Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp dạy toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5 trường th ái thượng...

Tài liệu Một số biện pháp dạy toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5 trường th ái thượng bá thước

.PDF
22
10
143

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY GIẢI TOÁN CHUYỂN ĐỘNG ĐỀU CHO HỌC SINH LỚP 5 Người thực hiện: Trịnh Thị Hoa Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ái Thượng SKKN thuộc lĩnh mực: Môn Toán THANH HOÁ, NĂM 2018 MỤC LỤC NỘI DUNG 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm 1.2. Mục đích nghiên cứu 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận 2.2. Thực trạng công tác dạy và học Toán chuyển động đều 2.2.1.Thực trạng về Giáo viên 2.2.2.Thực trạng về học sinh 2.3. Các biện pháp thực hiện 2.3.1. Biện pháp 1 2.3.2. Biện pháp 2 2.3.3. Biện pháp 3 2.3.4. Biện pháp 4 2.3.5. Biện pháp 5 2.3.6. Biện pháp 6 2.4. Kết qua sau thực nghiệm 3. Kết luận và kiến nghị 3.1. Kết luận 3.2. Kiến nghị TRANG 1 1 1 1 1 2 2 3 3 3 4 4 5 7 8 10 15 13 17 17 18 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài: Trong chương trình môn toán ở bậc Tiểu học, toán chuyển động đều là một dạng toán đặc biệt, có quan hệ với nhiều nội dung dạy học khác và có tính chất thực tiễn cao, nên dạy học toán chuyển động là một trong những khâu quan trọng trong quá trình dạy học môn toán lớp 5, nó không những góp phần trang bị cho học sinh những kiến thức, kĩ năng cơ bản gắn liền với thực tế đời sống mà còn tạo tiền đề để học sinh học tập các nội dung khác ở bậc học tiếp theo. Tuy nhiên, việc dạy học toán chuyển động đều đa số Giáo viên lên lớp truyền thụ kiến thức cho HS chủ yếu bằng phương pháp thuyết trình, giảng giải, làm mẫu, HS tiếp thu kiến thức theo cách thầy giảng, trò nghe và ghi nhớ, GV là người duy nhất đánh giá kết quả học tập của HS. Những câu hỏi mà GV đưa ra mang tính chất vụn vặt, ít phát huy trí tuệ của HS. Việc hướng dẫn HS tự học, giao bài tập còn mang tính chất đồng loạt, bình quân, hoạt động nhận thức của từng cá nhân chưa được quan tâm đúng mức. Do đó chưa phát huy được tính tích cực học tập của từng HS. Là Giáo viên trực tiếp đứng lớp và nhiều năm dạy lớp 5 tôi luôn trăn trở tìm ra các biện pháp phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với nội dung từng dạng bài của toán chuyển động đều nhằm nâng cao chất lượng day-học góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay ở bậc Tiểu học theo hướng hình thành cho HS phương pháp tự học thông qua hoạt động học tập mà GV chỉ là người tổ chức hướng. Từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp dạy giải toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5, trường Tiểu học Ái Thượng, Bá Thước” làm vấn đề nghiên cứu. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Góp phần hình thành cho học sinh lớp 5 những kiến thức và kĩ năng về: - Bước đầu làm quen với toán chuyển động đều. - Nắm chắc và vận dụng thành thạo các công thức, quy tắc vào giải các bài toán chuyển động đều. - Có kỹ năng giải các dạng toán cơ bản và các bài toán mở về chuyển động đều. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Công tác dạy và học toán chuyển động đều của Giáo viên và học sinh lớp 5, trường Tiểu học Ái Thượng, Bá Thước. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp điều tra. - Phương pháp gợi mở. - Phương pháp thực nghiệm. Phương pháp đàm thoại. 1 2. Nội dung của sáng kiến 2.1. Cơ sở lí luận: 2.1.1. Vị Trí, vai trò của dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học Trong dạy học giải toán ở Tiểu học, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau: - Hầu hết các khái niệm, quy tắc về toán học cần cung cấp cho học sinh đều được hình thành từ việc giải toán. Mặt khác, việc giải toán giúp học sinh luyện tập, củng cố, rèn luyện kĩ năng tính toán. Qua việc giải toán của học sinh, giáo viên có thể dễ dàng phát hiện được rõ hơn những gì học sinh đã lĩnh hội. Thông qua các bài toán có nội dung liên hệ thưc tiễn một cách thích hợp giúp học sinh từng bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành, những giả thiết học sinh chưa nắm chắc để có biện pháp giúp học sinh khắc phục. 2.1.2. Vai trò của toán chuyển động đều. * Dạy giải bài toán chuyển động đều góp phần bồi dưỡng và phát triển năng lực tư duy một cách toàn diện. Mỗi bài toán đưa ra là một lần học sinh phải sử dụng các thao tác tư duy nhằm giải quyết các tình huống có vấn đề xảy ra. Toán chuyển động đều là một dạng toán khá phức tạp. Vì thế học sinh phải phát huy cao độ tính năng động của các thao tác tư duy. * Dạy giải toán chuyển động góp phần hình thành kiến thức, kĩ năng cơ bản như: - Học sinh Tiểu học chưa đủ khả năng lĩnh hội kiến thức qua lý thuyết thuần túy. Hầu hết các em phải qua các bài toán, các sơ đồ trực quan cụ thể, các em mới dễ dàng rút ra các kết luận, các khái niệm và các nội dung kiến thức cơ bản. Các kiến thức đó sau khi hoàn thành lại được củng cố và áp dụng vào các bài tập với các mức độ nâng cao dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. - Toán chuyển động đều không chỉ giúp học sinh đào sâu, củng cố chính kiến thức cơ bản của dạng toán này như đại lượng thời gian, quãng đường, vận tốc mà nó còn củng cố nhiều kiến thức, kĩ năng cơ bản khác như kiến thức về đại lượng tỉ lệ thuận và đại lượng tỉ lệ nghịch, kĩ năng tóm tắt bài toán bằng sơ đồ , kĩ năng tính toán... * Dạy giải các bài toán chuyển động gây hứng thú học tập, giáo dục tư tưởng tình cảm và nhân cách học sinh. - Do đặc điểm lứa tuổi, các em thường thích làm những việc mình yêu thích , những việc nhanh thấy kết quả. Trong quá trình hệ thống hóa của các bài toán chuyển động đều, để đi được đến bước dùng công thức cơ bản để tìm đáp số của bài toán học sinh phải xử lí rất nhiều các chi tiết của bài toán. ở mỗi bài lại có các bước phân tích, tìm tòi lời giải khác nhau. Điều này đòi hỏi mỗi học sinh phải chủ động, tích cực và sáng tạo. Các tình huống của bài toán phải xử lí linh hoạt, chính xác để cuối cùng đưa bài toán về dạng đơn giản và điển hình. 2 Qua giải bài toán chuyển động đều, không chỉ tạo được hứng thú say mê ở mỗi học sinh mà còn tạo cho các em một phong cách làm việc khoa học, chính xác, cần mẫn và sáng tạo. 2.2. Thực trạng công tác dạy và học toán chuyển động đều của Giáo viên trường TH Ái Thượng, Bá Thước. 2.2.1. Về giáo viên * Ưu điểm - Giáo viên yêu nghề, ham học hỏi, luôn tìm tòi sáng tạo trong quá trình lên lớp giảng dạy muốn truyền thụ đầy đủ kiến thức đến các em học sinh. - Giáo viên chủ động lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp. - Phân bố thời gian hợp lí trong tiết dạy, đảm bảo cho học sinh đủ thời gian làm việc để tìm kiến thức mới thông qua thực hành luyện tập. - Tổ chức nhiều hoạt động học tập dưới các hình thức khác nhau tạo không khí thoải mái để lĩnh hội kiến thức mới có hiệu quả. * Tån t¹i: Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy giáo viên còn gặp những khó khăn và một số hạn chế khi dạy toán chuyển động đều: đó là: - Trong dạy học GV mới chỉ quan tâm đến kết quả bài làm của HS dù có em chỉ áp dụng công thức máy móc để tìm ra kết quả đó, chưa khuyến khích HS có sự sáng tạo khi làm bài hoặc chưa quan tâm tới phương pháp tìm tòi, khám phá để đi đến kết quả đó. Như vậy HS chỉ vận dụng công thức giải được một số bài toán cơ bản, còn dạng toán mở rộng là HS không làm được vì không có sự sáng tạo. - Giáo viên chưa biết phân dạng bài để lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học phù hợp nên hiệu quả giờ dạy chưa cao. - Giáo viên còn khó khăn khi tổ chức các hình thức dạy học khi dạy toán chuyển động đều, mà thường dạy học theo kiểu đồng loạt, bình quân. Do đó không tạo điều kiện để học sinh phát triển năng lực cá nhân, gây cho học sinh nhàm chán trong giờ học đối với các em giỏi Toán. - Các giáo viên chưa biết khai thác và vận dụng các bài toán gắn với đời sống của địa phương các em cho nên không gây được hứng thú trong giờ học tập dẫn đến kết quả học tập chưa cao. 2.2.2. Về học sinh * Ưu điểm: - Học sinh phần lớn chăm ngoan và rất chịu khó. - Học sinh bước đầu có thói quen làm việc tự giác, không dập khuôn. - HS tích cực thực hiện các hoạt động học tập theo hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. * Tån t¹i : Toán chuyển động đều là dạng toán rất gần gũi với thực tế, tuy nhiên học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng còn rất khó khăn 3 trước những vấn đề phải tư duy như: phân tích, so sánh, tổng hợp...khả năng khái quát còn thấp. Nhiều em thuộc quy tắc mà vẫn không vận dụng được để giải các bài tập. Các em được học theo kiểu chỉ hoạt động theo mẫu và ghi nhớ thông tin nên các em tiếp thu kiến thức chưa tích cực, còn bị động. Vì thế các em nắm kiến thức chưa sâu, chưa hiểu rõ bản chất của vấn đề. - Nhiều học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản, tiếp thu bài máy móc, chỉ làm theo mẫu chưa phân biệt được các dạng bài cụ thể. - Một bộ phận học sinh chây lười trong học tập, gia đình không quan tâm nên việc tự học của các em cho dù đã được giáo viên hướng dẫn kĩ nhưng chưa thể đáp ứng yêu cầu đề ra. - Trong khi làm bài nhiều em không đọc kĩ đề bài, suy nghĩ thiếu cẩn thận, hấp tấp nên bỏ sót dữ kiện đề bài cho. Hoặc không chú ý đến sự tương ứng giữa các đơn vị đo của các đại lượng khi thay vào công thức dẫn đến sai. 2.3. Các biện pháp thực hiện: 2.3.1 Biện pháp 1: Tổ chức cho các em làm quen với các bài toán chuyển động đều thông qua dạy học các nội dung khác. Thông qua dạy học giải các bài toán về các phép tính với số tự nhiên, phân số, số thập phân, giải toán về tìm số trung bình cộng, toán về chia tỉ lệ,.. giáo viên kết hợp đưa ra các bài toán có nội dung chuyển đông đều để học sinh bước đầu làm quen vơi loại toán này. Cụ thể: + Thông qua dạy học về nội dung tìm số trung bình cộng, toán về tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số ở lớp 4, giáo viên đưa ra một số bài toán về tính vận tốc của chuyển động (ở đây chưa dùng thuật ngữ vận tốc) để học sinh giải. Ví dụ: Bài 1: Một ô tô đi được quãng đường dài 170 km hết 4 giờ. Hỏi trung bình mỗi giờ người đó đi được bao nhiêu ki lô mét? Bài 2: Một người đi bộ trong 2 giờ đầu đi được 9 km, giờ thứ ba đi được 3 km. Hỏi trung bình mỗi giờ người đó đi được bao nhiêu ki lô mét? + Thông qua dạy học giải toán về phép nhân số tự nhiên, số thập phân, phân số, giáo viên đưa ra một số bài toán về tính quãng đường Ví dụ: Bài 1: Một người đi xe máy trong một phút đi được 600 m. Hỏi mỗi giờ người đó đi được bao nhiêu mét? Bài 2: Một người đi bộ được 9000 m trong 2 giờ. Hỏi nếu người đó đi bộ trong 2 giờ 30 phút thì đi được đoạn đường dài bao nhiêu mét? Bài 3: Một người đi xe đạp mỗi giờ đi được 16 km, người đó đi trong ¾ giờ. Tính độ dài quãng đường người đó đi được? + Thông qua giải toán về phép chia các số tự nhiên, số thập phân, giáo viên đưa ra một số bài toán có nội dung về tìm thời gian Ví dụ: Bài 1: Nhà Bình cách trường 900 m. Hỏi Bình đi từ trường đến nha mất bao lâu biết rằng mỗi phút Bình đi được 75 m? 4 Bài 2: Một người đi xe máy từ nhà đến thị xã, mỗi giờ đi được 35 km. Hỏi sau bao lâu thì người đó đến thị xã, biết rằng nhã cách thị xã là 87,5 km? Bài 3: Bạn Lan đi bộ từ nhà đến trường, mỗi phút đi được 84 m thì hết 15 phút. Nếu bạn Lan đi xe đạp từ nhà đến trường, mỗi phút đi được 180 m thì hết bao nhiêu phút? 2.3.2.Biện pháp 2: Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực a. Phương pháp vấn đáp: - Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Ví dụ 1: Hãy nêu công thức tính vận tốc ? ( V= S : t ) Hãy nêu các thành phần trong công thức này ? (V là vận tốc; S là quãng đường; t là thời gian) - Vấn đáp giải thích - minh hoạ : Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đơn vị kiến thức nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Từ ví dụ 1 GV đưa thêm câu hỏi: Hãy nêu các thành phần trong công thức này ? (V là vận tốc; S là quãng đường; t là thời gian) - Vấn đáp tìm tòi: GV dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng HS từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. GV tổ chức sự trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, GV giống như người tổ chức sự tìm tòi, còn HS giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, HS có được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Ví dụ: GV nêu vấn đề, từ công thức V = S : t bạn nào có thể suy ra hai công thức tính quãng đường và thời gian ? HS có thể thảo luận và nêu được hai công thức: S = V x t và t = S : V * Tóm lại: Từ phương pháp vấn đáp này GV có thể giúp HS hệ thống được các công thức tính và mối quan hệ giữa các đại lượng trong toán chuyển động đều một cách dễ dàng. b. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề. Dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, HS vừa nắm được tri thức mới thông qua những kiến thức đã học, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng tạo. Phương pháp này có thể vận dụng vào dạy các bài toán chuyển động cùng chiều, chuyển động ngược chiều và chuyển động trên dòng nước theo các bước sau: - Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức: + Tạo tình huống có vấn đề. + Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh. 5 + Phát hiện vấn đề cần giải quyết. - Giải quyết vấn đề đặt ra: + Đề xuất cách giải quyết. + Lập kế hoạch giải quyết. + Thực hiện kế hoạch giải quyết. - Kết luận: + Thảo luận kết quả và đánh giá. + Phát biểu kết luận. + Đề xuất vấn đề mới. Ví dụ:( Toán 5- trang 144) Quãng đường AB dài 180 km. Một ô tô đi từ A đến B với vận tốc 54 km/giờ, cùng lúc đó một xe máy đi từ B đến A với vận tốc 36 km/giờ. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ hai xe gặp nhau ? - Đặt vấn đề và xây dựng bài toán nhận thức: HS đọc đề và xác định xem có giống các dạng bài đã học không ? Dạng toán chuyển động có mấy động tử ? Hai xe chuyển động cùng chiều hay ngược chiều ? - Giải quyết vấn đề đặt ra: GV giúp HS lập kế hoạch giải: Muốn tìm thời gian hai xe gặp nhau, trước hết phải tìm gì ? ( tổng vận tốc hai xe). Cho HS thực hiện giải trên vở - Gợi ý HS rút ra kết luận từ cách giải: tgn= Scn : (V1 + V2 ) Lưu ý: Scn là khoảng cách giữa hai động tử khi chúng xuất phát cùng một lúc) c. Phương pháp hoạt động nhóm. Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành vận dụng với các dạng bài luyện tập khi dạy toán chuyển động đều, với các bước sau: * Làm việc chung cả lớp : - Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức - Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ - Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm * Làm việc theo nhóm : - Phân công trong nhóm - Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm - Cử đại diện hoặc phân công trình bày kết quả làm việc theo nhóm * Tổng kết trước lớp - Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả 6 - Thảo luận chung - Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài d. Phương pháp động não Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Cách tiến hành: - Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm - Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt - Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to, không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp - Phân loại ý kiến - Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý. 2.3.3.Biện pháp 3: Sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học. a. Dạy học cá nhân Dạy học cá nhân nhằm đề cao việc cá thể hóa học tập của học sinh, tôn trọng năng lực, phẩm chất riêng của từng em, tạo cơ hội để tất cả các em trong lớp có thể phát triển thùy theo sở trường, khả năng của mình. Mặt khác dạy học cá nhân còn rèn luyện cho các em thói quen tự học, tự hoạt động. Trong dạy học cá nhân, giáo viên tổ chức cho học sinh tự làm việc để thu thập những kiến thức cần nắm, hoặc trả lời các câu hỏi, thực hiện các bài tập do giáo viên đề ra. b. Dạy học theo nhóm. Dạy học theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học đề cao vai trò của sự hợp tác, hoạt động tập thể, đề cao trách nhiệm của cá nhân đối với tập thể. Trong dạy học theo nhóm, học sinh được rèn luyện các kĩ năng như lắng nghe và lựa chọn để tiếp nhận sự hiểu biết của người khác, biết trình bày hiểu biết của mình cho người khác cùng nghe. Dạy học theo nhóm phát huy được tính tích cực của người học, tăng thêm hứng thú học tập. Dạy học theo nhóm gồm các bước: + Chia nhóm + Giao nhiệm vụ cho nhóm, gợi ý và hướng dẫn học sinh làm việc. + Học sinh báo cáo kết quả làm việc trước toàn lớp. + Giáo viên bổ sung, kết luận ý đúng, nhận xét, đánh giá. Để dạy học theo nhóm đạt hiệu quả, cần chú ý đến những điều sau: + Trong mỗi lần làm việc nên để các em luân phiên nhau làm nhóm trưởng, số lượng học sinh trong một nhóm không nên quá đông. + Giáo viên phải chuẩn bị kĩ kế hoạch dạy học và dự kiến các tình huống xảy ra cùng với các phương án xử lí. + GV giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, đảm bảo tất cả HS trong lớp đều hiểu nhiệm vụ. + Trong quá trình học sinh làm việc nhóm, giáo viên có thể theo dõi cụ thể từng nhóm, có sự giúp đỡ, hướng dẫn kịp thời, đảm bảo tất cả học sinh phải làm việc. + Nên tạo không khí thi đua giữa các nhóm để khuyến khích học tập. 7 2.3.4. Biện pháp 4: Dạy học hình thành các khái niệm của toán chuyển động đều. a. Hình thành khái niệm về vận tốc Trên cơ sở tình huống thực tiễn tổ chức các hoạt động học cá nhân, theo nhóm (hoặc theo lớp) giúp học sinh tự khám phá ra vấn đề và tìm phương pháp giải quyết nó, từ đó đi tới nhiệm vụ nhận thức. Để thực hiện các biện pháp trên một cách có hiệu quả, trong dạy học khái niệm vận tốc cần tiến hành theo hai giai đoạn sau: * Giai đoạn chuẩn bị: - Giáo viên nêu bài toán: Một ô tô đi mỗi giờ được 55 km, một xe máy đi mỗi giờ được 42,5 km và cùng đi quãng đường từ A đến B, nếu khởi hành cùng một lúc thì xe nào đến trước B trước? * Giai đoạn hình thành khái niệm vận tốc: Hoạt động 1: Tiếp cận bài mới - Giáo viên hỏi: Ô tô và xe máy xe nào đi nhanh hơn? -HS trả lời: - Giáo viên nêu: Thông thường ô tô đi nhanh hơn xe máy. Hoạt động 2: Giáo viên giao nhiệm vụ nhận thức - Giáo viên đưa tình huống có vấn đề: Một ô tô đi được quãng đường dài 172 km hết 4 giờ. Hỏi trung bình mỗi giờ ô tô đi được bao nhiêu ki lô mét? - Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm, suy nghĩ tìm ra cách giải bài toán. Hoạt động 3: Tổ chức cho các em thảo luận nhóm để giải quyết vấn đề. - Các nhóm thảo luận và trình bày kết quả của nhóm mình. Trung bình mỗi giờ ô tô đi được là: 172 : 4 = 43 (km) - GV: Vậy mỗi giờ ô tô đi được bao nhiêu ki- lô- mét ? - HS: Trung bình mỗi giờ ô tô đi dược 43 km. - GV nêu: Mỗi giờ ô tô đi được 3 km. Ta nói vận tốc trung bình hay nói vắn tắt vận tốc của ô tô là bốn mươi ba ki- lô- mét giờ, viết tắt là 43 km/giờ. - Vậy vận tốc của ô tô là: 172 : 4 = 43 (km/giờ) - GV: Vậy đơn vị của vận tốc ở bài toán này là gì ? - HS: Đơn vị của vận tốc ở bài toán này là km/giờ. Hoạt động 4: Học sinh rút ra kết luận - Giáo viên yêu cầu học sinh nêu cách tính vận tốc. - GV: Nếu quãng đường là S, thời gian là t, vận tốc là V thì công thức tính vận tốc là gì ? - HS: V = S : t - GV yêu cầu nhiều học sinh nhắc lại cách tìm vận tốc và công thức tính vận tốc. - Giáo viên nêu ý nghĩa của khái niệm vận tốc là để chỉ rõ sự nhanh hay chậm của một chuyển động. Hoạt động 5: Củng cố nhận thức của học sinh 8 - Giáo viên nêu bài toán, yêu cầu học sinh suy nghĩ để giải bài toán: Một người chạy được 60 m trong 12 giây. Tính vận tốc chạy của người đó? - Giáo viên yêu cầu học sinh nêu cách tính vận tốc và trình bày bài giải: Vận tốc chạy của người đó là: 60 : 12 = 5 (m/giây) - GV: đơn vị của vận tốc trong bài toán này là gì ? - HS: đơn vị của vận tốc trong bài toán này là m/giây. - Giáo viên yêu cầu nhiều học sinh nhắc lại cách tính vận tốc. Hình thành khái niệm vận tốc theo cách này, vừa giúp học sinh nắm vững khái niệm, vừa phát huy được tính tích cực học tập của học sinh trong quá trình khám phá tìm tòi ra kiến thức mới, tạo niềm tin và hứng thú học tập. b. Hình thành khoảng thời gian và thời điểm Để học sinh làm tốt các bài toán về chuyển động đều, trước tiên giáo viên phải có hình thức giúp học sinh phân biệt được khái niêm khoảng thời gian và thời điểm trên cơ sở khai thác vốn sống của các em. * Hình thành khái niệm thời điểm: Thời điểm là chỉ cụ thể hóa thời gian. GV giúp HS hiểu khái niệm thời điểm qua các bước sau: 1.chuẩn bị: GV yêu cầu HS chuẩn bị một tờ lịch. 2. Tổ chức các hoạt động hình thành khái niệm Hoạt động 1: GV giới thiệu cho HS quyển lịch bóc hằng ngày. - GV: Hôm nay là thứ mấy? HS: Thứ ba (chẳng hạn) GV đưa tờ lịch hằng ngày và giới thiệu: Hôm nay là thứ ba ngày 29 tháng 3. Hoạt động 2: Giới thiệu các ngày trong tuần GV cho học sinh mở từng tờ lịch giới thiệu tên các ngày trong tuần: chủ nhât, thứ hai, thứ ba, ...thứ bảy và nói: Đây là các ngày trong tuần. GV nhấn mạnh: Một tuần lễ có 7 ngày là: Chủ nhật, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy. Hoạt động 3: Giới thiệu cách đọc thứ ngày - GV: Hôm nay là thứ mấy? Ngày mấy? HS: Thứ ba ngày 29 tháng 3 - GV: Hôm qua là thứ mấy? Ngày mấy? HS: Thứ hai ngày 28 tháng 3 - GV: Ngày mai là thứ mấy? Ngày mấy? HS: Thứ tư ngày 30 tháng 3 - GV: Ngày 3 tháng 4 là thứ mấy? HS: Chủ nhật Hoạt động 4: Củng cố - GV: Một tuần lễ có mấy ngày ? Đó là những ngày nào? - HS: Một tuần lễ có 7 ngày là: Chủ nhật, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy. - GV: Ngày khai giảng năm học là ngày 5 tháng 9 là thứ bảy, ngày 7 tháng 9 là thứ mấy? (- HS: Thứ hai) 9 Hoạt động 5: GV giao nhiệm vụ về nhà * Hình thành khái niệm khoảng thời gian Trên cơ sở quan hệ giữa ngày với giờ: 1 ngày = 24 giờ. GV đưa ra hệ thống câu hỏi - Bây giờ là mấy giờ? - Một buổi học từ 7 giờ đến 11 giờ là bao nhiêu giờ? Ngoài ra, GV còn có thể chú ý phân biệt cho HS khoảng thời gian và thời điểm còn được sử dụng khi thể hiện ngôn ngữ bằng cách đưa ra hệ thống bài tập: Bài tập: Các câu nói sau đây có chính xác không? Nếu sai hãy sửa lại cho đúng ? - Thời gian em thức dậy là 5 giờ 30 sáng - Thời gian em ăn trưa là 11 giờ - Các thời gian trong tuần là thứ hai, thứ ba - Buổi học kéo dài trong 4 giờ là thời điểm, kết thúc lúc 11 giờ là thời gian. c. Hình thành khái niệm quãng đường Trong chương trình môn toán ở bậc tiểu học, không có một bài dạy riêng để hình thành khái niệm quãng đường. Mà khái niệm quãng đường được hình thành thông qua khái niệm độ dài. Ở tiêu học, HS được làm quen với khái niệm độ dài ngay từ lớp 1 với bài “Xen-ti-met” dần dần khái niệm độ dài ngày càng được củng cố khi HS học hệ thống đơn vị đo độ dài được mở rộng theo từng vòng số. Như vậy, quy trình 5 bước hình thành khái niệm quãng đường ở đây được áp dụng cho cả một giai đoạn, một quá trình dạy học. Ở lớp 1, HS học bài “Xen ti mét” tức là HS đã được ngầm hình thành khái niệm quãng đường (HS biết đo khoảng cách từ điểm này đến điểm khác). Lên lớp 2, HS được tri giác mở rộng thêm một số đơn vị lớn hơn và thuật ngữ quãng đường đã được đưa vào, HS đã làm quen với những bài toán về tính quãng đường. Đến lớp 3, HS nắm tương đối vững biểu tượng về khái niệm độ dài từ mi li mét đến ki lô mét. Trên cơ sở nắm được khái niệm độ dài, HS ngầm hiểu khái niệm quãng đường chính là khái niệm độ dài: đó là độ dài một con đường theo nghĩa thông dụng HS hiểu rằng quãng đường AB dài 25 km, tức là độ dài con đường từ A đến B là 25 km. Quãng đường Thanh Hóa - Vinh dài 150 km, HS hiểu độ dài con đường từ Thanh Hóa đến Vinh là 150 km. Lên lớp 5, khái niệm quãng đường được trình bày tường minh trong chương: “Số đo thời gian - chuyển động đều”. HS biết rằng quãng đường có mối quan hệ với hai đại lượng khác là vận tốc và thời gian. 2.3.5.Biện pháp 5: Rèn luyện kĩ năng giải các dạng toán chuyển động đều theo chuẩn kiến thức và kĩ năng của chương trình Dạng 1: Bài toán về tìm vận tốc, quãng đường, thời gian a) Tính vận tốc Ví dụ 1: (Bài toán trực tiếp áp dụng công thức) Một ô tô đi được quãng đường dài 105 km trong 2 giờ. Tính vận tốc của ô tô? 10 Bước 1: HS tìm hiểu nội dung bài toán - GV: Bài toán cho biết gì? HS: Quãng đường ô tô đi được là 105 km, xe đi trong 2 giờ. - GV: Bài toán yêu cầu gì? HS: Tính vận tốc của ô tô. Bước 2: Tìm cách giải bài toán Muốn tính vận tốc ta lấy quãng đường mà xe đi được chia cho thời gian đi GV: Các em đã học bài toán nào tương tự chưa? HS : Tìm vận tốc trung bình. Bước 3: HS trình bày bài giải: Vận tốc của ô tô là : 105 : 2 = 52,5 (km/giê) §¸p sè: 52,5 km/giê Bước 4 : Yêu cầu HS kiểm tra bài giải Ví dụ 2 : (Bài toán mở) Một tàu thủy khi xuôi dòng có vận tốc là 28,4 km/giờ, khi ngược dòng có vận tốc là 18,6 km/giờ. Tính vận tốc tàu thủy khi nước lặng và vận tốc dòng nước. GV hướng dẫn HS muốn giải bài toán này trước hết phải biết: Vxuôi = Vtàu + Vnước và V ngược = Vtàu - Vnước . Vậy Vnước = (Vxuôi - V ngược ) : 2 b) Tính quãng đường Ví dụ 1: (Bài toán trực tiếp áp dụng công thức) Một người đi bộ với vận tốc 5 km/giờ. Hỏi trong 2/3 giờ người đó đi được bao nhiêu ki lô mét? Bước 1: HS tìm hiểu nội dung bài toán - GV: Bài toán cho biết gì? HS: Một người đi bộ với vận tốc 5 km/giờ, đi trong 2/3 giờ - GV: Bài toán yêu cầu gì? HS: Tính quãng đường mà người đi bộ đi được. Bước 2: Tìm cách giải bài toán Muốn tính quãng đường ta lấy vận tốc của người đi bộ nhân với thời gian. Bước 3: HS trình bày bài giải: Quãng đường mà người đi bộ đã đi : 10 (km) 3 10 §¸p sè: (km) 3 5x 2 3 = Bước 4 : Yêu cầu HS kiểm tra bài giải Ví dụ 2 : (Bài toán mở)Một người phải đi 95 km bằng xe lửa, ô tô và đi bộ. Lúc đầu người ấy đi xe lửa trong 2 giờ với vận tốc 35 km/ giờ, sau đó đi ô tô trong 30 phút với vận tốc 40 km/ giờ. Hỏi người ấy phải đi bộ bao nhiêu km nữa mới đến nơi? GV hướng dẫn HS suy luận: - Đầu tiên tính quãng đường mà người ấy đi bằng xe lửa. - Sau đó tính quãng đường mà người ấy đi bằng ô tô. 11 - Muốn tính quãng đường người ấy còn phải đi bộ ta lấy toàn bộ quãng đường trừ đi quãng đường mà xe lửa và ô tô đã đi. c) Tính thời gian Để làm đúng các bài toán tính thời gian trong toán chuyển động đều, trước tiên các em phải nắm chắc cách chuyển đổi số đo thời gian như sau: *) Đổi danh số đơn ra danh số đơn. - Từ đơn vị nhỏ ra đơn vị lớn Ví dụ: 240 giây = ? phút. Tỉ số của hai đơn vị là: 1 phút 1giây = 60 240 : 60 = 4. Vậy 240 giây = 4 phút - Từ đơn vị lớn ra đơn vị nhỏ Ta nhân số phải đổi cho “tỉ số của hai đơn vị” Ví dụ: 5 giờ = ? phút Ta có tỉ số của hai đơn vị là: 60 x 5 = 300. - Trường hợp số đo là phân số Ví dụ: 2 3 1giò 1 phut = 60 Vậy 5 giờ = 300 phút. giờ = ? phút. Ta lấy “tỉ số của hai đơn vị” nhân với phân số: 2 3 giờ = 2 3 x 60 phút = 40 phút * Đổi danh số đơn sang danh số phức. Ví dụ: 195 giây = ... phút ... giây Ta đem số đổi chia cho “tỉ số của hai đơn vị” 1 phút = 60 giây. 195 : 60 = 3 (dư 15). Vậy 195 giây = 3 phút 15 giây. * Đổi danh số phức sang danh số đơn. Ví dụ: 2 phút 25 giây = ... giây. Ta đem số đơn vị lớn đổi ra đơn vị nhỏ rồi cộng với số đơn vị nhỏ còn lại. 2 phút = 60 giây x 2 = 120 giây. 120 giây + 25 giây = 145 giây. Vậy 2 phút 25 giây = 145 giây. * Viết số đo thời gian dưới dạng số thập phân và phân số : 1 giờ 4 1 0,5 giờ = 2 giờ 3 0,75 giờ = 4 giờ 15 phút = 0,25 giờ = 15 giây = 0,25 phút = 30 phút = 30 giây = 0,5 phút = 45 phút = 1 2 45 giây = 0,75 phút = 1 4 phút phút 3 4 giờ 0,1 giờ = 6 phút 0,1 phút = 6 giây Ví dụ 1: (Bài toán trực tiếp áp dụng công thức) Vận tốc của một ô tô là 42, 5 km/ giờ. Ô tô đi được quãng đường dài 170 km. Tính thời gian ô tô đi hết quãng đường đó? Bước 1: HS tìm hiểu nội dung bài toán 12 - GV: Bài toán cho biết gì? HS: Vận tốc của một ô tô là 42, 5 km/ giờ, quãng đường ô tô đi được là 170 km - GV: Bài toán yêu cầu gì? -HS: Tính thời gian ô tô đi hết quãng đường đó. Bước 2: Tìm cách giải bài toán Để tính thời gian ô tô đi hết quãng đường đo, ta lấy quãng đường ô tô đi được chia cho vận tốc của ô tô. Bước 3: HS trình bày bài giải: Thời gian ô tô đi hết quãng đường đó là : 170 : 42,5 = 4( giờ) Đáp số: 4 giờ Bước 4 : Yêu cầu HS kiểm tra bài giải Ví dụ 2 : (Bài toán mở) Đường từ Thành phố Thanh Hóa đến Nghi Sơn dài 52,5 km. Nam khởi hành từ thành phố Thanh Hóa với vận tốc 42 km/ giờ để đi Nghi Sơn. Hỏi muốn tới Nghi Sơn Lúc 7 giờ 30 phút thì Nam phải khởi hành từ thành phố Thanh Hóa lúc mấy giờ? GV hướng dẫn suy luận: Muốn biết người đó khởi hành từ thành phố Thanh Hóa lúc mấy giờ ta phải biết gì? Dùng phép tính gì? HS: Phải biết thời gian đi, lấy thời điểm đến trừ đi thời gian đi. Thời gian Nam đi hết quãng đường đó là: 52,5 : 42 = 1,25 (giờ) = 1 giờ 15 phút Thời điểm Nam khởi hành là: 7 giờ 30 phút - 1 giờ 15 phút = 6 giờ 15 phút Đáp số: 6 giờ 15 phút Tóm lại, đối với loại toán này, GV cần tập cho HS phân tích kĩ đầu bài, phân biệt và xác định các dữ kiện và điều kiện bài toán để tìm ra cách giải đúng. Vấn đề ở đây là GV hướng dẫn, gợi ý HS thông qua hệ thống câu hỏi, để tự mỗi em tìm ra cách giải, thực hiện và kiểm tra bài giải. GV không nên nêu ra hướng giải quyết và yêu cầu HS thực hiện, làm như vậy sẽ kìm hãm sự phát triển tư duy trí tuệ của HS. Dạng 2: Giải bài toán đơn giản về chuyển động của hai động tử a) Bài toán có hai động tử cùng xuất phát và ngược chiều nhau: Ví dụ: Trên quãng đường dài 255 km, một ô tô và một xe máy cùng khởi hành cùng một lúc và đi ngược chiều nhau. Ô tô đi với vận tốc 62 km/ giờ, xe máy đi với vận tốc 40 km/ giờ. Hỏi sau mấy giờ ô tô và xe máy gặp nhau? Bước 1: HS tìm hiểu nội dung bài toán - GV: Bài toán cho biết gì? HS: Ô tô đi với vận tốc 62km/giờ, xe máy đi với vận tốc 40km/giờ. Trên quãng đường dài 255km. - GV: Bài toán yêu cầu gì? - HS: Hỏi sau mấy giờ ô tô và xe máy gặp nhau - GV: Lúc khởi hành họ cách nhau bao nhiêu km? - HS: 255 km 13 - GV: Cứ sau mỗi giờ họ gần nhau được bao nhiêu km? HS: 62 + 40 = 102 (km) Bước 2: Tìm cách giải bài toán Muốn tính thời gian hai xe gặp nhau ta lấy quãng đường chia cho tổng vận tốc. Bước 3: HS trình bày bài giải: Tổng vận tốc của hai xe là : 62 + 40 = 102 (km/ giờ) Hai xe gặp nhau sau thời gian là : 255 : 102 = 2,5 (giờ) Đáp số : 2,5 giờ Bước 4 : Yêu cầu HS kiểm tra bài giải Qua những ví dụ cụ thể, GV hướng dẫn HS rút ra cách giải bài toán hai động tử khởi hành cùng một lúc và đi ngược chiều nhau. Quãng đường = Tổng vận tốc x thời gian Thời gian = Quãng đường : tổng vận tốc Tổng vận tốc = Quãng đường : thời gian Trong những tiết luyện tập, GV đưa ra một số bài toán thuộc dạng này với mức độ phức tạp dần để HS rèn luyện kĩ năng giải toán đồng thời phát triển tư duy sáng tạo ở các em. Ví dụ: Một ô tô đi từ tỉnh A đến tỉnh B với vận tốc 54 km/ giờ. Ô tô đi được 40 phút thì có một xe máy đi từ B đến A với vận tốc 36 km/ giờ. Sau 1 giờ 10 phút thì hai xe gặp nhau. Tính quãng đường AB. b) Bài toán có hai động tử cùng xuất phát và cùng chiều. Ví dụ: Trên đường đến trường Lan phải đi qua nhà Huệ. Nhà Lan cách nhà Huệ 6 km. Mỗi buổi sáng đúng 5 giờ 40 phút, Lan đi đến trường bằng xe đạp với vận tốc 10 km / giờ, cùng lúc ấy Huệ cũng đi bộ với vận tốc 4 km/ giờ. Hỏi Lan đuổi kịp Huệ lúc mấy giờ? Bước 1: HS tìm hiểu nội dung bài toán - GV: Bài toán cho biết gì? HS: Nhà Lan cách nhà Huệ 6 km.Hai bạn cùng xuất phát lúc 5 giờ 40 phút, Lan đi xe đạp với vận tốc 10 km / giờ, Huệ đi bộ với vận tốc 4 km/ giờ. - GV: Bài toán yêu cầu gì? - HS: Lan đuổi kịp Huệ lúc mấy giờ? Bước 2: HS tự tìm cách giải Yêu cầu HS trình bày bằng sơ đồ Lan Huệ Gặp nhau V=10 km/giờ V= 4 km/giờ GV gợi ý HS suy luận: 14 - Lúc khởi hành Lan và Huệ cách nhau bao nhiêu ki lô mét? - HS: 6km - Mỗi giờ Lan đi được nhiều hơn Huệ bao nhiêu ki lô mét? -HS: 10 - 4 = 6 km - Để đi được 6 km thì Lan phải mất mấy giờ để gặp Huệ? -HS: 6 : 6 = 1 giờ - Lan đuổi kịp Huệ lúc mấy giờ? -HS: 5 giờ 40 phút + 1 giờ = 6 giờ 40 phút Bước 3: HS trình bày bài giải Mỗi giờ Lan đi được nhiều hơn Huệ là: 10 – 4 = 6 ( km/ giờ) Thời gian để Lan đuổi kịp Huệ là 6 : 6 = 1 (giờ ) Lan đuổi kịp Huệ lúc: 5 giờ 40 phút + 1 giờ = 6 giờ 40 phút Đáp số: 6 giờ 40 phút Bước 4: Yêu cầu HS tự kiểm tra và đánh giá cách giải Sau khi rèn luyện cho các em giải các bài toán chuyển động đều, cần hướng dẫn HS suy diễn dựa vào mối quan hệ giữa các thành phần và kết quả phép tính để ghi nhớ 3 công thức: V=S : T S =V x T T = S : V 2.3.6.Biện pháp 6: Dạy học chủ đề toán chuyển động đều qua các bài toán vui Các bài toán vui là những bài toán có chứa một yếu tố kiến thức toán học nào đó. GV có thể sử dụng các bài toán vui như một hoạt động dạy học toán vì nó có nhiều tác dụng như: - Tạo ra những tình huống kích thích HS suy nghĩ, góp phần rèn luyện năng lực tư duy, sáng tạo và gây hứng thú học tập toán cho HS. - Với mục đích phục vụ học tập, những bài toán vui có thể sử dụng vào những dịp khác nhau như: + Khởi động tiết học: HS mới vào lớp, chưa trật tự, còn suy nghĩ tản mạn về các hoạt động lúc ra chơi, GV ra một bài toán vui để HS tập trung suy nghĩ, trật tự trước khi vào học kiến thức mới. + Luyện tập kĩ năng, củng cố kiến thức của tiết học: HS đã bắt đầu mệt mỏi, đố vui toán học vừa là hình thức giải lao tích cực, vừa là một cách hấp dẫn để củng cố kiến thức. Ví dụ: 15 Bài 1: Rùa và thỏ thi tài leo cột đích cao 10m. Rùa cứ 1 giờ leo được 3m lại tụt xuống 2m. Thỏ nhảy cao 3m lại ngủ mất 3 giờ Hỏi ai là người thắng cuộc. Bài 2: Ba con Ếch dưới hố sâu 60m. Cứ 1 ngày chúng nhảy lên được 18m, rồi con thứ nhất lại tụt xuống 12 m, con thứ 2 tụt xuống 16m, con thứ 3 tụt xuống 17m và ngày nào cũng vậy. Hỏi mỗi chú Ếch lên khỏi miệng giếng sau bao lâu ? Bài 3: Một con Chó đuổi theo một con Thỏ cách nó 150m. Thỏ chạy 2 phút được 500m, Chó chạy 5 phút được 1300m. Hỏi sau bao lâu Chó đuổi kịp Thỏ? 2.4. Kết quả sau thực nghiệm: a. Vê phía giáo viên - GV đã nắm chắc được phương pháp dạy học từng dạng bài. GV đóng vai trò chủ đạo dẫn dắt, không làm thay trò, phát huy được tính tích cực chủ động của HS, các em tự tìm và lĩnh hội kiến thức mới. - GV đã tạo không khí thoải mái cho HS say mê, hứng thú tích cực chủ động trong học tập. b. Vê phía học sinh - Các em nắm chắc kiến thức về toán chuyển động đều (Tính quãng đường khi biết vận tốc và thời gian), biết áp dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống và hầu hết các em thích học môn toán, nhất là học về dạng toán chuyển động đều, một số em có thể giải được các bài toán mở khi cô giáo đưa ra. - HS học tập hứng thú tích cực hơn, giờ học trở nên sôi động hơn. Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát kết quả học tập của HS, lớp 5A (lớp thực nghiệm) và lớp 5B (lớp đối chứng). Đề bài khảo sát Bài 1: Một người đi xe máy đi trong 3 giờ được 105 km. Tính vận tốc của người đi xe máy. Bài 2: Một xe máy đi từ A lúc 8 giờ 20 phút với vận tốc 42 km/giờ, đến B lúc 11 giờ. Tính độ dài quãng đường AB. Kết quả đạt được là : Lớp 5A 5B Sĩ số 25 26 Điểm 9- 10 SL TL Điểm 7-8 SL TL Điểm 5-6 SL TL Điểm dưới 5 SL TL 6 24% 10 40% 11 0 4 15,38% 6 23,07% 14 36% 53,86% 2 0% 7,69% 16 Qua bảng trên ta thấy rõ lớp thực nghiệm có kết quả cao hơn hẳn lớp đối chứng. Với kết quả trên tôi nhận thấy GV chủ động với kế hoạch dạy học, phù hợp với nhận thức của HS là rất quan trọng, tìm hiểu đối tượng HS để tìm ra phương pháp dạy học phù hợp là rất cần thiết. GV cần dẫn dắt các em khám phá kiến thức. Có như vậy kết quả học của các em mới có hiệu quả. Trong quá trình giảng dạy, GV tạo cho các em thói quen tự kiểm tra đánh giá lẫn nhau, tạo cho các em cơ hội trình bày ý tưởng của mình, không áp đặt cách học cho HS. Việc đưa ra một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của HS làm cho các em chủ động hơn trong việc lĩnh hội tri thức, các em học tập hứng thú hơn, tích cực hơn do đó chất lượng học tập được nâng cao. 3. Kết luận và kiến nghị 3.1.Kết luận: Trong trường Tiểu học, HS được coi là nhân vật trung tâm, mọi hoạt động dạy học phải “ hướng tập trung vào HS”, hướng vào việc khai thác tiềm năng, trí tuệ của các em. Việc đưa ra các biện pháp dạy học tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy học nói chung, môn toán nói riêng. Đề tài đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận như: Tính tích cực, khái niệm về hoạt động nhận thức, tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh Tiểu học, phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học. Khảo sát thực trạng trên các mặt: Tình hình giảng dạy toán chuyển động đều và chất lượng học tập của học sinh về dạng toán này ở trường Tiểu học Ái Thượng. Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng ở trên, chúng tôi đã đề xuất một số biện pháp nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh lớp 5 thông qua cách dạy toán chuyển động đều. Kết quả thực nghiệm cho thấy, sử dụng những biện pháp mà chúng tôi đã đề xuất là có hiệu quả, chất lượng học tập của học sinh lớp thực nghiệm cao hơn hẳn lớp đối chứng, học sinh học tập hứng thú, tích cực hơn. 3.2. Kiến nghị: *Đối với giáo viên: - Giáo viên phải sử dụng các phương pháp dạy học linh hoạt, phù hợp với đối tượng học sinh, với nội dung từng bài cụ thể. - Đảm bảo đầy đủ đồ dùng thiết bị dạy học. - Cần nghiên cức kỹ bài trước khi lên lớp, tích cực đưa ra các tình huống thực tiễn vào giảng dạy. 17 - Giáo viên cần nắm được nội dung toàn bộ chương trình toán Tiểu học để khi dạy, giáo viên phát huy được những gì đã có ở học sinh và không lặp lại kiến thức đã học gây nhàm chán cho học sinh. - Tổ chuyên môn cần thường xuyên tổ chức hội thảo các chuyên đề về đổi mới phương pháp, đố vui để học, thi học tốt môn toán. *Đối với nhà trường và các cấp: - Tăng cường tài liệu nghiên cứu, sách tham khảo, đồ dùng thiết bị dạy học cho giáo viên. - Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng giáo viên về nội dung chương trình, đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức sinh hoạt chuyên môn, tổ chức hội giảng, bồi dưỡng thường xuyên… XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Ái Thượng, ngày 20 tháng 3 năm 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết, không sao chép NGƯỜI VIẾT Trịnh Thị Hoa 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan