Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp dạy yếu tố hình học cho học sinh lớp 3a trường tiểu học lương s...

Tài liệu Một số biện pháp dạy yếu tố hình học cho học sinh lớp 3a trường tiểu học lương sơn 2, huyện thường xuân, tỉnh thanh hóa.

.PDF
21
12
121

Mô tả:

MỤC LỤC TT 1 2 3 4 5 6 7 8 Nội dung 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài 1.2. Mục đích nghiên cứu 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh 9 nghiệm 2.3. Một số biện pháp thực hiện trong quá trình dạy các yếu tố hình học Trang 1 1 1 2 2 2 2 3 4 10 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 15 11 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 16 12 3.1. Kết luận 16 13 3.2. Kiến nghị 17 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Tiểu học là bậc học nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người, là nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Đây là bậc học cung cấp những kiến thức cơ bản ban đầu về tự nhiên - xã hội - con người; về văn hoá - văn học Việt Nam và thế giới; 0 trang bị các phương pháp, kĩ năng về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn; bồi dưỡng và phát huy những thói quen, tư tưởng, tình cảm, những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy chất lượng giáo dục là vấn đề quan trọng hàng đầu để giúp con người phát triển một cách toàn diện. Trong hệ thống giáo dục Quốc dân thì giáo dục Tiểu học giữ một vị trí hết sức quan trọng. Nó đặt cơ sở vững chắc cho toàn hệ thống giáo dục. Trong đó môn Toán giữ một vai trò vô cùng quan trọng vì nó giúp cho học sinh phát triển tư duy trừu tượng, tư duy logic và các kĩ năng tính toán cần thiết và thiết thực cho đời sống hàng ngày của trẻ. Các kiến thức được truyền thụ rất toàn diện và phong phú, nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu rất cơ bản, tạo cho các em tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với xã hội để có khả năng học tiếp lên Trung học cơ sở. Môn Toán ở Tiểu học là môn học chiếm thời lượng lớn chỉ sau môn Tiếng Việt đủ cho thấy tầm quan trọng của nó, nó là hành trang để các em bước vào cuộc sống. Trong dạy học toán ở bậc Tiểu học, phần dạy yếu tố hình học là một mạch kiến thức vô cùng quan trọng, nó giúp cho học sinh giải quyết được các bài toán thực tế trong cuộc sống. Vì vậy, khi “dạy yếu tố hình học” trong toán học chúng ta cần phải dạy như thế nào để đạt được hiệu quả tối ưu nhất? Đây chính là vấn đề vô cùng cấp thiết và không hề đơn giản chút nào. Có lẽ đây không chỉ là những trăn trở, suy nghĩ của riêng bản thân tôi, mà chắc chắn sẽ còn là của nhiều bạn đồng nghiệp khác đang mang trên mình trách nhiệm to lớn của một người Thầy. Vì thế tôi đã đi sâu tìm hiểu ''Một số biện pháp dạy yếu tố hình học cho học sinh lớp 3A Trường Tiểu học Lương Sơn 2, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh hóa. '' nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của những tiết học toán có nội dung hình học trong chương trình Tiểu học mới. 1.2. Mục đích nghiªn cøu: Nghiên cứu để làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy yếu tố hình học ở lớp 3 hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy yếu tố hình học ở lớp 3. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là nội dung, chương trình, phương pháp và thực tiễn của việc dạy yếu tố hình học ở lớp 3 hiện nay. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Nghiên cứu lí luận. 1 - Điều tra – quan sát. - Tổng kết kinh nghiệm. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận: Như chúng ta đã biết, học sinh Tiểu học các em ở độ tuổi đầu bậc tiểu học nhận thức cảm tính của các em phát triển mạnh, các em nhận thức các sự vật, hiện tượng chỉ dựa vào cảm giác, nó chỉ phản ánh cái bên ngoài, cái không bản chất của sự vật, hiện tượng. Chính vì vậy ở tiểu học môn Toán là một trong những môn học có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình, nó giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng, tư duy lô gíc, bồi dưỡng những thao tác trí tuệ cần thiết để nhận biết thế giới hiện thực, khách quan. Nếu như không có toán học thì con người sẽ như bị u mờ, không biết suy nghĩ để giải quyết một tình huống, một vấn đề cụ thể trong đời sống hiện thực hàng ngày, không biết tính toán dù chỉ là một phép tính đơn thuần nhất. Do vậy, toán học giúp con người phát triển trí thông minh, tư duy độc lập, linh hoạt và sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm. Trong đó “ yếu hình tố học” có thể nói là một bộ phận gắn kết mật thiết với các mạch kiến thức của toán học để tạo thành một môn toán thống nhất. Kiến thức hình học cùng với yếu tố đại số, đo lường và giải toán đã góp phần làm phát triển toàn diện năng lực học toán của người học sinh. “Yếu tố hình học” không chỉ là tiền đề để học tốt các môn học khác mà còn là bàn đạp vững chắc cho nhiều ngành nghề khác nhau trong cuộc sống thực tiễn, góp phần giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng, năng lực tư duy, sáng tạo, kĩ năng phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá, suy luận lô gíc và rèn luyện tính cẩn thận, chính xác, sáng tạo.“Yếu tố hình học” còn cung cấp cho học sinh những hiểu biết cần thiết về hình dạng, vị trí, kích thước... của các vật với những tình huống toán học trong cuộc sống hằng ngày của các em. Cùng với tri thức toán học “yếu tố hình học” còn rèn cho học sinh kĩ năng tính toán, vẽ hình, đo đạc, ước lượng, sử dụng dụng cụ toán học. Đặc biệt là kĩ năng "Toán học hoá" tình huống thực tế (đây là yếu tố rất cần thiết cho người lao động xã hội mới). Để đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi ở mỗi giáo viên – học sinh phải có một kế hoạch khoa học có định hướng cho việc dạy- học, đồng thời nó đòi hỏi ở giáo viên – học sinh tính kiên trì trong quá trình thực nghiệm. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 2.2.1. Thực trạng: Trong cuộc sống của xã hội loài người, cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội đòi hỏi mỗi con người cần phải có đủ đức, đủ tài, đủ năng lực trí tuệ góp phần làm giàu cho đất nước. Vì vậy, kiến thức toán học nói chung và 2 yếu tố hình học nói riêng là một công cụ quan trọng không thể thiếu đối với mỗi con người chúng ta. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, việc “dạy học yếu tố hình học” và ứng dụng giải các bài toán có nội dung hình học là một vấn đề tương đối khó. Qua thăm dò, phỏng vấn giáo viên và học sinh về kết quả “dạy học các yếu tố hình học” cho thấy càng lên lớp trên, khả năng tiếp thu và làm bài của học sinh càng tỏ ra lúng túng, khó khăn. Nhiều học sinh lớp 4, 5 chưa nắm vững các công thức, có em nhớ được công thức nhưng không biết từ công thức suy luận ra yêu cầu thực tế của bài toán, khả năng tư duy của các em còn hạn chế, mặt khác do các em còn ít được thực hành trong quá trình học nên rất vụng về, lúng túng, thiếu tự tin khi thể hiện khả năng của mình, nhiều em khi học thường học theo kiểu dập khuôn máy móc. Một phần do các em chưa có ý thức tự giác và tích cực trong học tập, còn ham chơi hơn ham học, không tập trung chú ý nên không nắm vững kiến thức cơ bản trên lớp. Vì thế mà không làm được bài tập về nhà. Một lỗi chung nữa do phần lớn học sinh chúng ta là không chịu đọc kĩ đề bài, suy nghĩ trước khi đặt bút giải bất kì một bài toán nào dù dễ hay khó, mà chỉ đọc đề một cách qua loa, thấy loáng thoáng một số yêu cầu, số liệu đã đặt bút giải luôn. - Về phía giáo viên: Nhiều giáo viên không chịu nghiên cứu, tìm hiểu kĩ nội dung kiến thức trong tiết dạy trước khi lên lớp mà chỉ xem qua trong sách giáo viên để soạn giáo án một cách đối phó. Thông thường các giáo viên chỉ chuẩn bị đồ dùng dạy học thật chu đáo, công phu ở các tiết thao giảng hoặc có người dự giờ. Còn các tiết học hằng ngày trên lớp lại chưa có sự đầu tư chuẩn bị. Mặt khác có giáo viên lại rất nhiệt tình với học sinh, chuẩn bị đồ dùng chu đáo cho từng tiết dạy nhưng chưa biết phối hợp nhịp nhàng các phương pháp, cách tổ chức cho học sinh hoạt động trong từng mảng kiến thức, dẫn đến tiết học rời rạc, không thu hút được sự chú ý của học sinh, làm cho các em chán không muốn học. Khi hướng dẫn luyện tập, đa số giáo viên còn thờ ơ với việc rèn cho học sinh thói quen đọc và nghiên cứu kĩ đề bài, tóm tắt bài toán trước khi đặt bút giải. đây là một bước rất quan trọng để giải một bài toán, bởi chúng ta có tóm tắt được đề bài thì mới hiểu được yêu cầu của đề và tìm ra hướng giải, đặc biệt là đối với các bài tập cần tóm tắt bằng hình vẽ, nếu không vẽ được hình thì khó có thể giải được bài toán đúng. - Về phía gia đình: Do địa bàn ở đây là vùng nông thôn miền núi nên nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Đa số học sinh đến trường, gia đình chỉ quan tâm đưa đón các em khi mới vào lớp 1, còn từ lớp 2, lớp 3 trở đi gia đình phó mặc cho nhà trường. Nhiều gia đình bố mẹ không có khả năng kèm cặp, dạy dỗ con em mình học khi ở nhà, để tự con học được đến đâu hay đến đấy. 3 Mặt khác, đối với chương trình lớp 3, nội dung yếu tố hình học được coi như một bản lề khép lại giai đoạn 1 và là tiền đề mở ra một giai đoạn mới- giai đoạn cuối của chương trình tiểu học. Nếu như chúng ta không biết phối hợp giữa gia đình và nhà trường để giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản về hình học ngay từ lớp 3, thì càng lên lớp trên các em càng tỏ ra lúng túng, khó khăn hơn rất nhiều. 2.2.2 Kết quả của thực trạng trên: Đầu năm học (tháng 9 năm 2016) tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng về hình học của học sinh lớp 3A, kết quả thu được là: Tổng số học sinh tham gia khảo sát: 18 em. Trong đó: Tổng số HS Kiến thức Kĩ năng - Vẽ hình 18 em - Ghi nhớ, vận dụng công thức - Nhận dạng hình HTT Hoàn thành CHT SL TL SL TL SL TL 2 11,2% 9 50% 7 38,8 % 1 5,6% 9 50% 8 44,4 % 1 5,6% 10 56% 7 38,4% Trước thực trạng trên đây, để giúp học sinh nắm kiến thức về hình học tốt hơn, tôi đã nhanh chóng bắt tay vào việc nghiên cứu, rút kinh nghiệm và mạnh dạn cải tiến phương pháp giảng dạy “các yếu tố hình học” để vận dụng thực hành ngay trên lớp 3A tôi chủ nhiệm. Đến nay, việc nghiên cứu đã mang lại hiệu quả. 2.3. Một số biện pháp thực hiện trong quá trình dạy các yếu tố hình học 2.3.1. Xác định vị trí, tầm quan trọng của một tiết hình học: Để tiết học thực sự gây nhiều hứng thú học tập và phát huy tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên cần hiểu rõ được mỗi tiết hình học có nội dung mang tính chất thực tế cao, học sinh khám phá kiến thức về nội dung này thông qua con đường thực nghiệm. Nghĩa là các em được trực tiếp quan sát, đo đạc, so sánh và phân tích để đi đến khái quát, tổng hợp ... Vì thế, mỗi tiết học hình có tác dụng to lớn trong việc phát triển trí tuệ, bồi dưỡng những đức tính, phẩm chất tốt đẹp của con người mới như: óc ghi nhớ, trí tưởng tượng, suy luận lô gíc, tính cẩn thận, chắc chắn trong công việc. 2.3.2. Tìm hiểu kĩ nội dung tiết học: 4 Trong mỗi tiết hình học thường gồm có hai phần: Một phần hình thành kiến thức mới và một phần là bài tập vận dụng, củng cố, mở rộng kiến thức vừa học. Vì vậy, trước khi lập kế hoạch cho bài dạy chúng ta cần phải nghiên cứu kĩ nội dung bài, tìm hiểu những kiến thức có liên quan đến kiến thức mới, xác định rõ điểm trọng tâm của bài, đồng thời cũng cần phải dự kiến các tình huống có thể xảy ra như: Học sinh chưa nắm vững đặc điểm của hình, còn lúng túng trong cách lập luận hoặc có thể có học sinh sẽ đưa ra những ý nghĩ, những câu hỏi hóc búa đòi hỏi giáo viên phải suy nghĩ cặn kẽ để đưa ra cách giải quyết sao cho khoa học mà học sinh dễ hiểu, nhằm tránh sự lúng túng trong khi lên lớp. Cũng từ đó xác định mục tiêu, phương pháp, đồ dùng dạy học, hệ thống câu hỏi khai thác ở học sinh từ kiến thức cũ đã có, đi đến kiến thức mới một cách lô gíc và hợp lí nhất, làm cho tiết học được tự nhiên mà học sinh ngày càng ham thích học toán hơn. 2.3.3. Xác định mục tiêu cần đạt: Một việc làm vô cùng quan trọng trước khi tiến hành cho một tiết dạy đó là giáo viên cần xác định rõ mục tiêu, sau bài học đó học sinh sẽ nắm được những kiến thức gì, hình thành và phát triển ở học sinh những kĩ năng nào; xác định mức giới hạn của bài, để truyền đạt kiến thức sao cho vừa sức đối với học sinh nhưng phát huy được vốn tích cực của các em, mà tránh được sự quá tải, nặng nề trong tiết học. Thực tế, phần nhiều giáo viên khi soạn bài chỉ xem qua loa phần mục tiêu trong sách giáo viên. Vì thế, họ không nắm chắc được mục tiêu của tiết học nên rất lúng túng khi thực hiện bài dạy. Ngược lại, một số giáo viên do quá say mê đi sâu khai thác, truyền thụ kiến thức cho học sinh mỗi lúc một mở rộng thêm, dần dần vô tình đã làm cho học sinh quá tầm suy nghĩ mà trở nên chán nản, không nắm được bài, làm cho tiết học không mang lại kết quả cao. Chính vì lẽ đó mà giáo viên cần phải có khả năng tự xác định mục tiêu, nội dung và giới hạn kiến thức của tiết học thì mới có thể chủ động, tự nhiên trong quá trình dạy học. 2.3.4. Chuẩn bị đồ dùng cho mỗi tiết học: Với đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học thì tư duy trừu tượng của các em chưa phát triển, mà tư duy cụ thể chiếm ưu thế hơn. Vì vậy, ở mỗi tiết học hình giáo viên đều phải chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo, bởi đồ dùng dạy học vừa là phương tiện truyền tải thông tin, vừa là nội dung của quá trình truyền thụ kiến thức, rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh và điều khiển hoạt động nhận thức cho các em từ trực quan đến tư duy trừu tượng. Khi sử dụng đồ dùng dạy học, giáo viên cần chú ý mấy điểm sau: + Đồ dùng dạy học phải đảm bảo tính khoa học, chính xác, đủ kích thước để học sinh dưới lớp có thể quan sát rõ. + Giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học phải đúng lúc, đúng mức độ, tránh sử dụng một cách tuỳ tiện, vì như thế sẽ tạo điều kiện cho học sinh ngại suy 5 nghĩ, ngại sử dụng trí tưởng tượng và làm việc một cách máy móc, thiếu linh hoạt. Đồ dùng dạy học của tiết hình học thường là các hình vẽ, mô hình, tranh ảnh, thước đo và các đồ vật thật học sinh quan sát ngoài thực tế. Tuỳ theo từng nội dung bài học mà giáo viên chọn đồ dùng sao cho đảm bảo tính sư phạm, tính thẩm mĩ, tránh sự lạm dụng, nhàm chán. 2.3.5. Xác định phương pháp dạy học: Tuỳ theo từng nội dung bài học, từng mảng kiến thức trong từng hoạt động mà ta xác định phương pháp dạy học sao cho phù hợp để học sinh nắm bắt kiến thức một cách chắc chắn, lô gíc nhưng lớp học vẫn nhẹ nhàng, không căng thẳng. Điều cơ bản là giáo viên phải biết phối hợp nhịp nhàng các phương pháp cho từng hoạt động, thể hiện rõ việc làm của thầy và trò trong việc hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới, sao cho mỗi học sinh đều được hoạt động, được tự mình tham gia đo, vẽ, cắt ghép, nhận dạng, tính toán...tạo dựng ra các biểu tượng hình học một cách chủ động, tích cực và tự tin. 2.3.6. Một số biện pháp dạy học cụ thể cho từng dạng bài: Các dạng bài trong nội dung yếu tố hình học lớp 3 gồm: + Dạng bài nhận dạng hình. +Dạng bài tính chu vi. + Dạng bài tính diện tích. 2.3.6.1. Đối với dạng bài nhận dạng hình: (gồm các nội dung: góc vuông, góc không vuông, hình vuông, hình chữ nhật, điểm ở giữa, trung điểm của đoạn thẳng, hình tròn). Giáo viên cần tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan để giúp học sinh có khái niệm về hình. Bước 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý giúp học sinh thực hành trên đồ dùng trực quan để nhận ra đặc điểm về hình. Bước 3: Hướng dẫn học sinh vẽ hình. Bước 4: Giáo viên đưa ra một số mô hình hình học khác nhau, đặt ở các vị trí khác nhau để học sinh nhận dạng hình mới học. Khi học sinh đưa ra nhận xét về hình, giáo viên nên đặt câu hỏi yêu cầu học sinh giải thích'' vì sao?'' bởi từ câu hỏi này đã nhắc nhở các em trở lại các căn cứ cơ sở về đặc điểm của hình vừa học để trả lời. Bước 5: Giúp học sinh liên hệ với các hình ảnh xung quanh lớp học và ngoài thực tế về các vật có dạng hình vừa học. Bước 6: Hướng dẫn học sinh làm bài tập. Bước 7: Củng cố, dặn dò học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài ''hình vuông'': 6 Giáo viên cho học sinh quan sát hình vuông và giới thiệu ''đây là hình vuông''. Hỏi: Hình vuông gồm có mấy góc? Mấy cạnh? (4góc, 4cạnh) -Yêu cầu học sinh dùng ê ke để kiểm tra các góc của hình vuông và trả lời câu hỏi: ''các góc của hình vuông như thế nào?'' (đều là góc vuông). -Yêu cầu học sinh lên đo 4 cạnh của hình vuông rồi trả lời câu hỏi:''em có nhận xét gì về 4 cạnh của hình vuông?'' (4cạnh đều bằng nhau). ? Vậy hình vuông có đặc điểm gì? (có 4 góc vuông và 4 cạnh bằng nhau). - Giáo viên rút ra kết luận về hình vuông và yêu cầu nhiều học sinh nhắc lại. Hướng dẫn học sinh dùng thước và ê ke để vẽ hình vuông. - Giáo viên đưa ra một số hình tứ giác ( Bằng giấy bìa cứng đã cắt sẵn) yêu cầu học sinh nhận biết hình nào là hình vuông? Hình nào không phải là hình vuông? Giải thích vì sao? -Yêu cầu học sinh liên hệ các đồ vật xung quanh có dạng hình vuông. -Hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên theo dõi, giúp đỡ học sinh vẽ hình chính xác. - Cuối cùng, giáo viên cho học sinh nhắc lại đặc điểm của hình vuông. Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập giáo viên cần chú ý những điểm sau: 1.1. Đối với các bài tập dạng vẽ hình, cần rèn luyện cho học sinh thói quen vẽ hình thật chính xác, điều này sẽ giúp các em nắm vững hơn về đặc điểm của hình và nhận dạng hình đúng. Hơn nữa sau này gặp các bài toán có nội dung phải tóm tắt bằng hình vẽ nếu các em vẽ hình chính xác thì sẽ suy luận tìm ra cách giải một cách dễ dàng hơn. 1.2. Đối với bài tập có dạng đếm hình, cần hướng dẫn học sinh đánh số vào từng hình riêng lẻ rồi lần lượt ghép các hình riêng lẻ đó lại theo một trình tự nhất định và đếm tất cả các trường hợp có thể. Ví dụ: Hướng dẫn học sinh tìm số hình tam giác trong hình bên: - Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự vào từng hình riêng lẻ. - Đếm lần lượt các tam giác tạo bởi một hình là (3 tam giác các tam giác tạo bởi 2 hình là (2 tam giác); tam giác tạo 3 hình (có một tam giác).. Vậy số hình tam giác có tất cả là: 3 + 2 + 1 = 6 tam giác. 7 Ngoài cách đánh số, có những bài có số lượng hình nhiều hơn dành cho học sinh có năng khiếu cần hướng dẫn bằng cách xác định hình qua đoạn thẳng và các điểm nối trên đoạn thẳng. VD: Hướng dẫn học sinh đếm số hình chữ nhật trong hình bên: B A -Ta xét các hình chữ nhật tạo bởi 2 cạnh M AB và MN và các đoạn thẳng nối các điểm trên 2 cạnh AB, DC ta đếm được 10 hình P chữ nhật. D N Q C -Tương tự đếm các hình chữ nhật tạo bởi 2 cạnh MN và PQ, PQ và CD đều có 10 hình chữ nhật. -Tiếp tục xét các hình chữ nhật tạo bởi 2 cạnh AB và PQ và các đoạn thẳng nối các điểm trên 2 cạnh AB, DC ta đếm được 10 hình chữ nhật. -Tương tự ta tính được số hình chữ nhật tạo bởi 2 cạnh MN và DC, AB và DC đều có 10 hình. Vậy số hình chữ nhật đếm được trong hình bên là: 10 + 10 + 10 + 10 + 10 + 10 = 60 (hình) 1.3. Đối với các bài tập dạng vẽ đoạn thẳng vào hình cho trước để được một số hình theo yêu cầu, giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát kĩ hình, đếm số hình đã có sẵn rồi xác định vị trí của đoạn thẳng trên hình để được số hình theo yêu cầu. VD:Vẽ thêm đoạn thẳng vào hình dưới đây để có 9 hình chữ nhật: Ta thấy trong hình đã có sẵn 3 hình chữ nhật. Trong đó có 2 hình đơn và 1 hình đôi, cần xác định vị trí của đoạn thẳng sao cho đoạn thẳng này cắt hình chữ nhật lớn làm 4 hình đơn và 4 hình đôi để khi kết hợp với một hình lớn ta được 9 hình. Vậy có thể đặt đoạn thẳng ở các vị trí là: 2.3.6.2. Dạng bài tính chu vi: (gồm các nội dung: Chu vi hình chữ nhật, chu vi hình vuông): - Đối với dạng bài này giáo viên cần nắm được chu vi của một hình chính là số đo xung quanh của hình đó. Vì vậy cần tiến hành theo các bước sau: - Đầu tiên giáo viên giúp học sinh nhớ lại khái niệm về chu vi (tức là số đo xung quanh), sau đó khai thác ở học sinh kiến thức cũ đã học để đi đến kiến thức mới 8 qua đồ dùng trực quan và xây dựng thành quy tắc, từ đó hướng dẫn học sinh vận dụng vào làm các ví dụ cụ thể qua các bài tập cho thành thạo, nhuần nhuyễn. - Khi học sinh đã vận dụng giải các bài tập một cách thuần thục, giáo viên cần giúp học sinh dựa vào quy tắc để suy luận ra cách tính ngược quy tắc rồi mới củng cố lại bài. Ví dụ: Dạy bài chu vi hình chữ nhật: - Giáo viên cho học sinh nhắc lại cách tính chu vi hình tứ giác (đã học ở lớp 2). - Yêu cầu học sinh tính chu vi hình tứ giác có kích thước cho sẵn ở các cạnh. -Từ đó liên hệ sang bài toán tính chu vi hình chữ nhật ABCD có chiều dài 4 dm, rộng 3dm. - Giáo viên cho học sinh quan sát hình vẽ rồi gọi học sinh lên bảng làm. Học sinh tính chu vi hình chữ nhật là : 4 + 3 + 4 + 3 = 14 (dm) (1) - Từ đây bằng câu hỏi gợi mở giúp học sinh nhận ra (4 + 3) được lấy 2 lần và yêu cầu học sinh chuyển phép tính trên thành phép nhân: (4+3) x 2 = 14 (dm) (2) - Yêu cầu học sinh nhìn vào biểu thức (2) nhận ra 3 là số đo chiều rộng , 4 là số đo chiều dài của hình chữ nhật.Từ đó giúp học sinh nhận ra cách tính chu vi hình chữ nhật và học thuộc quy tắc. - Giáo viên lưu ý nhấn mạnh các số đo chiều dài và chiều rộng phải cùng một đơn vị đo. - Hướng dẫn học sinh làm bài tập vận dụng. Khi học sinh đã nắm được quy tắc và vận dụng làm tốt các bài tập, giáo viên cần đưa ra các câu hỏi giúp học sinh suy luận: Hỏi:+ Muốn tính chu vi hình chữ nhật ta lấy chiều dài cộng chiều rộng rồi nhân với 2. Vậy muốn tính nửa chu vi hình chữ nhật ta làm thế nào? + Giáo viên chỉ vào chiều dài và chiều rộng của hình chữ nhật và hỏi: Tổng số đo chiều dài và chiều rộng của hình chữ nhật là gì? (là nửa chu vi). + Khi biết chu vi và chiều dài muốn tính chiều rộng hình chữ nhật ta làm thế nào? (Lấy chu vi chia cho 2 rồi trừ đi chiều dài). + Khi biết chu vi và chiều rộng, muốn tìm chiều dài hình chữ nhật ta làm thế nào? (Lấy chu vi chia cho 2 rồi trừ đi chiều rộng). - Cuối cùng giáo viên củng cố lại cách tính chu vi hình chữ nhật. 2.3.6.3. Dạng bài tính diện tích (gồm các nội dung: Diện tích hình vuông, diện tích hình chữ nhật): Trước hết giáo viên cần phải giúp học sinh nắm được khái niệm cơ bản về diện tích chính là bề mặt của hình, từ đó làm rõ nguồn gốc thực tế của diện tích bằng cách cho học sinh quan sát hình vẽ, tự xếp hình để đi đến cách tính diện tích của hình. Khi dạy dạng bài này ta cần thực hiện qua các bước đó là: 9 Bước 1: Ôn lại về diện tích. Bước 2: Xác định diện tích hình chữ nhật. Bước 3: Hướng dẫn tính diện tích hình chữ nhật. Bước 4: Xây dựng quy tắc tính diện tích hình chữ nhật. Bước 5: Hướng dẫn thực hành. Bước 6: Giúp học sinh suy luận ngược quy tắc. Bước 7: Củng cố dặn dò. Ví dụ: Dạy bài "Diện tích hình chữ nhật": Giáo viên cho học sinh quan sát hình chữ nhật có chiều dài 3cm, rộng 2cm và hình vuông đơn vị 1cm2 (lưu ý: giáo viên cần phóng to hình lên để học sinh quan sát rõ). Giáo viên chia hình chữ nhật thành 6 ô vuông có cạnh 1cm -Yêu cầu học sinh so sánh kích thước của các ô vuông vừa chia với ô vuông đơn vị. Hỏi: + Hình chữ nhật này có mấy ô vuông? (6 ô vuông) + Vậy diện tích hình chữ nhật này là mấy ô vuông? (6 ô vuông) Giáo viên lệnh cho học sinh: +Lấy trong bộ đồ dùng học tập của mình một hình chữ nhật và một số ô vuông đơn vị (lưu ý: ô vuông đơn vị là 1cm2) +Xếp các ô vuông đơn vị phủ kín hình chữ nhật (12ô) +Đếm số ô vuông đơn vị để nêu diện tích hình chữ nhật (12ô - Tức là 12cm2). - Yêu cầu học sinh: * Tính số ô vuông theo cột: 4 x 3 = 12(ô vuông) (1) *Tính số ô vuông theo hàng: 3 x 4 = 12(ô vuông) (2) +Vậy diện tích hình chữ nhật là bao nhiêu cm2? (12 cm2). -Yêu cầu học sinh nhìn vào hình và cho biết: +Số đo chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật? (dài 4cm, rộng 3cm). +Em có nhận xét gì về các thừa số trong biểu thức (1) và (2) so với chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật? (chiều dài, chiều rộng chính là các thừa số của hai biểu thức trên). +Vậy muốn tính diện tích hình chữ nhật ta làm thế nào? (lấy chiều dài nhân với chiều rộng hoặc lấy chiều rộng nhân với chiều dài). - Giáo viên lưu ý cho học sinh các số đo chiều dài và chiều rộng phải cùng một đơn vị đo. -Yêu cầu nhiều học sinh nhắc lại quy tắc và học thuộc quy tắc tại lớp. 10 -Hướng dẫn học sinh làm bài tập. Bước này cần để các em tự hoạt động. Giáo viên chỉ theo dõi, giúp đỡ những em chưa hiểu bằng các câu hỏi gợi mở để các em hiểu và tự làm bài, tránh áp đặt, làm thay cho học sinh. - Sau khi học sinh đã vận dụng làm tốt các bài tập, giáo viên cần yêu cầu học sinh dựa vào quy tắc nêu cách tính chiều dài hình chữ nhật khi biết diện tích và chiều rộng; tính chiều rộng khi biết diện tích và chiều dài. - Cuối cùng giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại cách tính diện tích; tính chiều dài; tính chiều rộng của hình chữ nhật. 2.3.6.4. Minh họa bằng một tiết dạy cụ thể: Trên đây là một số ý kiến chủ quan của bản thân nhằm nâng cao chất lượng dạy học yếu tố hình học ở lớp 3, tôi đã vận dụng vào giảng dạy trực tiếp ngay trên lớp 3A mà tôi chủ nhiệm, kết quả học tập của học sinh có tiến bộ rõ rệt. Sau đây tôi xin trình bày một giáo án minh hoạ: Toán Tiết 96: Điểm ở giữa - trung điểm của đoạn thẳng Tìm hiểu kiến thức sẵn có ở HS: Trong cuộc sống hằng ngày, học sinh thường đã gặp và sử dụng các từ "ở giữa", chẳng hạn như bạn này ''ngồi giữa"hai bạn kia hay em ''đứng giữa" bố và mẹ...Vì vậy khi dạy bài này giáo viên cần khai thác kinh nghiệm sẵn có ở học sinh, hỗ trợ giúp các em tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức mới. I. Mục tiêu: Giúp học sinh: - Hiểu thế nào là điểm ở giữa hai điểm. - Hiểu thế nào là trung điểm của một đoạn thẳng. - Có kĩ năng nhận biết được điểm ở giữa hai điểm, trung điểm của một đoạn thẳng. II. Chuẩn bị: 1. Chuẩn bị của giáo viên: O B - Một băng giấy vẽ hình ảnh điểm O ở giữa hai điểm A và B. A -Một băng giấy vẽ hình ảnh điểm M là trung điểm của đoạn thẳng AB. A M B -Một băng giấy ghi khái niệm điểm ở giữa (SGK). -Một băng giấy ghi điều kiện để M là trung điểm của đoạn thẳng (SGK). -Một băng giấy ghi câu kết luận ''M được gọi là trung điểm của đoạn thẳng AB''. -Một tờ giấy khổ to vẽ hình và các câu hỏi a), b) của bài tập 3 trong vở bài tập. 2. Chuẩn bị của học sinh: - Bảng con, phấn, thước kẻ có vạch chia cm. 11 -Vở bài tập. III. Phương pháp dạy học: - Phương pháp trực quan. - Phương pháp đàm thoại. - Phương pháp luyện tập thực hành. IV. Các hoạt động dạy học chủ yếu: 1. Giới thiệu bài: Giáo viên đưa ra tình huống ''bàn bạn Nam có 3 bạn: Hùng, Nam và Lan, các em quan sát và cho cô biết: Bạn Nam ngồi ở vị trí nào so với hai bạn Hùng và Lan?'' (ở giữa hai bạn). - Giáo viên tiếp: Tính từ ngoài vào trong ta thấy bạn Hùng đến bạn Nam rồi đến bạn Lan, còn tính từ trong ra ngoài thì đầu tiên là bạn Lan, đến bạn Nam rồi đến bạn Hùng. Vậy ta nói: Bạn Nam ''ngồi giữa'' hai bạn Hùng và Lan. Nhưng trong toán học, điểm này ở giữa hai điểm kia được hiểu như thế nào? Tiết học hôm nay ''điểm ở giữa - Trung điểm của đoạn thẳng'' sẽ giúp các em hiểu được điều đó. 2. Dạy học bài mới: Hoạt động 1: Giới thiệu điểm ở giữa. - Giáo viên yêu cầu học sinh lấy bảng -Học sinh thực hiện lần lượt theo con và nêu các lệnh: từng lệnh của giáo viên. +Kẻ đường thẳng. +Vẽ hai điểm A,B trên đường thẳng. +Vẽ điểm O ở giữa hai điểm A,B A O B - Giáo viên sửa lỗi cho những em làm còn lúng túng. - Giáo viên treo băng giấy vẽ hình ảnh -Học sinh quan sát băng giấy trả điểm O ở giữa hai điểm A,B yêu cầu học lời câu hỏi. sinh nhận xét: +Nêu thứ tự của các điểm tính từ trái sang A đến O đến B. phải +Nêu thứ tự của các điểm tính từ phải sang trái ? - B đến O rồi đến A. + Vậy điểm O ở vị trí nào so với 2 điểm A - O là điểm ở giữa 2 điểm A,B. và B? + 3 điểm A,O,B có thẳng hàng không? - 3 điểm A,O,B thẳng hàng. - GV treo băng giấy ghi kết luận về điểm 12 ở giữa (như SGK) lên bảng. - GV nêu ví dụ để HS xác định điểm ở giữa Trong các hình dưới đây: M N P I (Hình a) O P - Nhiều HS đọc câu kết luận. Cả lớp đọc đồng thanh. K N (Hình b) - Học sinh xác định: N là điểm ở giữa hai điểm M và P. Q - Hình (b) và hình (c) không có điểm ở giữa. (Hình c) + N là điểm ở giữa hai điểm M,P vì sao? +ở hình b),K không phải là điểm ở giữa 2 điểm I và N vì sao? +Hình c), P không phải là điểm ở giữa 2 điểm O và Q vì sao? - Giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại kết luận Hoạt động 2: Giới thiệu trung điểm của đoạn thẳng. - Giáo viên yêu cầu HS làm bảng con theo lượt lần lượt các lệnh: +Kẻ đoạn thẳng PQ có độ dài 12cm. +Vẽ điểm M ở giữa 2 điểm P,Q sao cho: PM = 6cm. - GV giúp đỡ học sinh còn lúng túng. - Yêu cầu học sinh đo độ dài đoạn thẳng PM. ? So sánh độ dài đoạn PM và độ dài đoạn MQ? +Vậy điểm M có cách đều 2 điểm P và Q không? - GV treo băng giấy vẽ hình ảnh điểm M là Trung điểm của đoạn thẳng AB và yêu cầu HS nhận xét: -Vì 3 điểm M,N,P thẳng hàng. -Vì 3 điểm I,K,N không thẳng hàng. -Vì 3 điểm O,P,Q không thẳng hàng. - 2, 3 học sinh nhắc lại kết luận. - HS làm bảng con theo lần lượt từng lệnh của GV. -Học sinh vẽ hình. P M Q -HS đo và nêu PM = 6cm -Đều bằng nhau và bằng 6cm - Điểm M cách đều 2 điểm P,Q -HS quan sát băng giấy trên bảng và nhận xét. A M B + Điểm M nằm ở vị trí nào so với 2 điểm A,B? - Điểm M nằm ở giữa A,B + Đo độ dài 2 đoạn thẳng AM và MB rồi so Sánh. - Đoạn thẳng AM bằng đoạn thẳng MB và 13 bằng 5dm. - GV kết luận: M là điểm ở giữa 2 điểm A và B, đoạn thẳng AM bằng đoạn thẳng MB. Ta nói M là trung điểm của đoạn thẳng AB. ? Vậy để M là trung điểm của đoạn thẳng AB - M là điểm ở giữa 2 điểm A và cần thoả mãn điều kiện nào? B. - GV dán băng giấy ghi 2 điều kiện để M là - Độ dài đoạn thẳng MA bằng trung điểm của đoạn thẳng AB và băng giấy độ dài đoạn thẳng MB ghi kết luận (SGK) lên bảng. -Học sinh quan sát và đọc cá nhân, đọc đồng thanh. - GV đưa ra các ví dụ yêu cầu HS xác định trung điểm của đoạn thẳng: C E D (Hình a) M P N I H K (Hình b) (Hình c) +Vì sao em biết H là trung điểm của đoạn thẳng IK? +Vì sao P không phải là trung điểm của đoạn thẳng MN? +Vì sao E không phải là trung điểm của đoạn thẳng CD? Hoạt động 3: Hướng dẫn thực hành. Bài 1: Yêu cầu HS làm cá nhân. - GV theo dõi, giúp đỡ HSCHT. - GV nhận xét, chốt lại ý đúng. - Củng cố lại kiến thức về điểm ở giữa. Bài 2, bài 3: -Yêu cầu HS trao đổi theo nhóm . -HS nêu chỉ có ở hình (c) điểm H là trung điểm của đoạn thẳng IK. -Vì H là điểm ở giữa 2 điểm I, K. Và đoạn thẳng IH bằng đoạn thẳng HK. -Vì đoạn thẳng MP không bằng đoạn thẳng PN. -Vì E không phải là điểm ở giữa điểm C, D. HS làm bài tập trong vở bài tập. -HS tự làm bài rồi nêu miệng kết quả. -HS khác nhận xét. -HS hai bàn một nhóm trao 14 đổi với nhau. - GV vẽ hình bài tập 2 và dán băng giấy của bài tập 3 lên bảng. -Yêu cầu đại diện từng nhóm trình bày kết quả -Đại diện mỗi nhóm trình bày và giải thích cách làm. kết quả, nhóm khác nhận xét. - GV nhận xét, kết luận ý đúng. - Củng cố lại kiến thức về trung điểm của đoạn thẳng. Bài 4: Yêu cầu HS làm bài cá nhân. -HS làm bài cá nhân, kiểm tra kết quả lẫn nhau. - GV củng cố cho HS cách vẽ hình theo mẫu. - GV chấm một số vở của học sinh. 3. Củng cố dặn dò: -Yêu cầu HS nhắc lại thế nào là điểm ở giữa, - 1, 2 HS nhắc lại. thế nào là trung điểm của đoạn thẳng. - GV nhận xét giờ học, dặn HS về nhà làm bài tập trong SGK và chuẩn bị bài sau. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Tôi đã áp dụng cách làm này vào tất cả các tiết học toán có nội dung hình học và thấy được chất lượng học tập của học sinh ngày càng tiến bộ. Các em có hứng thú và tích cực tham gia các hoạt động học tập trong mỗi tiết học, đặc biệt là các em đều ham thích học toán. Tình trạng học sinh vẽ hình sai hoặc chưa nắm được kiến thức cơ bản về hình đã giảm rõ rệt, giáo viên cảm thấy tiết học thật sự nhẹ nhàng, tự nhiên. Học sinh tiếp thu bài dễ dàng, gây được hứng thú học tập cho các em. Chất lượng kiến thức hình học của học sinh lớp 3A được đánh giá cụ thể là: Tổng số HS 18 em Kiến thức Kĩ năng HTT Hoàn thành CHT SL TL SL TL SL TL - Vẽ hình 9 50% 9 50% 0 0% - Ghi nhớ, vận dụng công thức 7 38,9% 11 61,1% 0 0% 15 - Nhận dạng hình 4 22,4% 13 72% 1 5,6% 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận: Qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn và bằng thực tế đã một số năm kinh nghiệm qua việc trực tiếp giảng dạy lớp 3 với sự giúp đỡ của Ban giám hiệu, đồng nghiệp và các em học sinh lớp 3A Trường Tiểu học Lương Sơn 2 huyện Thường Xuân, nên đề tài nghiên cứu của tôi đã thu được một số kết quả đáng khích lệ sau: - Phân tích được cơ sở tâm lí học của học sinh Tiểu học trong quá trình nhận thức. - Thống kê được các dạng toán về hình học trong nội dung chương trình lớp 3. - Phân tích và chỉ ra được các bước quan trọng trong quá trình hướng dẫn học sinh vẽ hình, ghi nhớ, vận dụng công thức, nhận dạng hình. - Phân tích và nêu một số ví dụ cụ thể cho việc thực hiện từng bước trong quá trình hướng dẫn học sinh vẽ hình, ghi nhớ, vận dụng công thức, nhận dạng hình. - Đặc biệt là đã nêu lên được một số biện pháp cụ thể trong việc hướng dẫn học sinh học yếu tố hình học. Để đạt được kết quả cao trong việc học yếu tố hình học đòi hỏi người học sinh tính tích cực, độc lập sáng tạo trong suy nghĩ, khả năng thực hành. Vì vậy giáo viên phải là người nắm được đặc điểm tâm lí, kết quả học tập của học sinh. Từ đó phân loại đối tượng. Lên kế hoạch, lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, khuyến khích động viện học sinh kịp thời. Tổ chức cho học sinh học nhóm kèm cặp lẫn nhau. Giáo viên thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả và sửa chữa những thiếu sót của học sinh. Phối hợp với phụ huynh tạo điều kiện và có kế hoạch cho học sinh học ở nhà. Để làm được việc này giáo viên cần tôn trọng học sinh, nhiệt tình trong giảng dạy, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Bằng kinh nghiệm nhỏ trên tôi nhận thấy học sinh có rất nhiều tiến bộ trong việc vẽ hình, ghi nhớ, vận dụng công thức, nhận dạng hình. Tạo được niềm say mê học tập ở học sinh. Cuốn hút các em thêm yêu thích môn toán, với mong muốn được khám phá bầu trời trí thức của khoa học tự nhiên. Việc nắm vững các dạng bài trong học yếu tố hình học sẽ giúp các em có được kĩ năng tính toán, vẽ hình, đo đạc, ước lượng, sử dụng dụng cụ toán học trong thực tế. Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã áp dụng và nó đã mang lại nhiều hiệu quả. Tôi tin rằng sáng kiến này sẽ giúp cho nhiều giáo viên có được cách hướng dẫn học sinh, để các em học yếu tố hình học tốt hơn, từ đó giúp 16 nâng cao chất lượng môn toán nói riêng và chất lượng giáo dục học sinh nói chung. 3.2. Kiến nghị: Để dạy tốt“ yếu tố hình học ở lớp 3” tôi xin đề xuất một số ý kiến sau: + Về phía giáo viên: - Trước khi tiến hành bài dạy, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài, tìm ra mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức cũ đã học có liên quan, để khai thác kiến thức, kĩ năng sẵn có ở học sinh từ kiến thức cũ đi đến khám phá, chiếm lĩnh kiến thức mới. - Giáo viên phải luôn luôn gương mẫu trong khi nói, viết, vẽ hình hay sử dụng đồ dùng dạy học. Bởi nó là hình ảnh trực quan thiết thực nhất đối với học sinh. - Trong quá trình dạy học giáo viên cần khuyến khích học sinh dựa vào khái niệm để làm căn cứ, cơ sở cho lời nhận xét của mình; dựa vào quy tắc để lật lại vấn đề tính xuôi, tính ngược quy tắc nhưng chú ý phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh. - Khi hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành cần để các em làm việc theo khả năng của mình, không nên bắt các em phải chờ đợi nhau. Đặc biệt đối với những học sinh yếu kém giáo viên cần hướng dẫn các em lần lượt từng bước để các em nhận ra cách làm, tuyệt đối không được làm thay học sinh. - Trong mọi tình huống xảy ra ở tiết học giáo viên cần chú ý luôn tạo cho lớp học không khí tự nhiên, thoải mái không áp đặt để kích thích sự hào hứng, say mê học tập của học sinh. + Về phía nhà trường: - Cần đầu tư mua sắm bổ sung thêm các thiết bị, đồ dùng dạy học để phục vụ cho việc giảng dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh đạt kết quả. - Nhà trường cần tổ chức các buổi hội thảo về việc sử dụng đồ dùng dạy học hàng năm để giáo viên rút kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau trong quá trình làm và sử dụng đồ dùng dạy học ở các tiết học. - Cần thống nhất cách sử dụng đồ dùng dạy học trong từng môn, từng tiết học sao cho hợp lí. Trên đây là một số biện pháp tôi đã - đang và tiếp tục thực hiện để dạy tốt “yếu tố hình học ở lớp 3”. Do điều kiện khả năng và thời gian có hạn nên đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng Khoa học các cấp và tất cả các đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh hơn, góp phần làm tốt công tác giáo dục thế hệ trẻ trong xã hội mới. 17 XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 1 tháng 3 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. (Ký và ghi rõ họ tên) NGƯỜI THỰC HIỆN Trịnh Thị Minh 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Trung Hiệu, Đỗ Đình Hoan, Vũ Dương Thụy, Vũ Quốc Chung - Phương Pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học. 2. Đỗ Trung Hiệu, Vũ Dương Thụy – Các phương pháp giải Toán ở Tiểu học – NXBGD 2000. 3. SGK và SGV lớp 3 (Sách năm 2000) NXBGD Hà Nội. 4. Hồ Ngọc Đại, Tâm lí học sư phạm và trẻ em, NXBĐHQG Hà Nội. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan