Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp hướng dẫn học sinh học tốt dạng toán rút về đơn vị ở lớp 3 theo...

Tài liệu Một số biện pháp hướng dẫn học sinh học tốt dạng toán rút về đơn vị ở lớp 3 theo mô hình vnen

.PDF
18
92
124

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH HỌC TỐT DẠNG TOÁN " RÚT VỀ ĐƠN VỊ" Ở LỚP 3 THEO MÔ HÌNH VNEN Họ và tên: Chức vụ: Đơn vị công tác: SKKN thuộc lĩnh vực: Nguyễn Thị Thanh Tâm Giáo viên Trường TH Quang Trung Toán THANH HÓA NĂM 2017 1 MỤC LỤC MỤC A NỘI DUNG MỞ ĐẦU TRANG 2 I II III IV B I II Lý do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu NỘI DUNG Cơ sở lí luận Thực trạng dạy học giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3 theo chương trình VNEN. Thực trạng Kết quả khảo sát thực trạng Một số biện pháp tổ chức thực hiện Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân ( kiểu bài 1). Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị giải bằng 2 phép tính chia ( kiểu bài 2) Hướng dẫn học sinh luyện tập so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài. Kết quả nghiên cứu KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ Kết luận Kiến nghị 2 3 3 3 4 4 5 1 2 III 1 2 3 4 5 C I II 5 5 6 6 9 11 12 12 14 14 15 1 A - MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN Như ta đã biết, mục tiêu của giáo dục Tiểu học là hình thành và phát triển nhân cách của con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu đó được thực hiện bằng các hoạt động dạy học và giáo dục thông qua các môn học và các hoạt động ngoại khóa, mà trong đó Toán học là môn học có vị trí, vai trò rất quan trọng trong chương trình tiểu học. Toán học còn là công cụ cần thiết để học sinh học tốt các môn học khác, giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, hoạt động có hiệu quả trong cuộc sống thực tiễn. Môn toán ở tiểu học góp phần phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận lô gíc, giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, bước đầu hình thành phương pháp suy luâ ̣n, thói quen làm việc khoa học, chủ động linh hoạt và sáng tạo. Từ vị trí và nhiệm vụ của môn Toán đặt ra cho người dạy là làm thế nào để nâng cao hiệu quả dạy học toán, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức. Trong nội dung chương trình môn toán lớp 3 gồm 5 mạch kiến thức: Các kiến thức về số học, các kiến thức về yếu tố hình học, đại lượng và phép đo đại lượng, một số yếu tố thống kê, giải toán có lời văn. Giải toán có lời văn là mạch kiến thức trọng tâm, trong đó giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị lớp có một vị trí quan trọng vì nó góp phần rèn luyện trí thông minh, phát triển tư duy, đặc biệt là tư duy giải toán cho học sinh tiểu học, đồng thời nó còn giúp các em học tốt các mạch kiến thức khác. Trong các mạch kiến thức toán ở chương trình tiểu học thì mạch kiến thức “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị” là mạch kiến thức khó đối với học sinh bởi vì đối với một số học sinh vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgíc của các em còn rất hạn chế nên khi giải toán dạng này thường rất chậm so với các mạch kiến thức khác. Các em thực sự lúng túng khi giải: Chưa biết phân tích đề toán để tìm ra cách giải, đặt lời giải chưa đúng, thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số của bài toán chưa chính xác, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt chưa rõ ràng, thiếu lôgíc. Vì vậy, khi dạy về giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị trong toán học chúng ta cần phải dạy như thế nào để đạt được hiệu quả tối ưu nhất? Đây là những vấn đề vô cùng cấp thiết và không hề đơn giản chút nào. Có lẽ đây không chỉ là những trăn trở, suy nghĩ của riêng bản thân tôi mà chắc chắn sẽ còn là của nhiều bạn đồng nghiệp khác .Vì thế tôi mạnh dạn chia sẻ với đồng nghiệp “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh học tốt dạng toán Rút về đơn vị ở lớp 3 theo mô hình VNEN” nhằm góp phần nâng cao chất lượng của những tiết học toán có nội dung giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị trong chương trình. 2 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tôi nghiên cứu sang kiến này nhằm phát huy các giải pháp tối ưu trong việc dạy tốt dạng toán “ Rút về đơn vị” ở lớp 3 theo mô hình VNEN III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Học sinh lớp 3B trường Tiểu học Quang Trung. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp khảo sát đánh giá thực trạng. - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp thống kê so sánh. - Phương pháp dạy thực nghiệm. - Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm. 3 B - NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lý của học sinh tiểu học mà cấu trúc nội dung môn toán phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh. Ở lớp 3, các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc ở giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoan sau, cho nên các em phải nắm chắc được tất cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng và kĩ năng khác nói chung. Đặc biệt ở lớp 3 sang học kì hai các em được làm quen với các dạng toán hợp cơ bản trong đó có dạng toán liên quan đến rút về đơn vị. Dạng toán này có nhiều ứng dụng trong thực tế, nó đòi hỏi học sinh phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng ứng dụng trong thực tế. Trong quá trình dạy học Toán 3, kể từ khi tham gia dự án dạy học theo mô hình trường học mới VNEN của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Điều đáng nói ở đây là giúp cho học sinh tự lĩnh hội được kiến thức theo sự chỉ dẫn của giáo viên để có được hiệu quả như mong muốn. Người giáo viên phải biết tổ chức, hướng dẫn cho học sinh hoạt động dưới sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, để mỗi học sinh tự phát hiện và giải quyết bài toán thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức cũ đã học. Trong việc giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị học sinh lớp 3 theo mô hình trường học mới VNEN, học sinh phải tư duy một cách linh hoạt, áp dụng được tất cả các kiến thức, kỹ năng và khả năng đã có vào việc giải các bài toán liên quan đến rút vè đơn vị, vào các tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp, phải biết vận dụng những dữ kiện, những điều kiện chưa được nêu ra một cách rõ ràng. Học sinh phải tự linh động trong giải toán, phát huy vai trò trung tâm, tích cực, chủ động của học sinh, vì vậy mạch kiến thức giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị đóng vai trò quan trọng trong nội dung chương trình Toán 3. Qua quá trình giảng dạy lớp 3 theo mô hình VNEN, tôi nhận thấy học sinh khi giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em rất lúng túng khi viết lời giải tuy rằng các em biết ghi phép tính đúng. Nhiều em nêu lời giải không phù hợp với yêu cầu đề toán đặt ra. Tất cả các nhóm khi làm đến dạng toán có lời văn đều có học sinh giơ thẻ cứu trợ để giáo viên đến hướng dẫn. Thậm chí mới đọc đề xong các em đã cho là khó rồi, không chịu suy nghĩ…Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng học sinh yếu toán giải ? Đặc biệt ở lớp 3 dạng toán “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị” là một trong các dạng bài khó đối với học sinh lớp 3. Cho nên làm cách nào để các em biết cách làm câu lời giải thích hợp tương ứng với phép tính. Đó là điều mà bản thân tôi luôn suy nghĩ làm cách nào để dạy hiệu quả nhất khi dạy dạng toán này. Trước thực trạng này, qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 3 và trong gần bốn năm dạy chương trình thực nghiệm mô hình trưởng tiểu học mới Việt Nam(VNEN) bản thân tôi cũng đã tích luỹ và rút ra một số kinh nghiệm. Đồng thời tôi thấy nó cũng đã góp phần giúp cho học sinh dễ dàng khi giải toán dạng: “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ”. 4 II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC GIẢI CÁC BÀI TOÁN LIÊN QUAN ĐẾN RÚT VỀ ĐƠN VỊ Ở LỚP 3 THEO CHƯƠNG TRÌNH VNEN 1. Thực trạng chung: Trong thực tế hiện nay, việc dạy giải toán nói chung và giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị và vận dụng khi giải các bài toán có liên quan là một vấn đề tương đối khó. Qua thăm dò, phỏng vấn giáo viên và học sinh về kết quả dạy - học giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị cho thấy càng lên lớp trên, khả năng tiếp thu và làm bài của học sinh càng tỏ ra lúng túng, khó khăn. Nhiều học sinh lớp 4, 5 chưa nắm vững các bước để giải bài toán, có em nhớ được các bước để giải bài toán nhưng khi vận dụng vào bài làm thực tế lại tỏ ra không tự tin, khả năng tư duy của các em còn hạn chế. Mặt khác do đặc điểm lứa tuổi, sự chú ý không ổn định của các em chiếm ưu thế các em thường nhạy cảm với những cái mới lạ, những đồ dùng trực quan có màu mè gợi cảm thường được tập chung sự chú ý của học sinh. Trong khi học giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị lại rất trừu tượng, dễ nhầm lẫn nên các em ngại khó và thường mắc sai lầm khi giải bài toán. Một mặt do các em chưa có ý thức tự giác và tích cực trong học tập, còn ham chơi hơn ham học, không tập chung chú ý nên không nắm vững kiến thức cơ bản trên lớp. Vì thế mà không làm được bài tập ở nhà. Một lỗi chung nữa do phần lớn học sinh chúng ta là không đọc kĩ đề bài, xác định đúng dạng bài trước khi đặt bút giải bất kỳ một bài toán khó hay dễ, mà chỉ đọc đề qua loa thậm chí chỉ nhìn lướt thấy có vài dấu phép tính đã đặt bút làm luôn. 1.1. Về phía học sinh: Khi giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị nhiều học sinh thường thực hiện sai các bước giải hoặc còn lúng túng, gặp nhiều khó khăn, cụ thể do một số nguyên nhân sau: + Thấy toán giải, chưa đọc đề các em đã có cảm nhận là khó. + Đọc đề chưa tập trung suy nghĩ còn mang nặng tính trông chờ nhóm trưởng, thậm chí vừa đọc đề bài đã cho là khó. + Làm xong không soát lại bài giải. Có lúc học sinh làm hai câu lời giải giống nhau mà phép tính lại khác nhau mà các em vẫn không phát hiện ra mình làm sai. Cứ thấy có hai lời giải là được rồi. + Các em còn hiểu nhầm hoặc hiểu lệch vấn đề đưa ra của bài toán, viết sai tên đơn vị của bài toán. + Các em chưa nắm chắc về phương pháp giải toán, cụ thể đọc đề xong mà không nắm được dữ liệu của bài toán, chưa nắm rõ giữa cái biết và cái chưa biết. + Khả năng suy luận phân tích đề của các em còn chậm. 1.2. Về phía giáo viên: Khi giảng bài do tâm lý sợ học sinh không nắm được bài, không hiểu bài nên giáo viên giúp đỡ học sinh một cách quá nhiều, nên vô tình lại trở lại bài giảng theo phương pháp cũ. 5 Khi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán giáo viên chưa giúp các em hiểu một số từ cần thiết (từ khoá) để làm nổi bật trọng tâm của đầu bài để từ đó lập kế hoạch giải. Khi hình thành các bước giải bài toán giáo viên chưa khắc sâu các bước giải toán cho học sinh. 1.3. Về phía gia đình: Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con cái. Bên cạnh đó cũng có nhiều phụ huynh rất quan tâm đến việc học của con nhưng lại không nắm được cách giải một số dạng toán ở tiểu học nói chung và dạng toán về bài toán liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3 nói riêng. Mặt khác một số phụ huynh rất muốn con học tốt nhưng vì điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn nên trẻ không được đi học đều vì thế trẻ sẽ không nắm được kiến thức, kĩ năng của bài học thì càng tỏ ra lúng túng và gặp khó khăn hơn nhiều. 2. Kết quả khảo sát thực trạng : Năm học 2016-2017 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3B. Đầu năm học tôi đã khảo sát chất lượng môn Toán kết quả thu được là: Bảng 1 ĐIỂM SỐ Lớp Sĩ số 9-10 7-8 5-6 <5 SL TL SL TL SL TL SL TL 3B 33 5 15% 9 27% 16 49% 3 9% Từ kết quả khảo sát trên cho thấy số lượng học sinh hoàn thành tốt môn toán còn thấp so với yêu cầu về chất lượng. Vẫn còn tồn tại học sinh chưa hoàn thành. Vâ ̣y làm thế nào để đưa được chất lượng môn toán của lớp đảm bảo theo yêu cầu được giao và góp phần đưa chất lượng môn toán chung của nhà trường được nâng lên. Tôi tiến hành viê ̣c thực hiê ̣n những giải pháp đề ra. III. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3 thực chất là những bài toán thực tế. Nội dung bài toán thông qua câu văn nói về những quan hệ tương quan và phụ thuộc, có liên hệ cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán liên quan đến rút về đơn vị là phải lược bỏ những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học chứa trong bài toán và nêu ra phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán. Quá trình giải toán là một hoạt động trí tuệ, khó khăn, phức tạp, hình thành kỹ năng giải toán khó hơn so với kỹ năng tính. Vì các bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ nhớ mẫu rồi áp dụng, mà đòi hỏi phải nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học và biết làm tính thông thạo. .Vì thế muốn cho học sinh giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị, trước tiên chúng ta phải hướng dẫn các em nắm chắc được những bước cần thực hiện khi giải toán nói chung. 1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán: Như chúng ta đã biết học sinh trong lớp học VNEN tự học theo sách 6 hướng dẫn. Giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, hỗ trợ học sinh học tập. Mỗi bài học trong (VNEN) được thiết kế gồm 3 hoạt động chính: Hoạt động cơ bản (hình thành kiến thức mới: học sinh được trải nghiệm, khám phá, tự đọc tài liệu, trao đổi với bạn ngồi bên cạnh, báo cáo kết quả trước nhóm, góp ý cho bạn, lắng nghe ý kiến đóng góp của bạn, nhóm thống nhất ý kiến chung về bài học, học sinh tự học dưới sự trợ giúp của giáo viên), Hoạt động thực hành (củng cố, thực hành, vận dụng kiến thức tại lớp: Học sinh tự thực hành, tự liên hệ kiến thức với thực tế, phát hiện và giải quyết các vấn đề, ứng dụng kiến thức đã học trong cuộc sống dưới sự trợ giúp của giáo viên), hoạt động ứng dụng( nhằm liên hệ kiến thức với thực tế và ứng dụng kiến thức đã học vào cuộc sống ở gia đình, địa phương và có sự giúp đỡ của người lớn). Trong đó, hai hoạt động đặc trưng trên lớp là Hoạt động cơ bản và Hoạt động thực hành. Để học sinh nắm chặc được phương pháp chung để giải các bài toán liên quan dến rút về đơn vị điều đầu tiên phải làm là bồi dưỡng đội ngũ nhóm trưởng. Vào cuối buổi học hoặc đầu buổi học giáo viên mời các nhóm trưởng ngồi lại thành một nhóm và hướng dẫn các em từng bước một. Phải có quá trình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ các em từ thấp đến cao, để các em tự giải quyết công việc từ đơn giản đến phức tạp. Biện pháp trong giai đoạn đầu là bắt tay chỉ việc, sau đó để các em từng bước tự lực giải quyết những công việc cụ thể trong toàn bộ tiến trình tổ chức hoạt động có sự theo dõi, uốn nắn của giáo viên. Phương hướng chung là tăng dần khả năng tự quản của HS đi đôi với việc giảm dần sự tham gia cụ thể của giáo viên trong từng hoạt động cho đến khi các em có thể chủ động hoàn toàn trong công việc. Giáo viên luôn giữ vai trò là người cố vấn, hướng dẫn chứ không phải là người làm thay. Vậy mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên, chúng ta cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau: * Bước 1: Đọc kĩ đề toán. * Bước 2: Tóm tắt đề toán. * Bước 3: Phân tích bài toán. * Bước 4: Viết bài giải. * Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: * Bước 1: Đọc kĩ đề toán: Nhóm trưởng yêu cầu mỗi bạn đọc ít nhất 3 lần đề bài toán. Mục đích để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số. Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên qua đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay. 7 - Trong khi học sinh đang đọc bài toán giáo viên quan sát các nhóm và đến giúp đỡ kịp thời những học sinh đọc yếu của lớp giúp em đọc bài toán tốt hơn. * Bước 2: Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề toán các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa cái đã cho và một số phải tìm hiện rõ hơn. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tắt ấy mà nhắc lại được đề toán. Thực chất là trình bày một cách ngắn gọn, cô đọng phần đã cho và phần phải tìm của bài toán để làm nổi bật trọng tâm của bài toán. Do vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách đọc, tạo điều kiện cho việc tóm tắt được bài toán. Thực tế học sinh trong nhóm có thể đưa ra rất nhiều cách tóm tắt bài toán khác nhau như: - Tóm tắt bằng chữ. - Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. - Tóm tắt bằng hình tượng trưng. - Tóm tắt bằng lưu đồ. - Tóm tắt bằng sơ đồ Ven. - Tóm tắt bằng kẻ ô. Khi các nhóm đưa ra rất nhiều cách tóm tắt khác nhau như vậy giáo viên chọn thời điểm chốt lại các cách tóm tắt mà học sinh đã đưa ra rồi hướng các em chọn cách nào cho hiểu nhất, rõ nhất phù hợp nhất nội dung của bài. * Bước 3: Phân tích bài toán: Ở bước này nhóm trưởng tiếp tục thay giáo viên điều hành các hoạt động trong nhóm. Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, nhóm trưởng cho học sinh trong phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường. Nhóm trưởng sẽ hỏi và lần lượt các thành viên trong nhóm được trả lời và được nhận xét đánh giá câu trả lời của bạn. Sau khi tất cả các thành viên trong nhóm trả lời được các câu hỏi nhóm trưởng sẽ kết luận cuối cùng câu trả lời đúng nhất - Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì ? - Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? - Cái này biết chưa? - Còn cái này thì sao? - Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào? Nhóm trưởng hướng dẫn học sinh trong nhóm phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên. Giáo viên quan sát và kiểm tra lại các câu hỏi đối với học sinh trong nhóm và kiểm tra trực tiếp tới một số học sinh còn yếu xem học sinh đó đã nắm vững dữ kiện của bài toán chưa. Khi các em đã phân tích bài toán và nắm vững được bài toán hỏi gì và cho biết gì thì giáo viên kết luận bước này. Từ những hướng dẫn trên các em nắm bài kĩ hơn, tự các em sẽ dễ dàng giải được bài toán. 8 * Bước 4: Viết bài giải: Học sinh trong nhóm đưa ra câu lời giải, phép tính của bài toán nhóm trưởng cho các thành viên trong nhóm nhận xét thấy đúng hợp lí thì thư kí sẽ ghi kết quả vào phiếu học tập. Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. * Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán va phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước: - Đọc lại lời giải. - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa Trong thời gian học sinh làm việc, giáo viên đi xung quanh các nhóm để quan sát các hoạt động của nhóm chứ không phải phó mặc cho nhóm trưởng. Nếu có vấn đề gì giáo viên giúp đỡ kịp thời có thể đặt câu hỏi gợi mở để giúp đỡ và giải quyết vấn đề mà nhóm đang gặp phải. Giáo viên lựa chọn thời điểm để chốt kiến thức trong tâm trong nhóm. 2. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân ( kiểu bài 1): Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành dạy ngay ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau: Kiểm tra kiến thức cũ: Để nhắc lại kiến thức cũ và chuẩn bị cho kiến thức mới cần truyền đạt, tôi bằng cách cho học sinh khởi động bằng bài toán sau: “Mỗi can chứa được 6 lít mật ong. Hỏi 8 can như vậy chứa được bao nhiêu lít mật ong?” Với bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau: Bài giải Tám can như vậy chứa được số lít mật ong là: 6 x 8 = 48 ( lít) Đáp số: 48 lít mật ong. Sau đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng toán đã học và giải thích cách làm, đồng thời cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài toán. Bài mới: * Giới thiệu bài: Dựa vào bài toán kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa giới thiệu bài ngày hôm nay các em được học. * Học sinh giải bài toán 1: Có 35 lít mật ong chia đểu vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong? 9 - Nhóm trưởng yêu cầu học sinh đọc đầu bài( 3 lần, học sinh yếu có thể nhiều hơn). - Học sinh tóm tắt bài toán ( Nhóm trưởng sử dụng phương pháp hỏi đáp): + Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can). + Bài toán hỏi gì? ( 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong). + Nhóm trưởng yêu cầu lần lượt học sinh trong nhóm nêu miệng phần tóm tắt sau đó thống nhất để thư kí ghi vào phiếu: 7 can: 35 lít 1 can: ….? lít . - Nhóm trưởng yêu cầu lần lượt học sinh trong nhóm phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán. - Nhóm trưởng yêu cầu học sinh trong nhóm làm vào phiếu. Bài giải Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (lít) Đáp số: 5 lít mật ong. - Giáo viên đến từng nhóm để củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm phép tính gì? ( phép tính chia). - Giáo viên giới thiệu. Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu cầu chúng ta tìm số lít mật ong trong 1can, để tìm được số lít mật ong trong 1 can, chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của một phần trong các phần. * Học sinh giải bài toán 2: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật ong? - Nhóm trưởng yêu cầu lần lượt học sinh trong nhóm đọc kĩ đầu bài ( 3 lần). - Nhóm trưởng yêu cầu học trong nhóm lần lượt nêu tóm tắt bài toán, thống nhất trong nhóm rồi thư kí ghi vào phiếu. 7 can : 35 lít 2 can : ? lít. - Nhóm trưởng cùng với các thành viên trong nhóm thảo luận phân tích bài toán: + Muốn tính được số lít mật ong có trong 2 can ta phải biết gì? ( 1 can chứa được bao nhiêu lít mật ong) + Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can? ( Lấy số lít mật ong trong 7 can ( 35 lít) chia cho 7). + Học sinh nhẩm ngay 1 can: ? lít. ( 35 : 7 = 5) + Học sinh nêu cách tính 2 can khi đã biết 1 can. (Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhân với 2). - Học sinh làm bài giải và phiếu học tập. - Học sinh đổi bài cho nhau để kiểm tra nhận xét đồng thời sửa sai cho bạn. Bài giải Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (lít) 10 Số lít mật ong có trong 2 can là: 5 x 2 = 10 (lít) Đáp số: 10 lít mật ong. - Nhóm trưởng yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít mật ong trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị. - Giáo viên sau khi kiểm tra kết quả thảo luận của các nhóm giáo viên chốt kiến thức ở kiểu bài 1: Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước: + Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị ( giá trị một phần trong các phần bằng nhau). Thực hiện phép chia. + Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại( giá trị của nhiều phần bằng nhau) . Thực hiện phép nhân. + Học sinh nhẩm thuộc, nêu lại các bước. + Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng. Sau khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta cần tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập. Khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập qua từng bài, giáo viên cần thay đổi hình thức luyện tập có thể: Thảo luận nhóm đôi, thi làm bài cá nhân hoặc tổ chức cho học sinh chơi trò chơi…. Sau mỗi bài như thế giáo viên cho học sinh củng cố các bước giải của bài toán để học sinh khắc sâu hơn. Khi học sinh đã nắm chắc kiểu bài 1 thì các em dễ dàng giải được kiểu bài 2. 3. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị giải bằng 2 phép tính chia ( kiểu bài 2) Khi dạy kiểu bài 2 này, tôi cũng cho học sinh thực hiện các bước tương tự. Song để học sinh dễ nhận dạng, so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài, khi kiểm tra bài cũ, tôi đưa đề bài lập lại của kiểu bài 1: “ Có 35 lít mật ong rót đều vào 7 can. Hỏi 2 can đó có bao nhiêu lít mật ong”. Mục đích là vừa kiểm tra, củng cố phương pháp giải ở kiểu bài 1, cũng là để tôi dựa vào đó hướng các em tới phương pháp giải ở kiểu bài 2( giới thiệu bài). Bài toán ở kiểu bài 2 có dạng sau: Có 35 lít mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu có 10 lít mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế? - Cho học sinh đọc kỹ đề và phân tích bài toán? Bài toán chi biết gì? Bài toán hỏi gì? - Giới thiệu tóm tắt bài toán: 35 lít : 7 can 10 lít :…. can? - Lập kế hoạch giải bài toán: + Tìm số mật ong trong mỗi can. + Tìm số can chứa 10 lít mật ong. - Thực hiện kế hoạch giải bài: + Tìm số mật ong trong mỗi can. 7 Can chứa 35 lít mật ong, muốn biết một can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm tính gì? (chọn phép tính 35 : 7 = 5) 11 + Tính số can chứa 10 lít mật ong: 5 lít mật ong chứa trong 1 can, 10 lít mật ong chứa trong ? can (chọn phép tính: 10 : 5 = 2) Trình bày bài giải. Bài giải: Số lít mật ong trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (lít) Số can cần có để đựng 10 lít mật ong là: 10 : 5 = 2 (can) Đáp số: 2 can mật ong - Khi củng cố, học sinh nêu được ở bước 1 là bước rút về đơn vị và các bước thực hiện bài giải chung của kiểu bài 2 này. + Bước 1: Tìm giá trị 1 đơn vị ( giá trị 1 phần): Đây là bước rút về đơn vị ( thực hiện phép chia). + Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) ( thực hiện phép chia). Sau mỗi bài tập, chúng ta lại củng cố lại một lần, các em sẽ nắm chắc phương pháp hơn. Đặc biệt khi học xong kiểu bài 2 này, các em dễ nhầm với cách giải ở kiểu bài 1. Cho nên, chúng ta phải hướng dẫn học sinh cách kiểm tra, đánh giá kết quả bài giải ( thử lại theo yêu cầu của bài). 4. Hướng dẫn học sinh luyện tập so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài: Trước khi luyện tập về dạng toán này giáo viên đưa ra hai kiểu bài và yêu cầu học sinh thực hiện lại các bước giải của hai bài toán. Khi học sinh giải xong cho các em nhận xét, so sánh hai kiểu bài này xem giống nhau và khác nhau ở điểm nào? Từ hai bài giải học sinh dễ dàng so sánh các bước giải của mỗi kiểu bài và tìm ra được giống nhau và khác nhau của hai kiểu bài. Kiểu bài 1 Kiểu bài 2 Bài toán 1: Có 35 lít mật ong chia Bài toán 2: Có 35 lít mật ong đựng đều đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy vào 7 can. Nếu có 10 lít mật ong thì đựng lít mật ong? đều vào mấy can như thế? Bài giải . Bài giải: Số lít mật ong có trong mỗi can là: Số lít mật ong trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (lít) 35 : 7 = 5 (lít) Số lít mật ong có trong 2 can là: Số can cần có để đựng 10 lít mật ong 5 x 2 = 10 (lít) là: 10 : 5 = 2 (can) Đáp số: 10 lít mật ong. Đáp số: 2 can mật ong Các Kiểu bài 1 Kiểu bài 2 bước ( Tìm giá trị của các phần) ( Tìm số phần) 1 - Tìm giá trị của 1 phần:( phép - Tìm giá trị của 1 phần: ( phép chia) chia)(Đây là bước rút về đơn (Đây cũng là bước rút về đơn vị) vị) 2 - Tìm giá trị của nhiều phần - Tìm số phần bằng nhau của một giá trị ( phép nhân) (Phép chia) Sau khi học sinh đã nắm được các bước giải của hai kiểu bài thì giáo viên chốt kiến thức một trước cả lớp: Trước hết các em phải nhận dạng được bài toán đã 12 cho có dạng nào. Nếu thuộc dạng “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị” thì HS cần thực hiện theo các bước sau: - Tóm tắt - Giải: + Bước 1: Tính giá trị 1 phần trong các phần bằng nhau. + Bước 2: Xác định xem là tính giá trị của nhiều phần bằng nhau hay tính số phần bằng nhau của 1 giá trị, từ đó thực hiện phép nhân hoặc phép chia. Sau đó, tôi yêu cầu học sinh học thuộc để áp dụng nhận dạng kiểu bài và giải các bài toán đó. Khi luyện tập, tôi tiến hành cho học sinh luyện 2 bài tập song song với nhau, mục đích là để các em vừa làm, vừa nhận dạng, so sánh. Sau mỗi lần luyện tập như vậy, chúng ta lại củng cố kiến thức một lần cho các em, chắc các em không còn nhầm lẫn nữa. * Lần 1: Bài toán 1: Có 5 túi gạo chứa được 25 kg gạo. Hỏi 3 túi gạo thì chứa được bao nhiêu ki - lô - gam gạo? Bài toán 2: Có 40 ki – lô - gam gạo đựng vào 5 túi. Hỏi có 24 kg gạo thì cần bao nhiêu túi như thế để đựng? * Củng cố cách giải, mối quan hệ giữa các phép tính trong 2 bài toán này. Mặt khác học sinh dễ dàng nhìn nhận ra lỗi sai của mình, nếu như nhầm phép tính ( Bài toán 2 là bài toán ngược của bài toán 1) * Lần 2: Bài toán 1: Có 24 quả táo xếp đều vào 4 đĩa. Hỏi cần bao nhiêu đĩa như thế để xếp 36 quả táo? Bài toán 2: Có 750 lít nước mắm đựng đều vào 5 thùng. Hỏi 7 thùng như thế đựng được bao nhiêu lít nước mắm? *Đổi thứ tự bài để học sinh củng cố được cách nhận dạng 2 kiểu bài và phương pháp giải. Tóm lại: Trên đây là phương pháp hướng dẫn các em học sinh lớp 3 giải tốt dạng toán: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi tin rằng nếu chúng ta làm được như vậy thì các em nắm được phương pháp giải dạng toán này tốt hơn, chắc chắn hơn, tránh được những sai sót có thể xảy ra. Các em sẽ có được tinh thần phấn khởi, tự tin khi giải toán. 5. Kết quả nghiên cứu: Tôi đã áp dụng cách làm này vào tất cả các tiết học toán có nội dung giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị và thấy được chất lượng học tập của học sinh ngày càng tiến bộ. Tôi thấy các em rất thích giải toán khi các em đã có đủ vốn kiến thức, phương pháp giải toán. Các em giải toán đúng, chính xác hơn khi các em được thầy cô nhiệt tình hướng dẫn với phương pháp dễ hiểu nhất, dễ nhớ nhất. Với phương pháp này tôi đã trang thiết bị cho các em vốn kiến thức phương pháp cơ bản để các em giải dạng toán này không nhầm lẫn, sai sót đến chất lượng học của các em được nâng lên rõ rệt. Nhìn chung, các em được giải toán, so sánh cách giải của 2 kiểu bài này, cho nên các em làm bài chính xác cao, chất lượng khả quan. Qua khảo sát chất lượng học sinh lớp 3B vào đầu năm 13 học ( Bảng 1), đến gần cuối năm học này, tôi thu được kết quả rất tốt, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành không còn. 1. Kết quả khảo sát: Bảng 2 ĐIỂM SỐ Lớp Sĩ số 3B 33 9-10 SL 10 TL 30% 7-8 SL 13 5-6 TL 40% SL 10 <5 TL 30% SL 0 TL 0 Từ kết quả trên cho thấy rằng viê ̣c áp dụng các giải pháp đã nêu đưa lại hiê ̣u quả thiết thực. Đă ̣c biê ̣t là tỉ lê ̣ học sinh đạt điểm 9-10 về môn toán được tăng lên mô ̣t cách rõ rê ̣t, không còn tồn tại học sinh dưới điểm trung bình. C - KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, phạm vi nghiên cứu chưa rộng. Xong với sự tìm tòi, sáng tạo và nổ lực của bản thân tôi đã biết áp dụng vào dạy học một cách tích cực để nâng cao chất lượng dạy học giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị nói riêng và môn toán nói chung nhằm góp phần làm phát triển toàn diện năng lực học toán của học sinh, giúp các em ham thích học toán, rèn được năng lực tư duy, suy nghĩ độc lập và sáng tạo. Qua việc nghiên cứu sáng kiến và thực nghiệm sáng kiến ở trường, để giúp học sinh lớp 3 học theo chương trình VNEN làm tốt dạng toán giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị thì giáo viên cần phải: + Mỗi giáo viên tiểu học cần thiết phải tự nghiên cứu sách Hướng dẫn học toán 3, tài liệu Tổ chức lớp học theo mô hình trường Tiểu học mới Việt Nam ( VNEN), tài liệu tham khảo, trau rồi học vấn nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân. Thường xuyên tham khảo dự giờ, hỏi kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp gần, nghiên cứu kỹ bài dạy, xác định rõ kiến thức trọng tâm trong mỗi giờ bài học. + Xây dựng lớp học tự quản nhằm: Phát huy tính tự giác, tính năng động của mỗi cá nhân trong tập thể. Hình thành ý thức làm chủ bản thân và làm chủ tập thể, tránh dựa dẫm, thói quen ỷ lại vào người khác. + Trong quá dạy toán ở lớp giáo viên cần theo dõi sát sao, lắng nghe những ý kiến của học sinh trong quá trình thảo luận nhóm, phát hiện những sai sót mà học sinh mắc phải phổ biến ngay trong nhóm, trong lớp. Từ đó có học sinh kịp thời khắc phục. Khi giáo viên đánh giá, nhận xét bài của học sinh giáo viên đưa ra ngay biện pháp hỗ trợ kịp thời theo thông tư 22 để học sinh sửa sai. + Điều quan trọng hơn hết là lòng nhiệt tình, tâm huyết của giáo viên sẽ giúp chúng ta tìm ra cách dạy học tốt. Vì ai cũng mong muốn lớp mình có nhiều học sinh học tốt. Vì thế giáo viên cần luôn tích luỹ cho mình kinh nghiệm trong 14 giảng dạy. Đồng thời rút ra được bài học kinh nghiệm để phục vụ cho các em tốt hơn, nhằm nâng cao chất lượng học sinh của lớp. + Người giáo viên phải hướng dẫn và giúp đỡ học sinh có kiến thức và kỹ năng giải toán, đồng thời nâng cao năng lực khái quát hóa, trừu tượng hóa, phát triển tư duy óc sáng tạo phương pháp suy luận lôgíc cho học sinh. + Thường xuyên thay đổi hình thức dạy học, điều chỉnh logo hợp lý ở mỗi bài để tránh sự nhàm chán. + Phải coi việc giải toán là cả một quá trình, không nóng vội mà giáo viên phải kiên trì tìm và phát hiện ra “ chỗ hổng” sau mỗi lần hướng dẫn để khắc phục, rèn luyện. + Hướng dẫn học sinh nắm đầy đủ các kĩ năng cần thiết khi giải toán bằng phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, không gò bó. + Tạo niềm hứng thú, sự say mê giải toán bằng các trò chơi toán học, bởi các em có thích học toán thì các em mới có sự suy nghĩ, tìm tòi các phương pháp giải bài toán một cách thích hợp. Kích thích tư duy sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp trong khi tìm tòi, phát hiện đường lối trong giải toán. + Tập cho học sinh có kĩ năng tự phân tích bài toán, tự kiểm tra đánh giá kết quả của bài toán, tập đặt các câu hỏi gợi mở cho các bước giải trong bài toán. + Gần gũi, động viên những em học yếu môn Toán để các em có tiến bộ, giúp đỡ nhẹ nhàng khi cần thiết. II. KIẾN NGHỊ: - Nhà trường: Hàng năm nhà trường cần mua sắm bổ sung thêm các tài liê ̣u tham khảo phục vụ cho công tác giảng dạy đạt được hiê ̣u quả cao nhất. - Phụ huynh: Cần có sự phối hợp chă ̣t chẽ với nhà trường, quan tâm hơn nữa đến viê ̣c học tâ ̣p của con em mình. Trên đây là một số kinh nghiệm trong thực tế giảng dạy mà bản thân tôi đã đúc rút được trong quá trình dạy học và đặc biệt là trong môn Toán (phần dạy giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3 theo chường trình VNEN). Tôi rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp và Hội đồng khoa học để tôi vận dụng dạy tốt hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục mà ngành đề ra. Do thời gian và năng lực còn nhiều hạn chế nên trong quá trình trình bày sáng kiến còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự góp ý từ đồng nghiê ̣p và các cấp có thẩm quyền để sáng kiến của tôi được hoàn thiê ̣n hơn. Xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 2 tháng 4 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến mình viết, không sao chép của người khác. Người viết 15 Nguyễn Thị Thanh Tâm XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG SÁNH KIẾN THỊ XÃ BỈM SƠN 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO - Tài liệu hướng dẫn giáo viên môn Toán lớp 3 theo mô hình trường học mới Việt Nam. - Tài liệu hướng học môn Toán lớp 3 theo VNEN tập 2A, 2B. - Các tài liệu bồi dưỡng giáo viên. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan