Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 giải toán có lời văn...

Tài liệu Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 giải toán có lời văn

.PDF
18
13
63

Mô tả:

MỤC LỤC TT Nội dung Trang A Mở đầu 1 1 Lý do chọn đề tài 1 2 Mục đích nghiên cứu 2 3 Đối tượng nghiên cứu 2 4 Phương pháp nghiên cứu 2 B Nội dung SKKN 3 1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 3 2 Thực trạng vấn đề 3 3 Các biện pháp tổ chức thực hiện 5 Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho phụ huynh, học sinh về vị trí, tầm quan trọng của môn Toán. 5 Biện pháp 2: Nắm vững đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi lớp 1, tạo được niềm vui khi đến trường. 6 Biện pháp 3: Sử dụng đồ dùng trực quan thường xuyên nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. 9 Biện pháp 4: Dạy theo đối tượng học sinh nhằm nâng cao hiệu quả học tập. 11 Biệp pháp 5: Tổ chức trò chơi học tập nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. 13 Biện pháp 6: Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để hướng dẫn các em học tốt mạch kiến thức giải toán có lời văn. 14 4 Hiệu quả của sáng kiến kinh. 17 C Kết luận, kiến nghị 17 1 Kết luận. 17 2 Kiến nghị. 18 A. MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài: Tiểu học là bậc học nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của con người. Là nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ 1 thống giáo dục quốc dân. Đây là bậc học cung cấp những kiến thức ban đầu về tự nhiên - xã hội - con người, về văn hoá - văn học Việt Nam và thế giới, trang bị các phương pháp, kĩ năng về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bồi dưỡng và phát huy những thói quen, tư tưởng, tình cảm, những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giáo dục học sinh là một nhiệm vụ quan trọng của cả xã hội. Nhưng cần thiết hơn vẫn là môi truờng giáo dục trong nhà trường. Đặc biệt là ngôi trường tiểu học. Bởi đây chính là nền móng quan trọng nhất để xây nên những chủ nhân tốt, tạo ra những công dân tốt cho xã hội hiện đại. Trăn trở với việc cần phải làm như thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục nước nhà, chúng ta đã có những thay đổi điều chỉnh kịp thời, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, kết thúc mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục; phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để kịp thời động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để giúp đỡ các em; đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh. Học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá; tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ. Ngoài ra, giúp cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ tham gia đánh giá quá trình và kết quả học tập, rèn luyện, quá trình hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của con em mình; tích cực hợp tác với nhà trường trong các hoạt động giáo dục học sinh,… Vì vậy, chúng ta là những người làm công tác giáo dục, khi đứng trên bục giảng đều phải lo lắng, trăn trở, tập trung nâng cao chất lượng dạy học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục. Cũng như các môn học khác, môn Toán có vai trò quan trọng là môn học cơ bản. Môn Toán ở lớp 1 mở đường cho trẻ đi vào thế giới diệu kì của Toán học, nhưng làm sao để học sinh biết làm toán với những con số khô khốc, những phép tính cộng, trừ thì đó là cả một vấn đề lớn đối với cả thầy và trò. Những kĩ năng cơ bản nhất không thể thiếu trong bậc Tiểu học cũng như trong cuộc sống. Là một giáo viên dạy lớp 1, tự bản thân tôi nhận thấy môn Toán là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là phần giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 1 lại càng quan trọng và khó khăn hơn. Học sinh lớp 1 ngày đầu tiên đi học ở trường Tiểu học còn rất nhiều bỡ ngỡ, việc làm quen với việc học đối với các em thật khó khăn bởi ở trường Mầm Non thì hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động vui chơi xong khi đến trường Tiểu học thì hoạt động học tập lại là chủ đạo, đó là hoạt động có ý thức (nghe giảng, học bài, có kiểm tra, làm theo yêu cầu của giáo viên...). Các em chưa quen ngay với những thay đổi này (từ hoạt động tự do sang hoạt động có mục đích). Ở tuổi này các em rất hiếu động, thiếu kiên trì, chú ý học chưa theo chủ định dễ nhớ cũng dễ quên, thích bắt chước...Chính vì vậy tôi đã tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu những biện pháp mới để giảng dạy môn Toán thật tốt giúp học sinh chủ động tiếp thu môn Toán một cách nhẹ nhàng thông qua hoạt động học tập nhằm đưa chất luợng học 2 sinh của lớp đạt hiệu quả tốt. Chính vì thế, tôi chọn đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt giải toán có lời văn ở lớp 1để nghiên cứu và thực hiện. 2. Mục đích nghiên cứu Như chúng ta đã biết, môn Toán cung cấp những kiến thức cơ bản về số, những phép tính trong đại lượng và khái niệm cơ bản về hình học, bên cạnh đó nó còn góp phần vào phát triển tư duy, khả năng suy luận, phát triển ngôn ngữ, trau dồi trí nhớ, kích thích cho các em trí tưởng tượng, óc khám phá, hình thành nhân cách cho các em, rèn các kĩ năng cơ bản của tiểu học. Mục đích của đề tài này là: + Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của một bài toán có lời văn lớp 1. + Đọc hiểu - phân tích - tóm tắt bài toán. + Giải toán đơn về thêm (bớt) bằng một phép tính cộng (trừ). + Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số. + Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau. 3. Đèi tîng nghiªn cøu: Mạch kiến thức về giải toán có lời văn, học sinh lớp 1C năm học 2016 - 2017. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp điều tra. - Phương pháp trực quan. - Phương pháp đàm thoại, gợi mở. - Phương pháp luyện tập B. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: 3 Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đứng trước sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của xã hội, đòi hỏi các nhà giáo dục phải đào tạo ra những con người phát triển một cách toàn diện về đức, trí, thể, mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng, là cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người mới. Cùng với môn Tiếng Viêt, môn Toán là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng ở bậc Tiểu học. Môn Toán ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành những kĩ năng cơ bản nhất không thể thiếu trong bậc Tiểu học cũng như trong cuộc sống là kĩ năng tính toán. Do đó, môn Toán có một vị trí rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học, nhất là học sinh lớp 1. Bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào trẻ cũng cần phải có kiến thức cho riêng mình không dựa nhờ vào ai. Để làm được điều đó, trẻ phải nắm chắc được kiến thức toán học, đọc thông viết thạo. Dạy phần giải toán có lời văn ở lớp Một là một trong những khâu quan trọng diễn ra suốt quá trình học Toán ở Tiểu học cũng như lên cấp học Trung học. Dạy phần giải toán có lời văn, giúp học sinh nắm được nội dung của một bài toán cho biết cái gì, bài toán yêu cầu làm gì, cách trình bày một bài toán giải gồm các bước: viết từ bài giải, viết câu lời giải, phép tính và đáp số. Học sinh cần nắm chắc cách làm bài toán có lời văn ở lớp 1 thì mới học tốt được dạng toán phức tạp này ở các lớp trên. Đặc biệt, học sinh lớp 1 dễ nhớ cũng dễ quên, thiếu tập trung, sự kiên trì nên người giáo viên tiểu học vừa là người thầy lại vừa là người mẹ thứ hai ở trường của các em. Vậy để học sinh lĩnh hội được các kiến thức giáo viên cần phải đưa ra một số biện pháp cụ thể giúp các em học tốt phần giải toán có lời văn tạo được nền móng vững chắc cho các lớp trên. 2. Thực trạng của vấn đề Trong năm học 2016- 2017 tôi được Ban Giám hiệu nhà trường phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 1C. Trong lớp có 21 học sinh, trong đó 10 em nữ và 11 em nam. Học sinh ngoan, có ý thức học tập, đa số các phụ huynh đều quan tâm đến việc học của con em. Bản thân là giáo viên trẻ, nhiệt tình, yêu thương học sinh. Được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, các bạn đồng nghiệp. Tuy nhiên ngay từ buổi đầu dạy học tôi đã nhận thấy chất lượng của lớp rất thấp, nhiều em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới việc học tập của các em. Vào lớp 1, lần đầu tiên trẻ được tiếp xúc với toán học với tư cách là một môn học, rèn luyện với các thao tác tư duy như là so sánh, quan sát, phân tích,... mà trình độ của các em không đồng đều. Đó là một thử thách lớn đối với cả giáo viên và học sinh trong khi trẻ đọc chưa thông, viết chưa thạo. Tư duy của học sinh còn mang tính trực quan là chủ yếu. Đọc được đề bài nhưng chưa hiểu đề bài, chưa biết thế nào là tìm hiểu bài toán có lời văn, chưa biết trả lời các câu hỏi như: bài toán cho biết gì, bài toán hỏi gì, không biết tóm tắt bài toán, lúng túng 4 khi nêu câu lời giải,... Một số em khi viết câu lời giải thì nêu lại câu hỏi của bài toán như Sơn, Hải, Tuấn; em Nam, Yến thì viết sai phép tính; còn em Hiểu, Đạt sai đơn vị, viết sai đáp số.... Có một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại không biết trả lời, điều đó chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. Vào lớp 1 các em mới tập cầm bút, tập viết những con chữ, con số nên việc làm được một bài toán số đối với nhiều em là một vấn đề khó khăn, chưa nói đến là phải trình bày cả bài giải toán có lời văn vào vở ô ly thực sự là việc làm vô cùng vất vả. Cũng là một bất cập nữa là các em đang viết quen chữ cỡ nhỡ chưa được làm quen với chữ cỡ nhỏ nhưng khi làm toán vào vở việc hướng dẫn cho học sinh cách viết chữ cỡ nhỏ, cách trình bày một bài giải toán có lời văn sao cho cân đối, khoa học thực sự mất nhiều thời gian mà đâu chỉ ngày một ngày hai là các em có thể làm được, những em tiếp thu chậm thì quả là một quá trình dài vì vậy có những em cả tiết học nhưng chỉ làm được một bài toán chưa đạt được yêu cầu so với chuẩn. Từ thực tế đó, tôi đã có những giải pháp cụ thể và tiến hành ngay để nâng cao hiệu qủa môn Toán nói chung và phần giải toán có lời văn cho học sinh khối 1, đặc biệt là lớp 1C. 3. Các biện pháp tổ chức thực hiện: Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho phụ huynh, học sinh về vị trí, tầm quan trọng của môn Toán. Trong mỗi chúng ta, ai cũng thuộc câu hát: ‘Gia đình gia đình ôm ấp ta những ngày thơ, cho ta bao nhiêu niềm thương mến,...gia đình là cái nôi nuôi con khôn lớn thành người". Muốn nâng cao được chất lượng của học sinh cần có những điều kiện thực tế, nhiều biện pháp tác động, trong đó hành động của giáo viên, ý thức của học sinh, phụ huynh có ý nghĩa quyết định mang đến sự thành công. Vì vậy ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã tuyên truyền cho phụ huynh học sinh hiểu vị trí, tầm quan trọng của môn Toán. Cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vai trò quyết định vì: các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, rất cần thiết cho người lao động, để học tiếp các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp môn Toán ở Trung học. Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng, hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Môn Toán góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ. Suy luận, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo. Học môn Toán ở Tiểu học góp phần quan trọng vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết, quan trọng của người lao động. Và việc dạy học phần giải toán có lời văn là cung cấp cho các em những kĩ năng quan trọng: nghe, nói, đọc, viết, là chìa khoá để tiếp cận những kiến thức phức tạp của dạng toán này. Nếu nói việc dạy học ở Tiểu học là xây một ngôi nhà thì việc dạy ở lớp 1 là chuẩn bị phần móng mà móng có vững thì ngôi nhà mới chắc. Để các em nắm vững các kiến thức và học tốt ở các lớp 5 trên thì ngay từ lớp 1,các em phải nắm vững đề bài toán, phân tích đề, nắm chắc các bước để giải bài toán có lời văn, có kĩ năng tính toán thành thạo. Nếu học không tốt phần toán giải này thì các em sẽ gặp khó khăn khi học dạng toán này ở các lớp trên. Cùng với việc tuyên truyền, phổ biến cho phụ huynh về vị trí, tầm quan trọng của môn Toán, tôi còn hướng dẫn cho phụ huynh trong lớp cách học theo hướng đổi mới để phụ huynh nắm rõ cách dạy học, kèm cặp con em mình học bài ở nhà. Tôi yêu cầu phụ huynh cần phải chuẩn bị ở nhà cho các em bàn và góc học tập đúng quy cách, đặt ở nơi có đầy đủ ánh sáng và lập cho con em mình một thời gian biểu cá nhân rõ ràng và rèn luyện các em làm theo thời gian biểu để thành thói quen. Tôi còn đề nghị phụ huynh mua đầy đủ sách vở, đồ dùng cho con em mình cụ thể là bộ đồ dùng học toán lớp 1. Học sinh lớp 1 có tư duy trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đồ dùng là phương tiện quan trọng để học sinh tiếp thu kiến thức mới nhằm nâng cao chất lượng học sinh. Tôi động viên phụ huynh cần quan tâm đến việc học của con mỗi khi con đến lớp bằng việc soạn sách vở, đồ dùng cho con đầy đủ, khi con ở nhà thì hướng dẫn con học và rèn luyện cho con cách sắp xếp đồ dùng gọn gàng, đúng vị trí sau khi học xong. Mặt khác, phụ huynh cũng biết lắng nghe giáo viên nhận xét những mặt mạnh và yếu của con em mình để có cách hướng dẫn con học; Biết chia sẻ các hoạt động ở nhà của các cháu cho giáo viên để giáo viên nắm rõ trình độ nhận thức, tâm sinh lí của từng em mà có kế hoạch, phương pháp giáo dục phù hợp với các em;… Sự phối hợp khéo léo giữa giáo viên và phụ huynh sẽ góp phần nâng cao chất lượng của lớp, vì vậy việc trao đổi thông tin hai chiều giữa giáo viên và phụ huynh, giữa phụ huynh và giáo viên là cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán đặc biệt là phần giải toán có lời văn. Biện pháp 2: Nắm vững đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh lớp 1, tạo được niềm vui học tập khi đến trường. Với học sinh lớp Một, các em vừa chuyển từ bậc học Mầm non lên Tiểu học, tức là chuyển từ hoạt động vui chơi là chủ yếu sang hoạt động học tập là chủ đạo, nhiều em cảm thấy bỡ ngỡ, bị gò bó, chưa thật sự tập trung chú ý học tập. Học sinh lớp Một với đặc điểm lứa tuổi là thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó thực hiện các động tác đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận, chú ý học chưa theo chủ định dễ nhớ cũng dễ quên, thích bắt chước…Khi bước vào lớp 1, học sinh phải làm quen với hoạt động học tập, đòi hỏi học sinh phải làm việc có tổ chức, có mục đích. Đó là một hoạt động có ý thức như: Đến lớp phải ngồi nhiêm túc nghe thầy cô giảng bài, phải học bài, giáo viên kiểm tra bài, các em phải làm theo yêu cầu của giáo viên… Vấn đề này càng khó khăn đối với những học sinh. Những thay đổi này làm cho một số em trong giờ học vẫn còn rụt rè, không dám đọc bài, không dám giơ tay phát biểu ý kiến…Các em không tập trung nghe giảng bài, còn ham chơi các trò chơi trong giờ học. Thực tế cho thấy học sinh đi học là những học sinh tự tin, có niềm vui khi đến lớp. Học sinh đến trường phải có niềm vui, có 6 vui mới học tốt được. Vậy làm thế nào để mỗi ngày học sinh cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Ngay từ khi nhận lớp, tôi đã chú ý tạo tâm thế cho học sinh để các em cảm nhận được đi học lớp Một sẽ có nhiều niềm vui. Mà niềm vui không thể tạo ra từ buổi học, tuần học mà phải có ở mọi lúc, mọi nơi qua thái độ, cách ứng xử của giáo viên trong việc chỉ bảo các em. Là người giáo viên cần có tình yêu thương thực sự với học sinh của mình, giáo viên cô giáo lớp Một càng cần hơn tình yêu thương như những đứa con đẻ của mình, nâng niu, nhẫn nhại với các con. Chỉ có tình yêu thương và lòng vị tha mới mang lại niềm vui cho học sinh. Thực hiện Thông tư 22/2016/TT – BGD& ĐT có hiệu lực từ ngày 06/11/2016 về việc đánh giá học sinh tiểu học, giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ, đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học. Tăng cường đánh giá thường xuyên bằng lời nói. Trong đó, chú trọng nhận xét cụ thể của giáo viên về những nội dung học sinh đã thực hiện được và những nội dung chưa thực hiện được để có kế hoạch động viên, giúp đỡ học sinh kịp thời”. Điều này đồng nghĩa với việc giáo viên đánh giá chất lượng học tập của học sinh bằng nhận xét cụ thể thay vì điểm số như những năm trước đây.  Để thực hiện có hiệu quả Thông tư 22/2016/TT- BGD& ĐT: Ban hành quy định đánh giá học sinh tiểu học, trong giờ học tôi thông qua hình thức: Học mà chơi, chơi mà học, giáo viên phải nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em, tạo không khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học, một lời nhận xét động viên các em dù là tiến bộ nhỏ nhất giúp các em thấy tự tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết, tránh quát mắng các em khi các em làm sai hay chưa làm được. Làm sao để mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Ngoài hoạt động chủ đạo là học tập ra học sinh phải được chơi và chơi hết mình để tinh thần thoải mái. Tôi đã phối hợp giáo viên Thể dục mượn đồ dùng: dây, cầu, bóng,… hướng dẫn các em chơi vừa giúp cơ thể khoẻ mạnh, mà còn rèn các tính nhanh nhẹn, khéo léo…tạo được tình thân bạn bè, yêu mến thầy cô. Trong giờ học để các em tiếp thu bài tốt hơn, tôi thường thay đổi không khí lớp học bằng bài thể dục giữa giờ, học sinh đặc biệt thích trò chơi học tập. Là một phương tiện có ý nghĩa quan trọng, cần thiết, nhằm khắc sâu kiến thức, phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện để đông đảo học sinh được tham gia. Trò chơi học tập giáo dục cho các em tính thật thà, biết đánh giá chính xác kết quả học tập của mình và của bạn, qua trò chơi thể hiện được tính trung thực của từng cá nhân; Ví dụ chơi ai nhanh hơn trong giờ Toán, chơi tìm nhanh tiếng, từ ngoài bài trong môn Tiếng Việt, chơi hái hoa dân chủ trong môn: Tự nhiên và xã hội;… 7 Một số em học tốt như em Trường, em Vy nhưng chữ viết rất cẩu thả, trình bày bài giải chưa cân đối, tôi kiên trì hướng dẫn cho các em cách trình bày sao cho đúng, khoa học. Tôi thường động viên, khuyến khích các em: Em làm bài rất nhanh, em chú ý dòng 1 viết câu lời giải, dòng 2 viết phép tính và đơn vị, dòng 3 viết đáp số như thế bài làm mới đẹp, cô tin từ bài sau các em sẽ trình bày đúng và viết đẹp hơn. Hay như em Kiệt, em Yến làm bài còn chậm hơn các bạn, tôi nhìn em và nói: Cô rất vui vì hôm nay các con đã hoàn thành bài tập trên lớp, cứ thế phát huy. Niềm vui của cô giáo là nhìn thấy sự tiến bộ của học sinh, mà cô vui- trò cũng vui tạo cho không khí của lớp học thật nhẹ nhàng và thoải mái, các em không còn lo lắng trong giờ học toán nữa. Đối với những học sinh chưa hoàn thành, tôi luôn luôn đối xử với các em công bằng nhưng rất nghiêm khắc, gần gũi, nhẹ nhàng bảo ban. Trong giờ học thường xuyên gọi những học sinh này lên bảng cho các em làm bài. Tôi hướng dẫn cặn kẽ hơn những chỗ em còn lúng túng. Nếu bài nào em chưa làm được tôi giảng lại và yêu cầu em làm một lần nữa. Nếu em vẫn chưa hiểu tôi lại giảng lại cho em thật hiểu. Gọi các em nói trước lớp nhiều lần để các em quen dần với chỗ đông người, mạnh dạn hơn khi đọc bài, khi nói ra ý kiến của mình để các em phấn đấu học tập. Từ những đặc điểm trên đòi hỏi người giáo viên lớp 1 cần chú ý xây dựng được nề nếp của lớp ngay từ những ngày đầu, giáo viên phải nhẹ nhàng tạo nên động cơ học tập, giúp các em hứng thú với các môn học nói chung và môn Toán nói riêng. Trong quá trình dạy học với tinh thần tất cả vì học sinh thân yêu mà tôi đã ân cần dạy bảo, khuyến khích, động viên những tiến bộ của HS dù là nhỏ nhất giúp các em tin tưởng vào bản thân mình từ đó các em phấn khởi yêu thích học tập . Biện pháp 3: Sử dụng đồ dùng trực quan thường xuyên nhằm tạo hứng thú học tập của học sinh. Ở lứa tuổi học sinh Tiểu học nhất là học sinh lớp Một chủ yếu là tư duy trực quan sinh động, các em phải dựa trên mô hình vật thật, tranh ảnh, do vậy trong các giờ học việc sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên là không thể thiếu. Kiến thức Toán học lại trừu tượng, khái quát. Muốn học sinh hiểu, dễ học phải đảm bảo tính trực quan. Sử dụng trực quan đúng mức sẽ góp phần phát triển tư duy trừu tượng học sinh. Đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh học tập, đồ dùng dạy học có tác dụng rất lớn trong quá trình dạy ở Tiểu học nhất là các em học sinh học chậm. Bài toán có lời văn là dạng toán mà học sinh đã làm quen từ rất sớm. Ngay từ bài: Luyện tập (Tiết 27) - Tuần 7 học sinh đã làm bài tập: Quan sát tranh, nêu phép tính thích hợp. Ở giai đoạn đầu tiên này học sinh được thường xuyên làm 8 quen với dạng toán quan sát tranh nêu phép tính thích hợp. Tôi hiểu đó chính là yêu cầu: tập biểu thị tình huống trong hình vẽ bằng 1 phép tính thích hợp. Ví dụ 1: Bài 5(a): Luyện tập (trang 46). 1 + 2 = 3 Bài đầu tiên rất quan trọng nên tôi cho học sinh quan sát kĩ tranh để học sinh biết được: Có mấy quả bóng? Thêm mấy quả bóng? Hỏi có tất cả mấy quả bóng?”.Sau đó tôi giúp học sinh nêu thành bài toán đơn với 1 phép tính cộng: “ An có 1 quả bóng. Hà có 2 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?”. Cho nhiều học sinh nêu lại bài toán theo ý hiểu của mình, không bắt buộc phải giống y nguyên bài toán mẫu của cô. Tôi nhấn mạnh vào từ: “có, thêm, có tất cả” để học sinh dần hiểu được: “ thêm” có nghĩa là: “cộng” và cụm từ: “ có tất cả” để chắc chắn rằng chúng ta sẽ thực hiện viết phép tính cộng vào ô trống đó. Tôi cũng không áp đặt học sinh cứ phải nêu phép tính theo ý giáo viên mà có thể nêu: 1 + 2 = 3 hoặc 2 + 1 = 3 Tôi đã hướng dẫn học sinh làm theo đúng mục tiêu của dạng bài tập này là: Giúp học sinh hình thành kĩ năng biểu thị một tình huống của bài toán bằng một phép tính tương ứng với mỗi tranh vẽ. Ví dụ 2: Bài 5( b) trang 50: Viết phép tính thích hợp. Cho học sinh xem tranh, nêu bài toán: Có 4 con chim đang đậu, 1 con bay đến. Hỏi có tất cả mấy con chim? 9 Tương tự như vậy học sinh tiếp tục thực hiện dạng toán này cho đến bài: Luyện tập (Tiết 61) - trang 87. Như vậy qua giai đoạn 1 học sinh của tôi đã hình thành tốt kĩ năng khi làm dạng bài tập này. Đó là: - Xem tranh vÏ. - Nªu bµi to¸n b»ng lêi. - Nªu c©u tr¶ lêi. - §iÒn phÐp tÝnh thÝch hîp víi t×nh huèng trong tranh. Ngoài tranh, ảnh giáo viên còn hướng dẫn học sinh sử dụng chính bộ đồ dùng học Toán của các em để làm các bài toán đặc biệt là các em học chậm, khi giáo viên vừa giơ tranh ( đồ dùng) ra là các em đã biết ngay là tranh vẽ gì và xung phong trả lời, nêu được thành lời bài toán. Như vậy, giáo viên biết vận dụng khéo léo tranh ảnh, vật thật vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh có năng lực và phẩm chất vượt trội lại vừa tạo hứng thú, sự cố gắng vươn lên cho học sinh học chậm. Biện pháp 4: Dạy học theo đối tượng học sinh nhằm nâng cao hiệu quả học tập. Để hướng dẫn học sinh làm được bài toán có lời văn trước hết tôi hướng dẫn học sinh thật kĩ bài: Bài toán có lời văn (trang 115) để học sinh nắm được cấu tạo của một bài toán có lời văn, hướng dẫn các em trả lời các câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? Ví dụ: Bài toán 1: Có 1 bạn, có 3 bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? Sau khi cho học sinh trả lời các câu hỏi tìm hiểu bài, tôi hướng dẫn học sinh câu đầu tiên là những điều bài toán cho chúng ta biết, còn câu thứ hai là yêu cầu của bài toán thể hiện bằng chữ “ Hỏi” ở đầu câu và dấu chấm hỏi ở cuối câu. Học sinh phải nắm vững cấu tạo của bài toán có lời văn, phân tích được đề bài thì khi chuyển sang bài:“ Giải toán có lời văn” học sinh mới dễ dàng tiếp thu hơn. 10 Ví dụ: Bài toán: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà? Đây là bài toán đầu tiên để hướng dẫn học sinh biết cách trình bày một bài giải có lời văn, tôi hướng dẫn các em đọc kĩ bài, trả lời các câu hỏi tìm hiểu bài toán. Tôi hướng dẫn học sinh cách trình bày bài giải, vừa nói vừa viết trên bảng như sau: Dòng 1 ta viết câu lời giải, dòng thứ hai viết phép tính và đơn vị, khi viết phép tính thì lùi vào một chữ so với câu lời giải, dòng 3 viết đáp số, viết đáp số lại lùi vào một chữ so với phép tính, gạch chân từ bài giải và đáp số. Sau bài học đầu tiên nhận thấy học sinh trong lớp gặp những khó khăn khi học giải toán có lời văn, tôi đã thay đổi phương pháp lấy người học là chủ đạo giúp học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá, hợp tác với bạn học. Tôi phân loại lớp thành các đối tượng sau: Đối tượng 1: Gồm những học sinh thường viết sai câu lời giải. Đối tượng 2: Gồm những học sinh thường viết sai phép tính, đơn vị. Đối tượng 3: Gồm những học sinh viết sai đáp số. Đối tượng 4: Những học sinh làm bài đúng cả 3 bước. Sau khi cho học sinh đọc đề bài, phân tích tìm hiểu bài toán, bạn này đọc, bạn kia nghe và ngược lại; cũng trong lúc này giáo viên quan sát bao quát và đặc biệt chú ý đến nhóm 1, 2 học sinh nhóm này là những em đọc còn chậm, dễ sai lỗi nên giáo viên phải hướng dẫn kĩ hơn để các em có thể nêu câu lời giải, cần cho nhiều em nêu để giáo viên sửa lỗi trực tiếp bằng lời cho học sinh theo đúng thông tư 22/2016/TT- BGD&ĐT. Các em được nghe bạn nêu và nhận xét phần trả lời của bạn là các em đã học được ở bạn những câu lời giải hay đồng thời biết theo dõi để sửa chữa những lỗi mình còn mắc phải. Những em chưa viết đúng câu lời giải tôi sẽ hướng dẫn cách đơn giản nhất để các em biết viết: Em Sơn, Hải, Tuấn nêu lại câu hỏi của bài toán tôi hướng dẫn các em chỉ thay vài chữ trong câu hỏi của bài toán: Viết câu lời giải bắt đầu sau chữ “ Hỏi” trong bài toán, còn chữ “bao nhiêu”, “mấy” được thay bằng chữ “số” rồi viết thêm chữ “là” vào cuối câu, dấu hai chấm “ : ” sau chữ là sẽ được câu lời giải đúng, còn đối với dạng bài : Giải bài toán theo tóm tắt: Ví dụ: Có Có :..........bóng xanh. :.........bóng đỏ. Có tất cả:.... quả bóng? Tôi hướng dẫn các em dựa vào dòng thứ 3 của tóm tắt cũng chính là câu hỏi của bài toán để viết thành câu lời giải bằng việc thêm vào chữ “số” vào chỗ “...” rồi viết thêm chữ “là” vào cuối câu, dấu hai chấm “ : ” sau chữ là. Còn nếu chưa viết đúng phép tính, đơn vị và đáp số tôi hướng dẫn viết đúng theo yêu cầu. 11 Ngoài cách phân loại theo đối tượng “ Đồng kiến thức”, tôi còn tổ chức tốt phong trào: “ Đôi bạn cùng tiến” để các em phát huy hết khả năng của bản thân, cứ sau mỗi tuần tôi lại sắp xếp lại chỗ ngồi kết hợp với việc phân loại học sinh theo thôn, đa số học sinh ở gần nhà với nhau tôi hướng dẫn các em những ngày nghỉ sẽ học nhóm ở nhà, còn ở lớp những học sinh làm bài tốt sẽ ngồi với các bạn tiếp thu chậm để bạn học tốt có thể hướng dẫn các bạn mình cách làm bài, trình bày bài giải. Việc làm này cũng mang lại hiệu quả cao qua thực tế ở lớp tôi thấy ngôn ngữ của trẻ em rất hay, khi bạn hướng dẫn nhanh hiểu. Khi làm bài xong có thể trao đổi bài trong nhóm bàn, những em làm tốt biết theo dõi để nhận xét, chữa lỗi cho bạn. Đồng thời khi những em đó nêu các câu lời giải khác các bạn học kém hơn sẽ học thêm được ở bạn những lời giải hay. Các em còn trở nên thân thiết với nhau qua các bài học. Cuối mỗi tuần vào giờ sinh hoạt lớp tôi thường tuyên dương khen thưởng nhóm bạn có nhiều tiến bộ trong tuần bằng những món quà nhỏ như cái bút, thước,... làm cho các em rất vui mừng và nói sẽ cố gắng học tập, em Thanh còn khoe em hướng dẫn cho bạn Đạt giờ bạn ấy đã tự làm được bài giải mà viết chữ cỡ nhỏ cũng đúng ô ly và đẹp nữa cô ạ. Với phương pháp dạy học theo đối tượng như thế này, học sinh tự bộc lộ hết các năng lực: giao tiếp, hợp tác; Tự học và tự giải quyết vấn đề và một số phẩm chất như chăm học; tích cực tham gia các hoạt động học tập ngay trong một tiết học. Biện pháp 5: Tổ chức trò chơi học tập nhằm phát huy tính tích cực ở học sinh. Học sinh lớp Một với đặc điểm lứa tuổi là thường hiếu động, thiếu kiên trì, nhạy cảm, ít chịu ngồi yên. Bởi vậy tổ chức trò chơi học tập là một phương tiện có ý nghĩa quan trọng, cần thiết, nhằm khắc sâu kiến thức, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện để đông đảo học sinh được tham gia. Trò chơi học tập giáo dục cho các em tính thật thà, biết đánh giá chính xác kết quả học tập của mình và của bạn, qua trò chơi thể hiện được tính trung thực của từng cá nhân. Những kiến thức cơ bản học sinh được học dưới dạng trò chơi, các em thấy hứng thú và tiếp thu kiến thức nhanh hơn. Đồng thời tôi nhận thấy thông qua các trò chơi tính cách của các em được bộc lộ rõ ràng hơn. Qua đó tôi nhận xét cụ thể về tính cách của từng em để có biện pháp giáo dục phù hợp. Hình thức này thường được tổ chức ở phần củng cố bài học. Tôi cho học sinh chơi trò chơi: Ai nhanh hơn, tổ chức cả lớp chơi. Giáo viên nêu bài toán, cả lớp suy nghĩ và bạn nào nhanh sẽ được quyền đọc câu lời giải và được tiếp tục đố bạn khác nêu phép tính và đáp số. Bạn nào giơ tay nhưng không nêu được hoặc nêu sai sẽ mất lượt không được đố bạn. Với hình thức này các em nắm bài rất nhanh và nhớ được lâu. Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy nếu người giáo viên biết lựa chọn phương pháp dạy học, hình thức tổ chức thích hợp với từng đối tượng học sinh 12 của lớp cùng với lòng nhiệt tình, quan tâm giúp đỡ của giáo viên thì chất lượng học sinh sẽ được nâng lên rõ rệt. Biện pháp 6: Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để hướng dẫn các em học tốt mạch kiến thức giải toán có lời văn. Giáo dục trẻ em là nhiệm vụ quan trọng của cả xã hội. Người tổ chức giáo dục là bố mẹ, nhưng để cha mẹ học sinh hỗ trợ hoạt động giáo dục thì giáo viên phải giúp họ hiểu được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc giáo dục cho thế hệ trẻ là cần thiết và càng sớm càng tốt. Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình mà không khoán trắng cho nhà trường, làm sao để họ thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình là yếu tố quyết định mang lại hiệu quả giáo dục. Học sinh lớp tôi đều là con em gia đình làm nghề nông, bố mẹ thường đi làm ăn nơi xa để con cho ông bà nuôi. Bên cạnh đó có 4 em bố mẹ ly hôn nên các cháu rất thiệt thòi về mặt tình cảm như: Ánh, Sơn, Quỳnh Anh, Kiệt. Chính vì vậy, cũng đã ảnh hưởng tới tâm lý các em, thực tế cho thấy còn nhiều phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến cuộc sống và việc học tập của con em mình, còn ỷ lại hết cho nhà trường. Điển hình như các trường hợp em Ánh thiếu đồ dùng học tập, thường xuyên không được ăn sáng trước khi đi học vì bố mẹ bỏ nhau, bố đi làm xa, hay em Kiệt những hôm trời rất lạnh mà em đi học phong phanh mỗi một chiếc áo mỏng lí do là bố mẹ chia tay nhau, mẹ vào Nam làm ăn gửi cháu cho ông bà ngoại đã già. Hay có em đi học mà quần áo thì mặc bẩn, đầu tóc không gọn gàng,...đó là thực tế rất buồn ở lớp tôi. Những trường hợp này như thế này giáo viên cần phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh, trao đổi với phụ huynh để họ hiểu rằng kết quả học tập của các em có tốt hay không là phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và nhà trường. Tôi nhắc nhở phụ huynh cần giúp các em soạn sách vở trong thời gian đầu và hướng dẫn, kiểm tra các em soạn sách vở khi các em có thể tự làm. Sau mỗi buổi học, phụ huynh cần kiểm tra bài vở xem em học bài gì, làm bài như thế nào, có ghi chép đủ không,... Còn giáo viên ngoài họp phụ huynh theo kế hoạch, phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh bằng sổ liên lạc, điện thoại, đến thăm nhà hay trực tiếp trao đổi với phụ huynh khi cần thiết, đặc biệt là những em có hoàn cảnh khó khăn cần trao đổi nhiều hơn. Từ ngày 06/11/ 2016 việc đánh giá học sinh đã được sửa đổi theo Thông tư 22/2016TT-BGD&ĐT, giúp cha mẹ học sinh tham gia đánh giá quá trình và kết quả học tập, rèn luyện, quá trình hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của con em mình nên việc quan tâm tới việc học của con càng quan trọng hơn, tích cực hợp tac với nhà trường có kế hoạch, phương pháp phù hợp giáo dục trẻ tiến bộ. Có một số em chưa hoàn thành bài ở lớp tôi yêu cầu vê hoàn thành, nhiều phụ huynh đã tích cực dạy cháu học ở nhà, nhưng khi đến lớp tôi kiểm tra bài thì em làm chưa đúng, hỏi ra cháu nói bà, mẹ dạy cháu làm thế. Cùng một bài toán nhưng có nhiều cách trình bày khác nhau như: Trường hợp 1: Bài giải 4 + 5 = 9 quả bóng 13 Đáp số : 9 quả bóng. Học sinh chưa biết trình bày sao cho cân đối. Chưa biết viết câu lời giải. Trường hợp 2: Bài giải An có bao nhiêu quả bóng 4+5=9 Đáp số: 9 Học sinh viết câu lời giải chưa đúng, chưa viết đơn vị. Trường hợp 3: Bài giải An còn số quả bóng là: 4 + 5 = 9 ( quả bóng) Đáp số: 9 quả bóng Học sinh không biết viết câu lời giải. Còn em Quỳnh Anh thì chưa chịu khó học và làm bài ở nhà, tôi trực tiếp trao đổi về tình hình học tập của cháu tiếp thu dạng toán giải có lời văn còn yếu, mẹ cháu nói: Thưa cô, cháu học kém lắm nói mãi không được tôi mặc kệ học được chữ nào thì được tôi bận lắm. Trước những phụ huynh như vậy, tôi nhẹ nhàng động viên các mẹ hướng dẫn con học bài phải thật nhẹ nhàng, chỉ bảo từng li từng tí, mỗi ngày một ít để các em thấm dần. Tôi đưa cho phụ huynh xem bài làm tốt của học sinh trong lớp, nêu cách trình bày bài giải. Mặt khác tôi cũng hướng dẫn các phụ huynh các mẹo nhỏ để dạy dạng toán này cho học sinh dễ hiểu: Viết câu lời giải bắt đầu sau chữ “ Hỏi” trong bài toán, còn chữ “bao nhiêu”, “mấy” được thay bằng chữ “số” rồi viết thêm chữ “là”. Viết phép tính, đáp số. Với cách làm này, chỉ sau một tuần học về giải toán có lời văn, học sinh trong lớp đã có thể tự tin làm bài, nắm rõ các bước trình bày bài giải. Hôm nào đến giờ học toán các em cũng sôi nổi, thi đua xung phong lên bảng để được trình bày bài toán có lời văn, giơ tay để nêu các câu lời giải khác nhau... Còn phụ huynh đi đón con, chờ cô giáo ra thì nói: Nhờ cô giáo mà chúng tôi mới biết cách hướng dẫn cho cháu làm bài ở nhà, các cháu tự giác ngồi học bài, rất thích học và còn đọc cho gia đình nghe bài làm của mình, còn hỏi mọi người ai có câu lời giải khác,... làm chúng tôi vui lắm. Còn mẹ của em Quỳnh Anh và gia đình Sơn thì khen các em học tập tiến bộ mà chữ viết cũng thay đổi hẳn so với học kì 1. Như vậy cần giữ được mối liên hệ hai chiều thường xuyên với phụ huynh học sinh, giáo viên cần nhiệt tình, mềm dẻo trước những phụ huynh đặc biệt là những phụ huynh khó tính, phải trao đổi bằng nhiều hình thức và cả tư vấn cho phụ huynh hiểu được quá trình học tập của các em có tốt hay không phải cần sự giúp đỡ rất nhiều từ phía gia đình. Qua việc giáo dục con cái như vậy sẽ giúp các em có kĩ năng tự phục vụ bản thân dần tạo thành tính tự lập từ nhỏ, các em sẽ tự tin giải quyết khi gặp những vấn đề bên ngoài của thực tế cuộc sống. 14 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. Bản thân là giáo viên trực tiếp giảng dạy, dựa vào đối tượng học sinh lớp mình phụ trách, tôi đã vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học, xác định đúng mục tiêu của từng tiết học nên những việc làm trên đã được tôi tiến hành thường xuyên trong các giờ Toán. Sau một thời gian thực hiện, tôi nhận thấy chất lượng môn Toán - phần giải toán có lời văn được nâng lên. So với thời gian đầu nhiều em còn làm sai, chưa biết viết lời giải, phép tính. Và đến ngày hôm nay 07/03/2017 với 21 học sinh các em đều biết cách trình bày bài toán có lời văn, phân tích đề bài, tóm tắt lại bài toán, nêu các câu lời giải khác nhau, kĩ năng giải toán có lời văn được nâng lên rõ rệt. Ngoài ra tôi còn nhận thấy rõ kết quả cụ thể của lớp học: - Học sinh có sự chuyển biến tích cực trong học tập, tự giác học và có rất nhiều cố gắng nhất là các em có hoàn cảnh khó khăn, các em học chậm: c¸c em kh«ng nhút nhát mỗi khi đến tiết Toán n÷a mµ ngîc l¹i cßn rÊt ham thÝch. Tríc khi häc bµi míi lµ xung phong nêu bài làm ở nhà của mình cho cô và các bạn nghe. Các em tự tin trong học tập, giao tiếp và thực sự thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui. - Tiếp thu bài tốt, thực hành tốt trong Toán học sẽ là nền móng tốt để cho các em học lên lớp trên với các con số và dạng bài phức tạp hơn, góp phần để chất lượng học tập ngày một tốt hơn. - Học sinh tích cực hơn trong học tập, mạnh dạn trình bày ý kiến của mình, có kĩ năng làm việc theo nhóm. - Cha mẹ học sinh thấy rõ vai trò của gia đình trong quá trình giáo dục con em mình, nhiệt tình chỉ bảo, quan tâm đến các em nhiều hơn, thường xuyên giữ mối liên hệ với nhà trường, hiểu được tầm quan trọng của sự kết hợp giữa nhà trường và gia đình, tích cực hơn trong việc cùng nhau giáo dục trẻ. 15 C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Dạy Toán ở Tiểu học có tầm quan trọng đặc biệt. Môn Toán góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ. Suy luận, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo. Góp phần quan trọng vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết, quan trọng của người lao động. Trong chương trình môn Toán lớp 1- phần giải toán có lời văn là sự tích hợp của nhiều phân môn giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, cách trình bày nhằm đạt mục tiêu của giáo dục tiểu học. Để nâng cao chất lượng môn Toán, giúp cho học sinh có tiến bộ thì giáo viên cần có quyết tâm cao trong việc giảng dạy, tìm ra những hạn chế, mấu chốt của vấn đề và có biện pháp tác động phù hợp với từng đối tượng học sinh, đổi mới các hình thức dạy học mang lại hiệu quả thiết thực. Muốn cho học sinh nắm vững được cách trình bày một bài giải toán có lời văn thì giáo viên phải thật ân cần, chịu khó dạy thật kĩ ở khâu phân tích đề bài, nắm rõ điều đã biết và điều cần tìm của bài toán. Khi các em nắm vững cấu tạo của một bài toán có lời văn thì các em sẽ nắm được cách giải bài toán một cách dễ dàng hơn. Giáo viên cần phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh: Biết trao đổi tình hình học tập và hoạt động ở trường của các cháu cho cha mẹ học sinh biết. Đồng thời cũng biết lắng nghe ý kiến của phụ huynh về con em của họ ở nhà để có sự phối hợp giáo dục phù hợp với từng em. 2. Kiến nghị. * Đối với giáo viên: - Tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Cần phải thực sự tận tụy, quan tâm yêu thương, gần gũi, tôn trọng nhân cách của các em và tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em thích đi học, yêu thích môn học. - Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để rèn luyện uốn nắn thường xuyên, liên tục ở mọi lúc, mọi nơi. - Giáo viên phải là tấm gương cho học sinh noi theo. Luôn kiên trì, uốn nắn, sửa sai cho học sinh; tránh nôn nóng. Tìm đúng nguyên nhân sai để sửa cho học sinh. * Đối với phụ huynh: Sù quan t©m, ch¨m sãc cña cha mẹ học sinh ®èi víi con em m×nh ®ãng gãp mét phÇn kh«ng nhá trong việc nâng cao chÊt lîng häc tËp cña học sinh. Việc mua sắm đồ dùng học tập cần đầy đủ để phục vụ cho việc học. Quan trọng hơn, hàng ngày cha me cần kiểm tra sách, vở, đồ 16 dùng học tập của con em mình đã đúng và đủ chưa tránh tình trạng học sinh thiếu đồ dùng. Đặc biệt là các em ở nhà với ông bà lại càng phải chu đáo hơn trong việc chăm sóc, nuôi dạy các cháu. - Khi con đi học về cha mẹ cần phải hỏi con về tình hình trên lớp: Hôm nay ở lớp, con học như thế nào? Cô giáo có gọi con lên làm bài không? Cô nhận xét con thế nào? Các bạn nhận xét con ra sao? Còn con nhận xét bạn nào ở trong lớp?...Nh÷ng câu hỏi đơn giản như thế thôi nhưng các bậc phụ huynh sẽ biết được con mình học ở mức độ nào. - Luôn lắng nghe lời nhận xét của giáo viên về con mình cả những điều đã làm được hay chưa làm được; Trao đổi với giáo viên về cách giáo dục các cháu ở nhà để giáo viên nắm vững hơn về tính cách của từng em mà có phương pháp giáo dục phù hợp. * Đối với nhà trường: - Cần có thêm tài liệu tham khảo, nâng cao cho giáo viên và học sinh để bổ sung phương pháp dạy, đáp ứng nhu cầu dạy- học. -Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp. Duy trì tốt việc thao giảng, thăm lớp, dự giờ giáo viên trong trường. Do thời gian làm đề tài có hạn, bản thân là giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm và đây cũng là năm học đầu tiên thực hiện Thông tư 22/2016/TTBGD&ĐT nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến, giúp đỡ của các đồng nghiệp, của cấp trên. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Xuân Vinh, ngày 08 tháng 3 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN do tôi tự viết không sao chép của người khác. Người viết Trịnh Thị Huệ 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Toán 1. 2. Sách giáo viên Toán 1. 3. Chuẩn kiến thức, kĩ năng lớp 1. 4. Văn bản số 03/VBHN- BGDĐT: Ban hành quy định đánh giá học sinh tiểu học. 5. Thông tư 22/2016/TT- BGD&ĐT: Về việc hướng dẫn đánh giá học sinh tiểu học. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan