MỤC LỤC
Tran
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai
g
6
8
trò của xuất khẩu hàng may mặc trong doanh nghiệp
I. Khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của
xuất khẩu
8
II. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt
Nam.
14
III. Thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập
khẩu hàng may mặc trên thế giới.
16
CHƯƠNG II: Thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng
may mặc ở Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam giai
đoạn 1995-1998.
29
I. Những nét khái quát về Tổng Công ty Dệt-May Việt
Nam.
29
II. Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng
Công ty Dệt- May thời kỳ 1995-1998.
42
III. đánh giá chung những thành tựu và hạn chế của
hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty DệtMay Việt Nam.
61
CHƯƠNG III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy
mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty DệtMay Việt Nam trong thời gian tới.
67
I. Triển vọng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng
Công ty trong thời gian tới.
67
II. Những giải pháp chủ yếu về phía Tổng Công ty
Dệt-May Việt Nam.
III. Một số kiến nghị Chính phủ.
73
80
KẾT LUẬN
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
88
2
LỜI MỞ ĐẦU
Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu
hướng quốc tế hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi
nước dù lớn hay nhỏ đều phải tham gia vào sự phân công lao động
khu vực và quốc tế. Ngày nay không một dân tộc nào có thể phát
triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh. Đặc biệt đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy đủ
những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế
đất nước có tầm quan trọng hơn bao giờ hết. ở nước ta, Khi xác
định những quan điểm lớn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng
định “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay
thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả,
phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng
nghành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao
sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực
và thị trường thế giới” .
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,
trong những năm qua thương mại Việt Nam đã đạt được những
thành tựu bước đầu quan trọng, góp phần tạo nên những biến đổi
sâu sắc nền kinh tế - xã hội nước ta và vị thế mới trên thị trường
quốc tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ ngoại giao
với nhiều nước, tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo
hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào nền kinh
tế thế giới, tham gia các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN,
AFTA, APEC . .. Điều này đã đạc biệt làm cho lĩnh vực xuất nhập
khẩu ngay càng trở nên sôi động.
3
Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất
của Việt Nam, phải kể đến hàng dệt may. Tuy đứng ở vị trí thứ hai,
nhưng đây là mặt hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát
triển cao. Hơn nữa, với điều kiện tình hình nước ta hiện nay, tập
trung phát triển hàng dệt may là hoàn toàn phù hợp.
Như vậy, cả về mặt lý luận và thực tiễn, đề tài “ Một số biện
pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt
May Việt Nam” góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra quan
trọng và cần thiết. Trong đề tài này, tôi chỉ tập trung phân tích tình
hình thực tế hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc của
Tổng Công ty Dệt May Việt Nam giai đoạn 1995 - 1998, tìm ra
những thành công và những vấn đề còn tồn tại ở Tổng Công ty .
Trên cơ sở đó, đưa ra một số biện pháp kiến nghị nhằm mở rộng
hoạt động và tăng cường hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may
mặc của Tổng Công ty trong thời gian tới.
Đề tài chia làm ba chương :
Chương I : Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai trò của
xuất khẩu hàng may mặc đối với nền kinh tế Việt Nam.
Chương II : Thực trang xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng
Công ty dệt may Việt Nam giai đoạn 1995 - 1998.
Chương III : Phương hướng và giải phấp chủ yếu đẩy mạnh
xuất khẩu hàng may mặc của tổng Công ty trong thời gian tới.
Trong quá trìng tìm hiểu và hoàn thành đề tài, Tôi đã được sự
chỉ bảo chi tiết của thầy giáo - MBA Bùi Anh Tuấn, sự giúp tận
tình của các bác, các cô ở Tổng Công ty Dệt may Việt Nam. Tôi xin
chân thành cảm ơn và rất mong nhận được ý kiến nhận xét giúp tôi
có thể hoàn thiện kiến thức chuyên môn của mình.
4
5
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ
CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC TRONG
DOANH NGHIỆP
I. KHÁI NIỆM, CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU VÀ VAI
TRÒ CỦA XUẤT KHẨU
1. Khái niệm :
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm
vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một
hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ
chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản
xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đẩy mạnh sản xuất
hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế oỏn định từng bước
nâng cao mức sống nhân dân.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh
quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp
tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh
của mình.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông
hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích
liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền
sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt
động kinh doanh này.
2. Các hình thức xuất khẩu thông dụng ở Việt Nam
a/ Xuất khẩu uỷ thác
6
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác
giao cho đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất
khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình
(bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của bên uỷ thác. Về bản chất,
chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thu lao trả cho đại lý.
Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất khẩu không cao hơn
1% của tổng số doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo điều kiện
FOB tại Việt Nam.
Ưu nhược điểm của xuất khẩu uỷ thác:
-Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào
kinh doanh, tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được
một khoản lợi nhuận là hoa hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện
hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất cả các chi phí từ nghiên cứu thị
trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng
không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh
của Công ty.
-Nhược điểm: do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu
quả kinh doanh thấp không bảo đảm tính chủ động trong kinh
doanh. Thị trường và khách hàng bị thu hẹp vì Công ty không có
liên quan tới việc nghiên cứu thị trường và tìm khách hàng.
b/ Xuất khẩu trực tiếp:
Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực
tiếp ký kết hợp đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ
chức thực hiện hợp đồng đó. Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải
phù hợp với luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được lợi
ích quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Để
thực hiện hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành
các khâu công việc:
7
Giục mở L/C và kiểm tra luận chứng (nếu hợp đồng quy định sử
dụng phương pháp tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu,
chuẩn bị hàng hoá làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, mua bảo
hiểm, làm thủ tục thanh toán và giải quyết khiếu nại (nếu có).
Ưu nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp:
-Ưu điểm: Với phương thức này, đơn vị kinh doanh chủ động
trong kinh doanh, tự mình có thể thâm nhập thị trường và do vậy có
thể đáp ứng nhu cầu thị trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu
đơn vị tổ chức hoạt động kinh doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh
doanh cao, tự khẳng định mình về sản phẩm, nhãn hiệu ... dần dần
đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới.
- Nhược điểm: Trong điều kiện đơn vị mới kinh doanh được mấy
năm thì áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất
hạn chế, am hiểu thương trường quốc tế còn mờ nhạt, uy tín nhãn
hiệu sản phẩm còn xa lạ với khách hàng
c/ Gia công hàng xuất khẩu.
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong
đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc
bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế
biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao
( gọi là chi phí gia công). Tóm lại, gia công xuất khẩu là đưa các
yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngoài về để sản
xuất hàng hoá theo yêu cầu của bên đặt hàng, nhưng không phải để
tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do
hoạt động gia công đem lại. Vì vậy, suy cho cùng, gia công xuất
khẩu là hình thức xuất khẩu lao động, nhưng là loại lao động dưới
dạng được sử dụng(được thể hiện trong hàng hoá) chứ không phải
dưới dạng xuất khẩu nhân công ra nước ngoài.
8
Gia công xuất khẩu là một phương thức phổ biến trong thương
mại quốc tế. Hoạt động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi
thế của hai bên: bên đặt gia công và bên nhận gia công.
3.Vị trí, vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở
phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là
cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có
tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá
sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy
mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn
định từng bước nâng cao mức sống nhân dân. Do vậy, xuất khẩu là
hoạt động kinh tế đối ngoại để đem lại những hiệu quả đột biến cao
hoặc có thể gây thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh
tế khác từ bên ngoài mà chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu
không dễ dàng khống chế được.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu
thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục
đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác.
Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào
hoạt động kinh doanh này.
Đối với nước ta, nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật
chất kỹ thuật còn thấp kém, không đồng bộ, dân số phát triển
nhanh nên việc đẩy mạnh xuất khẩu thu ngoại tệ cải thiện đời sống
và phát triển kinh tế là cực kỳ quan trọng. Đảng và Nhà nước ta chủ
trương phát triển quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại đặc biệt
hướng mạnh vào xuất khẩu hàng hoá là một chủ chương đúng đắn
phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Hơn bao giờ hết, xuất
khẩu hàng hoá thực sự có vai trò quan trọng, cụ thể là:
9
Thứ nhất: Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan
trọng để đảm bảo nhu cầu nhập khẩu.
Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu
ngoại tệ về, mà là với mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu
hàng hoá dịch vụ khác nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tăng
trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu (xuất khẩu > nhập khẩu),
tích luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc chắn hơn nhu cầu nhập
khẩu trong tương lai).
Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều
kiện, vừa là tiền đề của nhau xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu
để phát triển xuất khẩu. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước
ta hiện nay, để phát triển kinh tế, tránh được nguy cơ tụt hậu với
thế giới, đồng thời còn tìm cách đuổi kịp thời đại, Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước. Trong đó nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là
một điều kiện tiên quyết. Muốn nhập khẩu, chúng ta phải có ngoại
tệ, có các nguồn ngoại tệ sau:
- Xuất khẩu hàng hoá. dịch vụ.
- Viện trợ đi vay, đầu tư ....
- Liên doanh đầu tư nước ngoài với ta.
- Các dịch vụ thu ngoại tệ: ngân hàng, du lịch ...
Có thể thấy rằng, trong các nguồn trên thì xuất khẩu hàng hoá,
dịch vụ là nguồn quan trọng nhất vì: nó chiếm tỷ trọng lớn, đồng
thời là khả năng bảo đảm trả được các khoản đi vay, viện trợ ...
trong tương lai. Như vậy cả về dài hạn và ngắn hạn, xuất khẩu luôn
là câu hỏi quan trọng cho nhập khẩu.
10
Thứ hai: Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế của
đất nước.
Để xuất khẩu được, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải
lựa chọn được những ngành nghề, mặt hàng có tổng chi phí (chi phí
sản xuất và chi phí xuất khẩu) nhỏ hơn giá trị trung bình trên thị
trường thế giới. Họ phải dựa vào những ngành hàng, những mặt
hàng khai thác được các lợi thế của đất nước cả về tương đối và
tuyệt đối. Ví dụ như trong các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của ta
thì dầu mỏ, thuỷ sản, gạo, than đá là những mặt hàng khai thác lợi
thế tuyệt đối nhiều hơn (vì chỉ một số nước có điều kiện để sản xuất
các mặt hàng này). Còn hàng may mặc khai thác chủ yếu lợi thế so
sánh về giá nhân công rẻ. Tuy nhiên, phân biệt lợi thế tuyệt đối và
lợi thế so sánh chỉ mang ý nghĩa tương đối.
Hoạt động xuất khẩu vừa thúc đẩy thai thác các lợi thế của đất
nước vừa làm cho việc khai thác đó có hiệu quả hơn vì khi xuất
khẩu, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có ngoại tệ để nhập máy
móc, thiết bị tiên tiến đưa năng suất lao động lên cao. Các lợi thế
cần khai thác ở nước ta là nguồn lao động dồi dào, cần cù, giá thuê
rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và địa thế địa lý đẹp.
Thứ ba: Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ
cấu sản xuất, định hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta biết rằng có hai xu hướng xuất khẩu: xuất khẩu đa
dạng và xuất khẩu mũi nhọn.
Xuất khẩu đa dạng là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất
khẩu nhằm thu được nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng
thì lại nhỏ bé về quy mô, chất lượng thấp (vì không được tập trung
đầu tư) nên không hiệu quả.
11
Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Tuân theo quy luật lợi thế so sánh
của David Ricardo tức là tập trung vào sản xuất và xuất khẩu
những mặt hàng mà mình có điều kiện nhất, có lợi thế so sánh hay
chính là việc thực hiện chuyên môn hoá và phân công lao động
quốc tế. Khi đó, nước ta có khả năng chiếm lĩnh thị trường, trở
thành "độc quyền" mặt hàng đó và thu lợi nhuận siêu ngạch. Xuất
khẩu mũi nhọn có tác dụng như đầu của một con tàu, tuy nhỏ bé
nhưng nó có động cơ, do đó nó có thể kéo cả đoàn tàu tiến lên.
Hiện nay, đây là hướng xuất khẩu chủ yếu của nước ta, có kết hợp
với xuất khẩu đa dạng để tăng thu ngoại tệ.
Và khi mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn đem lại hiệu quả cao thì
các doanh nghiệp sẽ tập trung đầu tư để phát triển ngành hàng đó,
dẫn đến phát triển các ngành hàng có liên quan. Ví dụ: Khi ngành
may xuất khẩu phát triển làm cho ngành dệt cũng phát triển để
cung cấp nguyên vật liệu cho ngành may dẫn đến ngành trồng
bông, đay cũng phát triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành
dệt.
Hơn nữa, xu hướng xuất khẩu là mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu
các ngành sản xuất trong nền kinh tế vì cơ cấu một nền kinh tế
chính là số lượng các ngành sản xuất và tỷ trọng của chúng so với
tổng thể.
Rõ ràng, tỷ trọng ngành hàng mũi nhọn là tăng lên và tăng mạnh
còn trong nội bộ ngành đó thì những khâu, những loại sản phẩm ưa
chuộng trên thị trường thế giới cũng sẽ phát triển hơn. Tức là xuất
khẩu hàng mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu ngành và cả cơ cấu trong
nội bộ một ngành theo hướng khai thác tối ưu lợi thế so sánh của
đất nước.
Mặt khác, trên thị trường thế giới yêu cầu về hàng hoá dịch vụ ở
12
mức chất lượng cao, cạnh tranh gay gắt. Chỉ có các doanh nghiệp
đủ mạnh ở mỗi nước mới tham gia thị trường thế giới. Do đó, các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải nâng cao chất lượng
sản phẩm, giảm chi phí để tồn tại và phát triển.
Toàn bộ các tác động trên làm cho nền kinh tế phát triển tăng
trưởng theo hướng tích cực. Đó là ý nghĩa kinh tế của hoạt động
xuất khẩu.
Thứ tư: Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo
thu nhập và tăng mức sống.
Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu
thì phải cần thêm lao động, còn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải
tận dụng được lợi thế lao động nhiều, giá rẻ ở nước ta. Chính vì thế
mà chúng ta chủ trương phát triển ngành nghề cần nhiều lao động
như ngành may mặc. Với một đất nước hơn 70 triệu dân, tỷ lệ thất
nghiệp tương đối cao thì đây là một vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong
điều kiện nước ta hiện nay.
Thứ năm: Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín nước ta trên
thị trường thế giới tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hoạt động xuất khẩu đem lại ngoại tệ, góp phần làm cân bằng
cán cân thanh toán, là một trong bốn điều kiện đánh giá nền kinh tế
của một nước: GDP, lạm pháp, thất nghiệp và cán cân thanh toán.
Cao hơn nữa là xuất siêu, tăng tích luỹ ngoại tệ, luôn đảm bảo khả
năng thanh toán với đối tác, tăng được tín nhiệm. Qua hoạt động
xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam được bầy bán trên thị trường thế
giới, khuyếch trương được tiếng vang và sự hiểu biết.
Hoạt động xuất khẩu làm cho các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn,
làm tiền đề thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như dịch
13
vụ du lịch, ngân hàng, đầu tư, hợp tác, liên doanh ....
Tóm lại : phát triển hoạt động xuất khẩu là một chiến lược để
phát triển nền kinh tế nước ta.
II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC ĐỐI VỚI
VIỆT NAM.
Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định
được nhiệm vụ của chúng đó là:
- Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích
thích các ngành kinh tế phát triển.
- Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập
cho nền kinh tế quốc dân.
- Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo
công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập.
- Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm tới
thị trường chưa được khai thác.
- Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngoài.
- Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút.
- Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng.
- Sử dụng năng lực sản xuất thừa.
- Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng
ở nước ngoài.
- Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại
trên thị trường.
14
Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn phải có nhiệm vụ
góp phần thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước: “Đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ quốc tế, tăng cường
hợp tác khu vực “.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kể trên thì công tác xuất khẩu phải
nhận rõ các vai trò quan trọng sau:
- Thu ngoại tệ về cho đất nước, đây là nguồn vốn quan trọng để
thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất. Thật
vậy, nhập khẩu cũng như vốn đầu tư của một nước thường dựa
vào ba nguồn chủ yếu là viện trợ, đi vay, xuất khẩu.
Trong khi mức viện trợ là bị đọng và có hạn, còn đi vay sẽ tạo
thêm gánh nặng cho nền kinh tế thì xu hướng phát triển xuất khẩu
để tự đảm bảo và phát triển được coi như một chiến lược quan
trọng mà hầu hết các nước đều ứng dụng.
- Xuất khẩu là công cụ giải quyết thất nghiệp trong nước; theo
International Trade 1980-1990 ở Mỹ và các nước công nghiệp
phát triển cứ xuất khẩu 1tỷ USD thì tạo được 40 nghìn việc làm
trong nước, còn ở các nước tư bản đang phát triển khác có thể tạo
ra 45-50 nghìn chỗ việc làm. ở nước ta nền công nghiệp còn lạc
hậu, năng suất lao động thấp nên xuất khẩu 1 tỷ USD thì sẽ tạo
được trên 50 nghìn chỗ làm việc trong nước.
- Xuất khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước và tăng hiệu
quả sử dụng vốn thông qua tác động ngược chiều đối với việc đổi
mới trang thiết bị hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến.
- Khai thác các tiềm năng, phát huy các lợi thế của đất nước,
kích thích các ngành lts phát triển cả về quy mô lẫn chiều sâu.
Đặc biệt là sự tác động đến sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế theo
15
hướng ngày càng sử dụng có hiệu quả các lợi thế đất nước. Phát
triển các ngành công nghiệp, áp dụng kỹ thuật tiên tiến giúp có
thêm nguồn lức công nghiệp mới, tăng năng suất lao động, tiết
kiệm chi phí lao động xã hội.
- Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của quốc
gia.
- Đẩy mạnh xuất khẩu còn có vai trò tăng cường sự hợp tác
quốc tế giữa các nước, nâng cao địa vị và uy tín của Việt Nam
trên thương trường quốc tế. Nhờ có những hàng xuất khẩu mà
nhiều Công ty nước ngoài biết đến năng lực của ta và sẵn sàng
thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư.
Như vậy, xuất khẩu nó không chỉ đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ
phát triển mà nó có thể thành yếu tố bên trong của sự phát triển;
trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các vấn đề bên trong của nền
kinh tế quốc dân như vốn, kỹ thuật, lao động, nguyên liệu, thị
trường...
III. THỊ TRƯỜNG CHO HÀNG MAY MẶC VÀ XU HƯỚNG
NHẬP KHẨU HÀNG MAY MẶC TRÊN THẾ GIỚI.
1. Về thị trường may mặc Việt Nam.
1.1. thị trường EU:
Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng
các loại quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg /
người / năm. Ở đây, người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước
như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU
nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa qua hạn ngạch mà EU dành
cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá trị khoảng 450
triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 1998-200 giá trị sẽ
tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi giai đoạn 1993-1997).
16
Đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp
định buôn bán dệt may từ năm 1992 trong đó có hạn ngạch gia
công thuần tuý (TPP). Có nghĩa là khách hàng gửi nguyên phụ liệu
từ một nước thứ ba thuê gia công tại Việt Nam, sau đó xuất sang
EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ EU sang gia
công tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không tính
vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt
may với EU sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường
này đã có bước tiến vững chắc. Năm 1993 tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng may mặc Việt Nam vào EU đạt được khoảng 250 triệu
USD, năm 1996 đạt 400 triệu USD và dự kiến năm 1998 sẽ đạt 650
triệu USD.
Bảng 5: Một số chủng loại hàng đạt mức xuất khẩu cao của
Việt Nam
vào EU qua các năm (Đơn vị: Triệu chiếc)
Tên hàng
Chủng
1995
1996
2,93,71Jacket
áo lenCat 4
loại
Cat 21
Cat 5
8,9
1,65
9,4
1,81
T- Shirt
Quần
áo sơ mi nữ
áo khoách nữ
áo dài nữ
Váy ngắn
Cat 6
Cat 7
Cat 15
Cat 26
Cat 27
1,65
0,91
0,13
0,19
0,14
2,4
1,49
0,17
0,39
0,23
1997
11,7
(Nguồn: Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.)
Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm
50% trong tổng kim ngạch. Chất lượng hàng may mặc Việt Nam đã
được khách hàng chấp nhận, chỉ tính riêng năm 1996 hàng dệt-may
17
Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước EU với giá trị hàng trăm
triệu USD, đứng đầu là Đức ( 150 triệu USD), Pháp (60 triệu USD),
Tây Ban Nha ( 16 triệu USD), Bỉ ( 10 triệu USD), Thuỵ Điển (7,5
triệu USD), Bồ Đào Nha ( 1,3 triệu USD)...
Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối
với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó,
các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ những quy định khá
nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào thị trường này như:
- Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu
các mặt hàng có xuất xứ từ các nước khác vào EU.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đãi,
giá nhân công trong nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện
hành gây bất lợi cho các nhà sản xuất cùng loại hàng đó hoặc các
mặt hàng trực tiếp bị cạnh tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng quy
định cụ thể đã được hai bên thoả thuận.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho
nước thứ ba để tái xuất vào EU.
- Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi
rõ phí gia công, giá trị nguyên vật liệu mua tại Việt Nam để làm
căn cứ giảm thuế nhập khẩu vào EU.
Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim
ngạch mà Việt Nam đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng
với 108 nhóm thoe hạn ngạch và 43 nhóm tự do). Hạn ngạch năm
trước không dùng hết có thể chuyển sang năm sau. Đặc biệt trong
hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam và EU sẽ xem xét
khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp cho
Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các doanh
18
nghiệp của ta cần tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại
đến quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu.
1.2. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế
giới và đây là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị
trường khó tính với những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá
cả, họ thường yêu cầu kiểm tra chất lượng chi tiết và quan tâm
nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:
- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%
- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm
chất.
- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là
giá cả.
Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân
đầu người 26 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không
nhỏ, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may
mặc. Năm 1994 hàng may Việt Nam xuất sang Nhật xấp xỉ 130
triệu USD, năm 1996 xuất sang Nhật chiếm 90% kim ngạch của
mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt khác,
xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị
phía Bắc gia công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.
Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus
như đầu tư tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu
sắc đa dạng, nắm vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của
ta sé phát triển mạnh ở thị trường này.
1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ
19
Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì
dân số Mỹ khá đông, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành
thị có mức thu nhập quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn
và nhu cầu đa dạng. Riêng hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng
năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm 1996 là 34 tỷ USD. Nguồn
nhập chủ yếu là từ các nước Châu Á:
Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại
Châu Á của Hoa Kỳ.
Nước
Giá trị ( tỷ USD)
Trung Quốc
6,1
Hồng Kông
5
Hàn Quốc
1,8
Đài Loan
2,3
Các nước ASEAN khác
4,5
(Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.)
Tháng 2/1994 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1994 Mỹ
bỏ cấm vận viện trợ và tháng 7/1995 Mỹ bình thường hoá mối quan
hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta đang mong chờ được hưởng
quy chế tối huệ quốc (MFN-The Most Favourel Nation) cho hàng
nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là điều kiện chìa khoá
để xâm nhập thị trường Mỹ.
Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi
béo bở, hấp dẫn ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và
thị hiếu thể hiện rất rõ phong cách của người Mỹ; đó là sự phong
phú và khác biệt. Song với Việt Nam sự lạc quan đó vẫn nằm trong
nỗi ô âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam MFN và như vậy hàng
may Việt Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn rất cao, từ 4049% giá trị nhập khẩu. Trong khi Trung Quốc và một số nước khác
được hưởng quy chế này chỉ phải chịu thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh
đã không tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, ngân
20
- Xem thêm -