có tất cả mấy con chim?" hoặc "Số chim có tất cả là bao nhiêu con?", ("Số chim có tất cả là 4 con"). Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải bằng miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này. Việc trình bày một bài toán có lời văn được thống nhất của dạng bài này là: + Bài giải viết vào giữa vở (có gạch chân). + Câu lời giải viết lùi vào 2 hoặc 3 ô (tùy vào câu lời giải dài hay ngắn) so với lề vở. Sau câu lời giải có dấu ( : ). + Xuống dòng lùi vào một ô so với lời giải để viết phép tính, tên đơn vị viết trong dấu ngoặc đơn. + Xuống dòng lùi vào bên phải 1 ô so với phép tính để viết đáp số. Sau từ “Đáp số” là dấu hai chấm, lúc này tên đơn vị tên đơn vị không phải đặt trong dấu ngoặc đơn, gạch chân từ “Đáp số”. Ví dụ: Bài giải. Lan còn lại số quả bóng là: 8 – 3 = 5 (quả bóng) Đáp số: 5 quả bóng. Trong thực tế, khi mới làm quen với dạng bài toán này có một số học sinh viết phép tính cùng dòng với câu lời giải. Ví dụ: Lan còn lại số quả bóng là : 8 – 3 = 5 (quả bóng). Viết như thế bài giải không được rõ ràng, sáng sủa, hay có khi các em thường trình bày cả bài giải, phép tính và đáp số thẳng cột dọc với nhau. Như vậy không được đẹp mắt. Ví dụ: Bài giải. Lan còn lại số quả bóng là: 8 – 3 = 5 (quả bóng) Đáp số: 5 quả bóng. Như vậy, để học sinh ttrình bày bài giải được đúng, đủ, giáo viên phải luôn nhắc nhở học sinh cách trình bày, hoặc yêu cầu học sinh nhắc lại việc cần làm khi giải một bài toán. Lưu ý: học sinh khi viết phép tính không viết dài dòng như: 8 quả bóng - 3 quả bóng = 5 quả bóng. Mà viết: 8 – 3 = 5 (quả bóng). 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 2.4.1.Tổ chức thực nghiệm 13 Từ những lý luận phân tích, nghiên cứu về “ Giải Toán có lời văn” trong chương trình Toán 1, để kiểm tra kết quả học tập của học sinh tôi, đã trực tiếp khảo sát chất lượng học sinh ở 2 lớp 1B và 1C (Lớp 1B tôi trực tiếp giảng dạy; Lớp 1C do giáo viên khác giảng dạy) bằng các bài tập trong tiết "Luyện tập" (Trang 121 – Sách giáo khoa Toán 1). Cụ thể như sau: I. Đề bài (Thời gian 40 phút). Bài 1: Trong vườn có 12 cây chuối, bố trồng them 3 cây chuối. Hỏi trong vườn có tất cả bao nhiêu cây chuối? Tóm tắt: Có : ... cây Thêm : ... cây Có tất cả: ... cây? Bài 2: Trên tường có 14 bức tranh, người ta treo thêm 2 bức tranh nữa. Hỏi trên tường có tất cả bao nhiêu bức tranh? Tóm tắt: Có : ... bức tranh Thêm : ... bức tranh Có tất cả: ... bức tranh? Bài 3 : Giải bài toán theo tóm tắt sau: Tóm tắt: Có : 5 hình vuông Có : 4 hình tròn Có tất cả: ... hình vuông và hình tròn? II. Cách đánh giá. - Hoàn thành Tốt: Làm đúng cả 3 bài tập trong khung thời gian quy định, lời giải chính xác, cách trình bày đẹp. Biết thêm dữ liệu vào phần tóm tắt của bài toán. - Hoàn thành: Làm được bài giải ở mức độ cơ bản, tính đúng kết quả nhưng chưa linh hoạt trong cách ghi câu lời giải và trình bày chưa đẹp. - Chưa hoàn thành: Làm được bài 1 và bài 2, chưa tính đúng kết quả bài 3, chưa linh hoạt trong cách ghi câu lời giải và trình bày chưa đẹp ở các bài tập. 2.4.2. Kết quả thực nghiệm: Sau khi tiến hành thực nghiệm, kết quả thu được như sau: Lớp Tổng số Hoàn thành Tốt học SL (em) TL (%) sinh Hoàn thành Chưa hoàn thành SL (em) TL (%) SL (em) TL (%) 1B 15 8 53,33 7 46,67 0 0 1C 15 4 26,66 8 53,33 3 20,01 So sánh kế quả làm bài của học sinh 2 lớp ta thấy, hiệu quả giữa 2 phương pháp (phương pháp thông thường và phương pháp mới) về "Giải Toán có lời văn 14 ở Lớp 1" tuy có sự chênh lệch không lớn lắm, song chất lượng làm bài của lớp 1B (lớp thực nghiệm ) cao hơn so với lớp 1C (lớp đối chứng). Cụ thể là, Lớp thực nghiệm có số bài Hoàn thành Tốt nhiều hơn lớp đối chứng 4 bài ( chiếm 26,66%) và không còn bài Chưa hoàn thành. Lớp đối chứng vẫn còn 3 em Chưa hoàn thành (chiếm 20,1%). Như vậy, với phương pháp mới tôi đã thử nghiệm trong suốt quá trình giảng khi dạy dạng Toán này ở lớp tôi chủ nhiệm, tôi thấy các em tiến bộ đáng kể so với phương pháp dạy học thông thường. Quá trình rèn luyện, ứng dụng sáng kiến và dạy thực nghiệm, chất lượng học tập của học sinh nâng lên rõ rệt. Đến cuối năm học sinh lớp tôi chủ nhiệm đã biết tự tóm tắt bài toán, biết tìm ra cách giải hợp lý, lời giải chính xác, trình bày rõ ràng, cẩn thận, sạch sẽ hơn trước nhiều. Qua kết quả trên cho thấy: Nếu có những biện pháp cụ thể cải tiến phương pháp dạy học thì sẽ nâng cao chất lượng học của học sinh, các em nắm vững kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo và làm bài một cách tự tin, câu lời giải chặt chẽ, trình bày bài khoa học, lí luận chặt chẽ, lôgíc hơn. Vậy, qua nghiên cứu giảng dạy ta cần chú ý đến các bước sau: Bước 1: Đọc hiểu đề bài toán; Bước 2: Tóm tắt đề toán; Bước 3: Phân tích đề toán tìm ra phép tính giải toán; Bước 4: Trình bày bài giải. Và điều không kém phần quan trọng là: “Tính đúng kết quả”. Kiểm tra vấn đáp học sinh ở một bài toán cụ thể cho đến nay, khi được hỏi các em trả lời: Khi giải bài Toán có lời văn phải thực hiện theo 4 bước: + Học sinh trả lời được các bước cụ thể (trước đây học sinh còn lúng túng khi giải bài toán có lời văn). + Học sinh có hướng giải nhanh nhẹn, kết quả chính xác. + Học sinh thuộc bảng cộng, trừ cao hơn (Tỉ lệ trước đây còn thấp). + Học sinh vận dụng thành thạo vào các bài tập toán. 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ - Kết luận Qua quá trình áp dụng những phương pháp, những kinh nghiệm của bản thân vào quá trình dạy học môn Toán nói chung và dạy giải Toán có lời văn ở Lớp 1 nói riêng, trước hết học sinh phải đọc thông, viết thạo, phải phân biệt rõ bài toán thuộc dạng nào, nhất là với những bài toán không có từ "chìa khoá" đặc trưng. Đồng thời phải có óc phân tích, suy luận, phải biết tổng hợp các dữ kiện để giải Toán. Mặt khác, phải vận dụng linh hoạt sự hiểu biết thực tế của bản thân với các bài toán 15 tương tự để giải Toán. Cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân học sinh, giáo viên phải thật sự tâm huyết, luôn tìm tòi đổi mới phương pháp, linh hoạt, mềm dẻo trong dạy học. Có như vậy mới mong muốn đạt chất lượng cao. Dạy Lớp 1, đầu tiên là phải tìm hiểu kỹ tâm sinh lí của từng em trong lớp, tổ chức lớp có nền nếp ngay từ đầu. Bởi vì học sinh Lớp 1, các em bắt đầu bước vào môi trường mới, có quá nhiều điều lạ lẫm với các em, tâm lý lo sợ, rụt rè, ảnh hưởng nhiều đến kết quả học tập, hơn nữa ý thức tự giác của các em chưa có, tính hiếu động còn cao nên nhiều em không tập trung, không nhập tâm khi học. Do vậy giáo viên phải thường xuyên tổ chức các trò chơi gây hứng thú cho các em, giáo viên vừa là người truyền thụ tri thức, vừa phải làm công tác ổn định tư tưởng, giáo dục ý thức tự giác học tập, giúp các em nhanh chóng làm quen với trường lớp, thầy cô, bạn bè và với mọi hoạt động khác để các em chủ động học tập. Từ thực trạng học sinh, nhà trường, gia đình và xã hội và bằng sự quyết tâm nỗ lực tìm tòi và phát hiện những nguyên nhân dẫn đến học sinh tiếp thu chậm trong học Toán, nhất là giải Toán có lời văn; năm học 2016 - 2017 tôi đã tìm ra các biện pháp tối ưu nhất để nâng cao chất lượng học sinh về Giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 1. Một là, giáo viên phải nắm vững khả năng về môn Toán của từng em, phân tích loại đối tượng để có biện pháp bồi dưỡng hợp lý nhất, nhằm phát huy hết trí tuệ của học sinh. Hai là, bản thân giáo viên cũng phải tự trau dồi học tập bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, phải tận tâm tận sức với nghề, không nôn nóng, phải hướng dẫn cụ thể từng học sinh. Bà là, phải phân loại rõ ràng hai dạng toán cơ bản ở Lớp 1, tìm ra những điểm khác biệt của hai dạng toán giải giúp học sinh nắm vững hơn không nhầm lẫn hai dạng với nhau. Bốn là, khi lập kế hoạch phải dự định trước được lỗi học sinh thường mắc phải, từ đó có cách chữa lỗi cho học sinh. Trong giờ dạy không nên áp đặt nặng nề, không nên gay gắt đối với những em thường mắc lỗi để từ đó có cách chữa lỗi. Đối với bài có cấu trúc giống nhau trong quá trình giải học sinh dễ nhầm lẫn máy móc, giữa bài toán này với bài toán khác. Vì vậy, giáo viên giúp các em so sánh và phân biệt từng dạng toán là một việc làm rất cần thiết. Năm là, phải giúp các em hiểu bằng cách giao việc cho các em thông qua gợi ý hoặc lập hệ thống câu hỏi. Do đó yêu cầu giáo viên phải nắm vững được từng đối tượng học sinh để từ đó giúp các đối tượng học sinh nắm bài tốt hơn. - Kiến nghị Qua một thời gian nghiên cứu, với vốn kiến thức ít ỏi của bản thân nhưng với sự giúp đỡ tận tình của đồng nghiệp và lòng ham mê nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học; tôi đã nghiên cứu, phân tích và cho rằng: Dạy học tốt bài Toán có lời văn có ý nghĩa quan trọng, làm nền tảng học tốt các môn khác. 16 Bài Toán có lời văn còn giúp cho học sinh Lớp 1 phát huy cao độ tính logic, tư duy trừu tượng. Cho nên, nó có vai trò, ý nghĩa quan trọng làm nền tảng cho học sinh học tốt các môn học khác. Chính vì vậy, giúp các em khắc phục khó khăn khi giải các bài Toán có lời văn là một vấn đề không thể thiếu được đối với người giáo viên. * Đối với nhà trường: + Tăng cường dự giờ rút kinh nghiệm cho giáo viên khi dạy giải Toán có lời văn. + Kiểm tra kế hoạch bài học của giáo viên một cách chặt chẽ, yêu cầu kế hoạch phải cận thận, thể hiện đầy đủ bài học. * Đối với giáo viên: Nắm vững vị trí của môn Toán đối với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh Lớp 1 nói riêng, có thái độ đúng đắn với bộ môn. Nắm vững các nguyên tắc và phương pháp trong dạy Toán. Khi hướng dẫn học sinh làm bài cần hướng dẫn tỉ mỉ, cẩn thận. Không “Đốt cháy giai đoạn” dễ gây cho học sinh tính cẩu thả khi giải Toán sau này … Trong kế hoạch bài học, giáo viên phải thể hiện đầy đủ chi tiết bài dạy để khi lên lớp thực hiện tiết dạy có hiệu quả. * Đối với học sinh: + Không bỏ qua một bước nào. + Không mĩ mãn với việc tìm ra một cách giải mà phải tìm ra nhiều cách giải. Từ đó chọn ra phương pháp duy nhất, trí tuệ nhất. + Điều không thể thiếu được là học thuộc và vận dụng thành thạo bảng cộng trừ, kỹ năng tính toán tinh thông. * Đối với câp quản lý: Cần quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ. Trên đây là những biện pháp nâng cao chất lượng giải bài Toán có lời văn cho học sinh Lớp 1 mà tôi đã nghiên cứu. Tuy nhiên, do vốn kinh nghiệm giảng dạy Lớp 1 chưa nhiều nên chưa tìm ra được các biện pháp hữu hiệu nhất. Song qua thực nghiệm tôi rút ra được một số biện pháp giúp các em học tập hăng say hơn và giải các bài Toán có lời văn đạt kết quả cao hơn. Tôi kính mong Ban giám hiệu nhà trường, các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp đóng góp ý kiến để tôi tiếp tục hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm này và được áp dụng rộng rãi hơn trong Giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 1. Xin chân thành cảm ơn ! 17 Cát Tân, ngày 10 tháng 4 năm 2017 Tôi cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Người viết Vi Thị Thu 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa toán 1 Nhà xuất bản giáo dục 2005. 2. Sách giáo viên toán 1. Nhà xuất bản giáo dục 2005. 3. Thông tư 30, Thông tư 22. 4. Phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học Trường ĐHSP Hà Nội 1. 5. Các tạp chí, chuyên đề, tài liệu có liên quan. 19 DANH MUC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN Họ và tên tác giả: Vi Thị Thu Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Cát Tân Như Xuân - Thanh Hóa Cấp đánh Kết quả TT Tên đề tài SKKN giá xếp loại đánh giá xếp Năm học đánh (Phòng, Sở, loại (A, B giá xếp loại Tỉnh…) hoặc C) Một số biện pháp rèn đọc Phòng 1 hiểu cho học sinh Lớp 3 GD&ĐT C 2005 - 2006 huyện Một số biện pháp Quy Phòng 2 đồng mẫu số cho học GD&ĐT B 2008 - 2009 sinh lớp 4 huyện Một số biện pháp So Phòng 3 sánh mẫu số cho học GD&ĐT B 2010 - 2011 sinh Lớp 4 huyện Một số biện pháp rèn Phòng 4 chữ viết cho học sinh GD&ĐT C 2013 - 2014 Lớp 2 huyện 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan