Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về mô...

Tài liệu Một số biện pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn toán lớp 4 đạt hiệu quả.

.PDF
46
108
99

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỌ XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO GIÚP ĐỠ HỌC SINH CHƯA ĐẠT CHUẨN KIẾN THỨC KỸ NĂNG VỀ MÔN TOÁN LỚP 4 ĐẠT HIỆU QUẢ Người thực hiện: Mai Thị Oanh Chức vụ: Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường TH Xuân Phú - Thọ Xuân SKKN thuộc môn: Toán THANH HOÁ NĂM 2018 STT 1 1.1 1.2 1.3 1.4 1.5 2 2.1 2.2 2.3 MỤC LỤC NỘI DUNG Mở đầu Lí do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Những điểm mới của sáng kiến Nội dung sáng kiến kinh nghiệm Cơ sở lí luận Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Các biện pháp thực hiện Biện pháp 1: Chỉ đạo giáo viên khảo sát chất lượng, theo dõi thường xuyên, nắm bắt cụ thể tình hình học sinh yếu. 2.4 3 3.1 3.2. TRANG 1 1 2 2 2 2 2 2 3 6 6 Biện pháp 2: Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn toán phù hợp với đối tượng học sinh. 7 Biện pháp 3: Chỉ đạo giáo viên thực hiện kế hoạch và ôn tập các dạng toán. 9 Biện pháp 4: Tổ chức cho giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tích cực. Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh. 13 Biện pháp 6: Nâng cao chất lượng giảng dạy giáo viên khối 4 về môn Toán: thông qua sinh hoạt chuyên môn, dự giờ lên lớp, bồi dưỡng qua các chuyên đề. Biện pháp 7: Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng Hiệu quả sáng kiến Kết luận Kết luận Kiến nghị 16 16 17 18 18 18 19 1. MỞ ĐẦU 1.1.Lí do chọn đề tài Cũng như các môn học khác, môn Toán có một vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Vì vậy, mỗi giáo viên cần phải có trách nhiệm dạy học sao cho học sinh của mình tiếp thu được những kiến thức và kĩ năng mà chương trình giáo dục tiểu học quy định. Tuy nhiên, không phải mọi học sinh đều học tập dễ dàng như nhau, có thể có những học sinh nắm kiến thức toán học rất nhanh chóng và sâu sắc mà không cần có sự cố gắng đặc biệt, trong khi đó một số em khác lại không thể đạt được kết quả như vậy mặc dù đã cố gắng rất nhiều, đó chính là các em học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán. Qua theo dõi chất lượng giáo dục của nhà trường trong những năm qua, tôi thấy rằng chất lượng môn toán ở một số học sinh còn hạn chế. Một số học sinh vẫn còn khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng cơ bản nên thực chất vẫn còn tồn tại học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn toán có nguy cơ ngồi nhầm lớp. Số học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán đó chủ yếu là ở khối 4,5. Bởi vì lên lớp 4,5 kiến thức môn toán có thêm nhiều phần mới và mức độ cao hơn. Học sinh cần phải có sự tư duy trừu tượng để học môn toán. Ở trường chúng tôi, khối lớp 4 là khối lớp có số học sinh học chưa đạt Chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán là nhiều nhất. Năm học 2017 – 2018 là năm học tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, Đảng bộ Huyện Thọ Xuân lần thứ XXVI nhiệm kỳ 2015-2020; Tiếp tục thực hiện Kế hoạch hành động của ngành Giáo dục triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; Quyết định số 404/QĐTTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông. Để đạt hiệu quả cao trong chất lượng dạy học như yêu cầu năm học không dễ chút nào, khi trong thực tế một số lớp học bao giờ cũng có sự chênh lệch trình độ tiếp thu của học sinh nhất là học sinh non yếu chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng thì kết quả là một gánh nặng. Là Hiệu trưởng ở trường Tiểu học bản thân tôi nhận thấy: Việc dạy học các em học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn toán đạt được chuẩn kiến thức kỹ năng là một vấn đề không đơn giản, cần được sự quan tâm. Đó chính là vấn đề mà chúng ta đặt ra và cần có hướng giải quyết. Xuất phát từ lý do trên tôi đã trăn trở, nghiên cứu vấn đề và bằng kinh nghiệm bản thân trong quá trình chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường đặc biệt là chỉ đạo về chuyên môn tôi xin trao đổi và chia sẻ cùng đồng nghiệp "Một số biện pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức và kỹ năng về môn Toán lớp 4 đạt hiệu quả"nhằm góp phần giảm đến mức tối đa và 1 khắc phục tình trạng học sinh lớp 4 không đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán ở Tiểu học nói chung. 1.2. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu để rút ra các biện pháp chỉ đạo giáo viên giúp học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn toán nắm kiến thức ngày càng vững vàng hơn, hăng say trong giờ học toán nâng cao chất lượng giảng dạy góp phần thúc đẩy chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường và làm nền tảng vững chắc cho các lớp trên. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về nội dung và các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán lớp 4. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp được sử dụng đó là:Phương pháp khảo sát, phân loại đối tượng;Phương pháp đàm thoại, hỏi đáp;Phương pháp thi đua, nêu gương;Phương pháp thống kê, phân loại;Phương pháp luyện tập, thực hành; Phương pháp kiểm tra , đánh giá… 1.5. Điểm mới của sáng kiến Điểm mới trong kết quả nghiên cứu đề tài này là sự lựa chọn phương pháp dạy học toán phù hợp với học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán qua từng dạng bài Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó, giúp các em hiểu cácthuật ngữ, cách suy luận, chỉ rõ những kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kỹ. Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, phê phán đúng mức thái độ lơ là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh. Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở, tạo tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho các em để các em cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN 2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến. Các khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu *Học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng, học sinh khó khăn trong học tập Học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng các môn học, học sinh khó khăn trong học tập là những học sinh phát triển không bình thường về mặt năng lực nhận thức, tiếp thu chậm, không theo kịp chương trình và các bạn trong lớp biểu hiện ở các dấu hiệu cơ bản sau: - Động cơ học tập lệch lạc, mờ nhạt. - Tiếp thu tri thức các môn học phiến diện, hẫng hụt, tụt hậu so với bạn bè 2 và so với yêu cầu, kĩ năng thực hành yếu hoặc di chuyển sang lĩnh vực hoạt động theo những mục đích, động cơ ngoài việc học tập. Kết quả học tập thất thường, chậm và không có độ tin cậy cao. - Thái độ tiêu cực trong học tập, chán ghét, không ham thích những hoạt động học tập. Từ đó dẫn đến những hành vi tiêu cực, gian dối, đối phó hoặc có khi có những biểu hiện ghen tức bạn bè học hơn mình, thù ghét những thầy cô giáo nghiêm khắc trong giáo dục. Trong học tập có khi hay bỏ học, trốn tiết... * Giáo dục học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn học - Giáo dục học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn học là quá trình tác động của những người làm công tác giáo dục tới đối tượng học sinh có trình độ chưa đạt tiêu chuẩn giáo dục. - Học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn học là những em mà trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách đã có những biểu hiện không bình thường về thể chất, tinh thần, trí tuệ, đạo đức cần được sự quan tâm giúp đỡ của nhà trường - gia đình - xã hội cũng như sự nỗ lực của chính các em. Vì vậy, giáo dục học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn học trước hết là quan tâm chăm sóc, bồi dưỡng nhân cách cho người học; hướng dẫn các em có phương pháp học tập đúng đắn; động viên, khuyến khích các em có hứng thú, niềm tin trong học tập. 2.2.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ dạy và học, nhà trườngđã gặp những thuận lợi và khó khăn như sau: *Thuận lợi -Địa phương nơi tôi công tác là một trong những nơi quan tâm nhiều đến công tácgiáo dục. Trong những năm gần đây đời sống kinh tế văn hoá giáo dục của nhân dân được phát triển, nhận thức có nhiều chuyển biến tốt, con em đi học đã được phụ huynh quan tâm hơn. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương luôn quan tâm đến công tác giáo dục của nhà trường. - Đối với học sinh lớp 4 là lớp gần cuối cấp của bậc tiểu học nên ý thức động cơ của học sinh lớp 4 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Từ đó giúp các em học sinh có lực học non yếu giảm bớt phần nào khó khăn trong học tập. - Đội ngũ giáo viên nói chung và của khối lớp 4 nói riêng đại đa số là trẻ khoẻ nhiệt tình, tâm huyết với nghề và có năng lực chuyên môn. Số giáo viên có trình độ trên chuẩn cao: 3/3đạt trên chuẩn(100%). - Nhà trường luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục vàđào tạo Thọ Xuân. * Khó khăn - Xuân Phú là một xã miền núi nằm về phía Tây Nam của huyện Thọ Xuân, cách trung tâm huyện 20km. Địa bàn dân cư rộng, một bộ phận học sinh đi lại khó khăn(Làng Pheo giáp huyệnThường Xuân và huyện Triệu Sơn). Những hôm trời mưa đường lầy lội các em thường đi học chậm giờ thậm chí các 3 em phải nghỉ học. - Trình độ dân trí không đều, điều kiện kinh tế của nhân dân còn nhiều khó khăn.Dân số có 2 dân tộc đó là đân tộc Kinh và Mường, trong đó dân tộc Mường chiếm 70 %.Thu nhập chủ yếu của nhân dân từ sản xuất nông, lâm nghiệp. Nhìn chung ….là xã nghèo của huyện, thu nhập bình quân đầu người còn thấp, số hộ nghèo còn cao.Vì vậy, một bộ phận phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, còn phó mặc cho nhà trường. - Cơ sở vật chất của nhà trường tuy đã có sự đầu tư hàng năm, song vẫn chưa đáp ứng đầy đủ được nhu cầu của việc dạy và học: Phòng học, ánh sáng chưa đủ, bàn ghế ... nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của học sinh. Trong những năm gần đây chất lượng đại trà có phần được cải thiện song tỉ lệ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán của nhà trường nói chung của khối 4 nói riêng vẫn còn cao với yêu cầu chung. Để tìm hiểu thực trạng tôi đã đối chiếu kết quả dạy học môn Toán của mấy năm gần đây, dự giờ thăm lớp, trao đổi với giáo viên, khảo sát chất lượng học sinh, tìm hiểu học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán. * Thực trạng chất lượng môn toán lớp 4. Qua thực tiễn chỉ đạo việc giảng dạy, kết quả khảo sát chất lượng đầu năm, kết hợp với nhận xét của từng giáo viên chủ nhiệm, bản thân nhận thấy rằng: tỉ lệ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năngmôn Toán của khối 4 còn khá cao, cụ thể như sau: Kết quả khảo sát: Năm học Tổng Số HS Điểm 9-10 SL TL % Điểm 7-8 SL TL % Điểm 5- 6 SL TL % Điểm dưới 5 SL TL % 2016-2017 110 17 15 30 27 58 53,5 5 4,5 2017-2018 103 15 14 28 27 56 55,2 4 3,8 Qua kết quả làm bài của học sinh thì 4-5 em học sinh có điểm dưới 5 các em còn vướng phải các lỗi sau: Còn chậm trong thực hành tính toán, chưa thuộc bảng cửu chương; Cộng, trừ, nhân, chia có nhớ còn chậm, quên không nhớ; Còn lẫn lộn, quên cách tìm thành phần chưa biết của phép tính; Kỹ năng giải toán có lời văn còn yếu(Cụ thể là các em: Cao Văn Nam- Lớp 4C.Các em:Bùi Văn Nam,Lương Văn Nhàn, Lê Văn Viện, Bùi Thị Khánh Ly- Lớp 4B). * Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán . Về phía học sinh: Như chúng ta đã biết, học sinh chưa đạt chuẩn kiến thứckỹ năng về môn Toán của học sinh có biểu hiện dưới nhiều hình thức, nhiều vẻ khác nhau nhưng nhìn chung thường có các đặc điểm sau đây: 4 - Có nhiều lỗ hổng về kiến thức, kĩ năng. Một số học sinh đã bị hổng kiến thức từ lớpdưới nên việc tiếp cận nắm tri thức mới thật sự là vất vảđối với các em. - Phương pháp học tập chưa tốt; Năng lực tư duy yếu; Có thái độ thờ ơ với học tập, ngại cố gắng, thiếu tự tin. -Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập. - Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. - Học sinh lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế. - Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền. - Mỗi em có một khả năng nổi trội riêng nhưng các em chưa biết phát huy khả năng của mình. - Không biết làm tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết (cộng, trừ, nhân, chia). - Học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức. Về phía nhà trường: - Công tác quản lý: Ban giám hiệu nhà trường chưa sâu sát, thiếu sự kiểm tra trong việcđánh giá dẫnđến tình trạng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng mà không có biện pháp giúp đỡ. -Về phía giáo viên: Một bộ phận giáo viên còn chưa chú ý đúng mức đến đối tượng học sinh yếu, chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa sút của học sinh mà nhiều em đã kém lại càng kém thêm, lỗ hổng kiến thức ngày càng lớn hơn. Nhiều giáo viên chỉ chú ý đến học sinh hoàn thành tốt môn họcthích tổ chức các hoạt động học tập trên lớp với những học sinh này để tránh xử lí các tình huống phức tạp mất thời gian; Một số giáo viên tổ chức các hoạt động học tập chưa tốt còn để học sinh tiếp thu tốt nói leo, nói hộ học sinh tiếp thu chậm. Giáo viên chưa quan tâm đến tất cả HS trong lớp còn để học sinh tiếp thu chậm ngoài lề các tiết học. Giáo viên chỉ chú trọng vào các em HS tiếp thu tốt và coi đây là chất lượng chung của lớpnhư vậy các em học sinh tiếp thu chậm không có cơ hội bộc lộ khả năng của mình và đã ngại học lại thêm tính ì, ngại suy nghĩ, ngại vận động; Chưa chú trọng đến tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh học kém để phân loại đối tượng; giảng dạy mang tính dàn trải chưa có biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh,năng lực tổ chức giờ học theo nhóm đối tượng còn hạn chế, chưa động viên tuyên dương kịp thời khi HS có một biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ. Mặt khác, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm và gia đình học sinh nên chưa có biện pháp phù hợp trong quá trình phụ đạo, giúp đỡ học sinh học tập.Chính vì vậy vẫn tồn tại một số học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán. Đối với phụ huynh: Một bộ phận phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em, còn phó mặc việc học tập của con em cho nhà trường.Bên cạnh đó phụ huynh chưa nắm được phương pháp sư phạm, nhiều phụ huynh không có khả năng nắm giải đượcToán ở Tiểu học khiến cho trẻ 5 không hiểu và thiếu tin tưởng. Mặt khác, một số phụ huynh điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn không có điều kiện chăm lo cho con em học tập, ở nhà các em còn phải làm nhiều việc phụ giúp gia đình vì vậy các em đến trường thường trong trạng thái mệt mỏi, uể oải. Một số phụ huynh đi làm ăn xa phải gửi con cho ông bà, cô bác trông hộ. Các em trong đối tượng này thì bị thiếu thốn tình cảm của bố mẹ nên khi học thường không chú tâm vào việc học tập. Từ những thực trạng nói trên, để tập trung nâng chất lượng học tập của học sinh,ngăn ngừa và khắc phục tình trạng học sinh yếu, kém nói chung vàvề môn Toán nói riêng, hạnchế tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp tôi đã suy nghĩ và trao đổi cùng đồng nghiệp đưa ra “Một số biện pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán lớp 4 đạt hiệu quả” như sau: 2.3. Một số biện pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán lớp 4. Biện pháp 1. Chỉ đạo giáo viên khảo sát chất lượng, theo dõi thường xuyên, nắm bắt cụ thể tình hình học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán. - Ngay từ đầu năm học, tiến hành khảo sát chất lượng học sinh về môn Toán. - Lập danh sách và phân loại học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán, phân tích nguyên nhân. Tôi đã chỉ đạo giáo viên theo dõi kết quả làm bài tập trên lớp và làm bài tập ở buổi 1 và buổi 2 hàng ngày, theo dõi kết quả kiểm tra định kỳ, sớm phát hiện ra các trường hợp học sinh có khó khăn trong học tập và đi sâu tìm hiểu từng trường hợp cụ thể, phân tích đúng nguyên nhân dẫn đến tình hình đó đối với các em. Tôi hướng dẫn giáo viên phân loại học sinh học chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toántheo những nguyên nhân chủ yếu như: Do hổng kiến thức, kỹ năng từ lớp dưới, do điều kiện hoàn cảnh gia đình, do trí tuệ chậm phát triển... Thực hiện theo kế hoạch, tôi chỉ đạo giáo viên dạy khối 4 đã khảo sát và phân loại học sinh còn non yếu môn toán theo các nhóm nguyên nhân chủ yếu như sau: + Nhóm khả năng tiếp thu bài chậm, chưa chăm học, hổng kiến thức lớp dưới như chưa thuộc bảng nhân, bảng chia, chưa biết tìm thành phần chưa biết của phép tính, giải toán có lời văn còn yếu: Nhóm này có 7 em. + Nhóm do hoàn cảnh gia đình và các nguyên nhân khác: Nhóm này có 7 em. Trong nhóm này các em có khả năng tiếp thu bài . Nhưng vì điều kiện gia đình khó khăn không có người chăm lo, đôn đốc học tập nên các em chưa tích cực học tập, không hoàn thành nhiệm vụ học tập, dẫn đến kết quả học tập sa sút và liên tục bị điểm yếu. Biện pháp 2.Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch, nội dung, chương trình giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn toán phù hợp với đối tượng học sinh. Khi nắm được nguyên nhân dẫn đến học sinh học mà chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán của từng em, tôi đã hướng dẫn giáo viên lập kế 6 hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học sinh yếu, kém với yêu cầu: + Lập kế hoạch bài học phải phù hợp với từng đối tượng học sinh kể cả tiếtchính khóa cũng như tiết phụ đạo. Nội dung kế hoạch phải xuyên suốt cả năm học và cụ thể cho từng tuần, từng tháng. + Nội dung các tiết phụ đạo tập trung rèn luyện kĩ năng và ôn tập các kiến thức đã học cho học sinh. + Đặc biệt giúp các em củng cố những kiến thức cơ bản theo yêu cầu chuẩn kĩ năng kiến thức của lớp dưới mà các em còn bị hổng. Như nhớ được bảng nhân, bảng chia, giải được một số dạng toán cơ bản đã học ở lớp dưới... Mục đích là lấp lỗ hổng về kiến thức cho học sinh. * Ví dụ nội dung phụ đạo học sinh học chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn toán lớp 4: Thời gian Nội dung phụ đạo - Ôn tập các bảng nhân chia - Luyện tập thực hành 4 phép tính với 4- 5 Tháng 9 chữ số - Đọc viết, so sánh số tự nhiên - Rèn kĩ năng phân tích cấu tạo số, hàng, lớp. - Thực hành 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia với các số có 6 chữ số. Tháng 10 - Luyện tập cách đổi đơn vị đo thời gian, khối lượng. - Giải toán trung bình cộng, Tổng –Hiệu - Tính giá trị của biểu thức chứa chữ. Ghi chú ( Điều chỉnh bổ sung ND) Ôn tập cách đọc viết, so sánh số tự nhiên Luyện giải toán Tổng - Hiệu - Thực hành 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia, tính giá trị biểu thức, tìm thành phần Tháng 11 chưa biết của phép tính. - Đổi đơn vị đo diệntích. Luyện về cách đổi đơn vị đo diện tích, dấu hiệu chia hết - Luyện tập về nhận biết dấu hiệu chia hết cho 2,3,5,9 Tháng 12 - Thực hành 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên. - Ôn tập các dạng toán đã học. Luyện kĩ năng thực hiệnphép chia với số có 2 - 3 chữ số 7 - Luyện cách tính diện tích hình vuông, hình chữ nhật, hình bình hành Tháng 1 - Luyện tập nắm các kiến thức cơ bản về phân số (Quy đồng, rút gọn…) - So sánh phânsố. - Ôn tập cộng, trừ, nhân ,chia số tự nhiên. - Luyện tập cộng trừ, nhân, chia phân số, tìm Tháng 2,3 thành phần chưa biết trong phép tính với các phân số. - Giải toán Tìm phân số của một số. - Giải toán Tổng – tỉ, Hiệu –tỉ - Giải các bài toán về ứng dụng tỉ lệ bản đồ Tháng 4 - Ôn tập chuyển đổi, thực hiện phéptính với số đo khối lượng, thời gian, diện tích Luyện kỹ năng tính diện tích các hình đã học Tháng 5 - Ôn tập, luyện các kĩ năng quy đồng, rút gọn, các phép tính về phân số. Luyện kĩ năng thực hiện cộng, trừ, nhân, chia phân số Luyện kĩ năng thực hiện cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên, phân số Luyện kỹ năng giải các dạng toán điển hình Nội dung các buổi phụ đạo sau phải có sự củng cố lại những kiến thức đã học ở các buổi học trước và tập trung chủ yếu vào củng cố cho học sinh kĩ năng thực hiện thành thạo bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự nhiên ở học kì I. Nội dung củng cố kĩ năng thực hành làm tính với số tự nhiên, giáo viên linh hoạt bằng nhiều bài toán khác nhau. Có thể là các dạng bài như: đặt tính rồi tính; tính giá trị biểu thức; tìm x; toán có lời văn… Phải cho học sinh làm đi làm lại nhiều lần một dạng bài tập để các em thành thạo.Việc củng cố kiến thức đã học thực hiện đồng thời với việc dạy kiến thức mới của lớp 4. Căn cứ vào yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài, giáo viên giúp học sinh yếu tiếp thu những kiến thức và làm bài tập vừa sức với các em. + Cuối tuần giáo viên kiểm tra 1 lần, cuối mỗi tháng Ban giám hiệu kiểm tra trực tiếp ở buổi 2 bằng bảng con, mỗi kỳ có bài kiểm tra theo dõi kết quả học tập của các em. Lập sổ theo dõi quá trình phụ đạo, nâng bậc học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng suốt cả năm học. + Kết hợp chặt chẽ với gia đình và nhà trường. Có sổ liên lạc giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh, thường xuyên đến thăm và động viên gia đình học sinh. + Thời gian phụ đạo chủ yếu vào các buổi chiều trong tuần (thứ 3 và thứ 5), lồng ghép vào chương trình chính khoá và với một số tiết hoạt động tập thể hay giờ giải lao (trong đó tổ chức các trò chơi có nội dung toán học). + Kế hoạch phụ đạo giúp đỡ học sinh phải có chỉ tiêu phấn đấu cụ thể là: cuối học kì I không còn tình trạng học sinh bị hổng kiến thức đã học. Học kì II, các em học đến đâu phải đạt yêu cầu đến đó (theo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ 8 năng của chương trình toán lớp 4). Đến cuối năm học, không còn học sinh nào không đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn toán. Biện pháp 3: Chỉ đạo giáo viên thực hiện kế hoạch và ôn tập các dạng toán. Giúp đỡ học sinh học yếu, tiếp thu bài chậm nói chung và học sinh học chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn toán nói riêng là việc làm khó, đòi hỏi người giáo viên phải có lòng nhiệt tình và kiên trì, yêu thương học sinh. Vì vậy tôi hướng dẫn giáo viên khi thực hiện kế hoạch phụ đạo giúp đỡ học sinh yếu, giáo viên không được nóng vội, phải thực hiện kế hoạch theo từng bước hợp lí. Đồng thời không cứng nhắc rập khuôn theo kế hoạch mà cần phải linh hoạt điều chỉnh nội dung và cách thức thực hiện. Căn cứ vào kết quả tìm hiểu nguyên nhân của học sinh học yếu, chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn toán ở khối 4, tôi hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch phụ đạo với những nội chủ yếu như sau: 1. Củng cố 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự nhiên. Bởi vì số học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán khối 4 đa số do khả năng tiếp thu bài chậm, còn hổng kiến thức từ lớp dưới, vì thế đã học lên lớp 4 nhưng các em này vẫn chưa thuộc lòng bảng nhân, bảng chia ở lớp 2, 3 còn yếu trong việc vận dụng bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia để giải toán có lời văn. Điều đó rất bất lợi cho các em trong quá trình học toán ở lớp 4 và lên lớp 5.Để các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia, tôi xác định việc làm đầu tiên dạy lại những kiến thức cơ bản giúp họcsinh lấp được lỗ hổng kiến thức. Vì vậy, tôi đã hướng dẫn cho giáo viên giao cho học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán cứ mỗi tuần phải học thuộc 3 đến 5 bảng nhân, bảng chia, mỗi buổi học giáo viên dành 5 phút với buổi chính khoá, 15 phút với buổi phụ đạo để kiểm tra việc học của học sinh. Cuối tuần giáo viên lại tổ chức cho các em thi đọc bảng cửu chương (15-20 phút). Sau hai tuần đầu giáo viên kiểm tra đã nhận thấy rằng: Các em đều học thuộc bảng nhân, bảng chia nhưng khi vận dụng làm một phép tính cụ thể (Ví dụ:124 : 2) thì có em làm được nhưng rất chậm, có em không làm được. Tôi trăn trở tìm nguyên nhân, thì ra các em chỉ thuộc "vẹt" bảng nhân, bảng chia. Tiếp theo tôi hướng dẫn giáo viên điều chỉnh cách kiểm tra, phải chỉ định học sinh đọc bảng nhân, chỉ rõ bản chất của phép nhân là kết quả của phép cộng của các số bằng nhau, hướng dẫn các em học thuộc nhừ bảng nhân 5, thuộc nhừ cách tính một số nhân với mười để các em dựa vào đó tìm kết quả phép tính nhân, chia trong bảng khi chưa thuộc lòng: Ví dụ bảng nhân 3, hỏi phép nhân, phép chia bất bất kì 3  6 = ? (học sinh vận dụng kết quả phép nhân 3  5 = 15 suy ra kết quả 3  6 = 15 + 3 = 18); 3  9 = ?... (suy từ 3  10=30 ra 3  9 = 30- 3 =27). Từ đó giúp các em học thuộc lòng. Đồng thời củng cố vận dụng bảng nhân chia, bảng chia bằng cách giao cho các em thực hiện những phép tính đơn giản không có nhớ như: 24  2; 123  3; 84 : 2; 124: 4 ... Đến tuần sau, vào các buổi chiều phụ đạo giúp đỡ HS chưa đạt chuẩn kiến 9 thức kỹ năng môn Toán, tôi hướng dẫn giáo viên thay đổi hình thức kiểm tra, khác với các tuần trước.Giáo viên ghi sẵn nội dung kiểm tra lên 2 tấm bìa và gắn lên bảng: 5  6 = ... 35 : 7 = ... 4  5=… 25 : 5 = … 7  8 = ... 48 : 6 = … 3  9=… 36 : 6 = … 4  9 = ... 64 : 8 = … 9  6 = …. 42 : 7 = … 6  9 = ... 72 : 9 = … 7  7=… 45 : 5 = … …... …… ….... …... Cứ mỗi lần, gọi 2 HS lên bảng làm bài (HS ghi kết quả vào chỗ chấm). Lần này không ghi theo thứ tự phép tính của bảng nhân hay bảng chia mà ghi bất kì phép nhân hay phép chia trong bảng, mục đích là để học sinh thuộc lòng bảng nhân, bảng chia mà các em đã học. Đồng thời tiếp tục củng cố kĩ năng vận dụng thực hành các phép tính nhân, chia bằng các bài như đặt tính rồi tính, tính giá trị biểu thức đơn giản, tìm x … Không những yêu cầu các em học thuộc bảng nhân, bảng chia mà giáo viên còn phải giao cho các em về nhà viết lại nhiều lần thay cho bài kiểm tra và được giáo viên chấm điểm chặt chẽ các bài này. Ngoài ra giờ ra chơi hay giờ giải lao của buổi học, giáo viên phải gần gũi và nói chuyện với các em, lồng vào đó là những mẫu chuyện vui về toán học, những câu đố đơn giản đố các em về phép nhân hay phép chia. Các em đã thi nhau trả lời và như vậy đã giúp các em dễ nhớ được bảng nhân, bảng chia đã học ở lớp 2,3. 2. Củng cố một số dạng toán về Tìm thành phần chưa biết của phép tính;Đổi đơn vị đo… -Để nắm cách tìm thành phần chưa biết của phép tính: Số bị chia và số chia, thừa số, số hạng, số trừ và số bị trừ không bị lẫn lộn, giáo viên có thể cho học sinh nắm cách nhận biết đơn giản nhất. Thực hiện một phép tính cụ thể đơn giản có liên quan đến phép tính của đề, sau đó cho học sinh nhận dạng tìm số nào trong phép tính đó. (Tìm các thành phần còn lại; tìm số bị trừ; thực hiện cộng, tính nhân khi tìm số bị chia…) Chẳng hạn trong bài: Tìm x biết 365 : x = 73. Đối với dạng bài này Giáo viên có thể đưa ra ví dụ cụ thể như sau: 15 : 3 = 5. Như vậy học sinh sẽ dễ dàng nhận thấy trong phép chia 15 : 3 = 5 thì (số 3) chính là thành phần cần tìm trong phép tính 365 : x = 73. Sau đó hỏi muốn tìm số 3 ta phải làm như thế nào? (lấy 15 : 5 = 3), vậy muốn tìm x ta làm như thế nào? (365 : 73). Làm tương tự với các dạng tìm x khác. - Đổi đơn vị: từ đơn vị lớn đổi ra đơn vị nhỏ hơn: ta thực tính nhân ( Ví dụ: 2kg =….g . Ta có: 2 x 1000 = 2000 g ) và ngược lại: Đổi từ đơn vị nhỏ đổi rađơn vị lớn ta thực hiện tính chia (chẳng hạn: 36000 kg = …..tấn, ta có: 36000:1000 = 36 tấn. - Hay khi dạy về đơn vị đo thời gian: Giáo viên cho học sinh quan sát sự chuyển động trên mặt đồng hồ có 3 kim và nêu khoảng thời gian kim giây đi từ 10 một vạch nhỏ đến vạch nhỏ liền kề là 1 giây, khoảng thời gian kim giây đi hết một vòng trên đồng hồ là 60 giây tức là 1 phút, và giới thiệu 1 phút bằng 60 giây - Trước khi bắt đầu vào học các phép tính về phân số, Giáo viên cần hướng dẫn họcsinh nắm chắc phần so sánh phân số, quy đồng phân số, rút gọn phân số …Bắt đầu vào thực hiện các phép tính giáo viên lần lượt hướng dẫn các em theo các bước trong sách giáo khoa, theo từng ví dụ và rút ra kết luận như sách giáo khoa. 3. Củng cố kỹ năng giải toán. Kết hợp củng kĩ năng tính toán với củng cố rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn sẽ giúp các em giải toán đúng tránh nhầm lẫn khi tính toán.Bởi vì có những em nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán sai hoặc biết tính toán nhưng cách giải sai dẫn đến bài toán giải sai.Vì vậy sau khi các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia thì chú ý đến việc giải toán có lời văn.Bởi chúng ta biết rằng đa số các em yếu, kém về môn Toán thường gặp khó khăn trong việc giải Toán có lời văn. Tôi đã hướng dẫn giáo viên lựa chọn cách dạy phù hợp để học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu nội dung bài học, nhớ kĩ được từng dạng bài toán. Giải toán đối với học sinh là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Việc hình thành kỹ năng giải toán hơn nhiều so với kĩ năng tính vì bài toán giải là sự kết hợp đa dạng hoá nhiều khái niệm quan hệ toán học, ....chính vì đặc trưng đó mà giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh có được thao tác chung trong quá trình giải toán: Bước 1: Đọc kỹ đề bài: Có đọc kỹ đề bài học sinh mới tập trung suy nghĩ về ý nghĩa nội dung của bài toán và đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán. Khi giải bài toán ít nhất đọc từ 2 đến 3 lần. Bước 2: Phân tích tóm tắt đề toán để biết bài toán cho biết gì? Hỏi gì? (tức là yêu cầu gì?) Đây chính là trình bày lại một cách ngắn gọn, cô đọng phần đã cho và phần phải tìm của bài toán để làm rõ nổi bật trọng tâm, thể hiện bản chất toán học của bài toán, được thể hiện dưới dạng câu văn ngắn gọn hoặc dưới dạng các sơ đồ đoạn thẳng. Bước 3: Tìm cách giải bài toán: Thiết lập trình tự giải, lựa chọn phép tính thích hợp. Bước 4: Trình bày bài giải: Trình bày lời giải (nói - viết) phép tính tương ứng, đáp số, kiểm tra lời giải (giải xong bài toán cần thử xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? (trong một số trường hợp nên thử xem có cách giải khác gọn hơn, hay hơn không? Tôi đã định hướng cho giáo viên củng cố cho học sinh cách giải các dạng toán điển hình của lớp 3 kết hợp với củng cố kỹ năng tính toán với bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Vì học sinh tiếp thu chậm có đặc điểm là rất ngại, thậm chí sợ làm toán có lời văn vì khả năng tư duy “phân tích, tổng hợp của các em còn nhiều hạn chế” nên chưa có khả năng phán đoán suy luận. Do đó, khi 11 làm toán có lời văn các em giải chưa đúng, tính toán còn sai. Có em giải “bừa” cho xong. Vì vậy tôi hướng dẫn giáo viên khi củng cố kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh yếu thì chỉ cần ra với dạng cơ bản nhất, đơn giản nhất mang tính chất vận dụng củng cố lý thuyết mà thôi. Không nên ra những bài lắt léo hay những bài phải qua bước trung gian mới về dạng cơ bản. Đến khi học sinh lấp được những chỗ hổng kiến thức đã học thì mới nâng dần mức độ lên. * Một số dạng toán điển hình lớp 3 cần phải ôn tập củng cố là: - Dạng bài gấp một số lên nhiều lần. Ví dụ: Thủy có 35 que tính. Hà có số que tính gấp 3 lần Thủy. Hỏi hai bạn có bao nhiêu que tính? - Dạng bài giảm một số đi nhiều lần. Ví dụ: Thủy có 105 que tính. Thủy có số que tính gấp ba lần số que tính của Hà. Hỏi Hà có bao nhiêu que tính? - Dạng bài tìm một phần mấy của một số: Ví dụ: Một đàn gia cầm của một nhà có 128 con vịt và gà. Trong đó số gà bằng 1 4 cả đàn. Hỏi đàn gia cầm đó có mấy con gà? - Dạng bài có liên quan đến rút về đơn vị: Ví dụ: Có 70 xếp giấy gói đều thành 7 bọc. Hỏi có 100 xếp giấy sẽ gói được bao nhiêu bọc như thế? - Dạng bài tính chu vi, diện tích hình vuông, hình chữ nhật; Ví dụ: + Tính chu vi, diện tích thửa ruộng hình vuông có cạnh 24 m. + Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều rộng 9m, chiều dài gấp 3 lần chiều rộng. Tính chu vi và diện tích của thửa ruộng đó. Để kết hợp tốt giữa lấp lỗ hổng kiến thức và dạy kiến thức mới, tôi chỉ đạo giáo viên thực hiện nội dung củng cố kĩ năng giải các bài toán điển hình lớp 3 trong những tuần đầu của năm học (khoảng 6 đến 8 tuần đầu). Song song với việc bổ sung lỗ hổng kiến thức lớp 3 thì trong các tiết học chính khóa, giáo viên giúp học sinh yếu biết giải các bài toán giải dạng toán điển hình lớp 4 đồng thời cần phải ôn tập củng cố ngay ở các tiết học phụ đạo buổi 2. Nhất định không để học sinh hổng kiến thức đã học nữa. Một số dạng toán cần ôn tập ở lớp 4 đó là: Tìm số trung bình cộng; Tìm 2 số khi biết Tổng và hiệu- tỉ số của 2 số đó;Bài toán về đại lượng tỉ lệ; Bài toán có nội dung hình học (chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông);Nội dung giải toán được sắp xếp hợp lý đan xen với nội dung hình học (diện tích, chu vi hình vuông, hình chữ nhật...) và các đơn vị đo lường, đo diện tích nhằm đáp ứng với mục tiêu của chương trình toán 4. Do là học sinh tiếp thu chậm nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm và nhanhquên. Các kiến thức cũ phải được giáo viên cũng cố lại nhiều lần khi có liênquan đến nội dung bài mới, giúp các em biết được mối liên hệ, biết phân biệt, biếtđược sự chuyển tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn phải cho họcsinh thấy rõ sự khác biệt của các dạng toán có mối liên quan với nhau. Tìm 2 sốkhi biết tổng và tỉ số của 2 số đó; Tìm 2 số khi biết hiệu tỉ số của 2 12 sốđó; Tìm 2số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó. Bằng cách cho xem 3 đề toán thuộc 3 dạngnày và chỉ rõ sự khác nhau giữa chúng. Khi hướng dẫn cho học sinh cách giải và trình bày bài giải, giáo viên phải hướng dẫn gợi mở từng bước cụ thể, giúp học sinh thể hiện khả năng giải toán của mình là cần thiết. Vì vậy cần phải hướng dẫn học sinh đọc, tìm hiểu kĩ đề bài toán, Tóm tắt đề bài toán, nhìn vào tóm tắt đọc lại đề bài toán. Đặt những câu hỏi gợi mở dẫn dắt học sinh từng bước tìm cách giải và chọn cách giải hợp lý nhất, ngắn gọn nhất, lời giải rõ ràng chính xác, đúng nội dung bài toán yêu cầu tìm gì. Đồng thời chú ý hướng dẫn các em khi thực hiện tìm kết quả của phép tính cần làm ra nháp cẩn thận, kiểm tra kết quả rồi mới viết vào bài làm. Từ đó tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy. Biện pháp 4: Tổ chức cho giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tích cực. 1. Linh hoạt sử dụng phương pháp dạy học khi tổ chức các hoạt động học tập. Để thực hiện việc lấp "lỗ hổng" kiến thức cho học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn toán có hiệu quả và dạy kiến thức mới tôi đã tổ chức cho giáo viên tìm ra những phương pháp giảng dạy thích hợp, tập trung các yêu cầu quan trọng nhất, đó là giúp các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia với mức độ yêu cầu vừa sức để các em nâng dần trình độ; không nôn nóng sốt ruột, khắc phục tình trạng ngại khó của học sinh. Để giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực một cách linh hoạt có hiệu quả trong việc phụ đạo học sinh, Nhà trường đã tổ chức từ đầu năm học chuyên đề “Biện pháp khắc phục tình trạng chưa đạt chuẩn kiến thức thức kỹ năng môn Toán”. Qua đó nhằm phát huy trí tuệ tập thể để giúp giáo viên tìm ra cách dạy đạt hiệu quả cao trong công tác phụ đạo học sinh yếu. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn tiếp theo liên tục đề cập đến chuyên đề này để bổ sung và điều chỉnh biện pháp thực hiện. Qua đó, tôi đã khái quát giúp giáo viên một số điều cần lưu ý khi thực hiện phụ đạo học sinh yếu như sau: - Trong các tiết học giáo viên phải tạo cơ hội cho tất cả các em được hoạt động cho dù là đối tượng học sinh giỏi hay học sinh yếu. Bằng mọi cách phải lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập, tránh tình trạng giáo viên để học sinh ngoài lề. Trong một tiết học, đến phần bài tập giáo viên phân bài cho từng đối tượng học sinh: Ví dụ: Bài tập 1,2 cho nhóm yếu hơn làm; Bài tập 1,2,3,4 cho nhóm học sinh hoàn thành tốt. - Cần thực hiện linh hoạt khi tổ chức các hoạt động học tập. Như trong quá trình dạy bài mới, nếu có học sinh không nắm được kiến thức mới do hổng kiến thức lớp dưới hoặc kiến thức bài học trước thì thực hiện như sau: Trong phần bài mới vẫn cho học sinh theo dõi bình thường, đến phần bài tập, hay là tiết luyện tập, giáo viên cho những học sinh tiếp thu chậm làm các bài mà kiến thức liên quan đến lớp dưới, cho học sinh nhắc lại kiến thức cũ rồi hướng dẫn phần kiến thức mới của bài học. 13 Ví dụ: Khi học sinh làm bài tập 135 : 6 = ? với bài này học sinh làm không được chứng tỏ học sinh không thuộc bảng nhân 6. Vậy giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại bảng nhân 6 cho thuộc. Tức là phát hiện học sinh hổng kiến thức ở đâu thì giáo vên phải linh hoạt điều chỉnh nội dung dạy để ôn tập, bổ sung ở đó. - Trong các buổi dạy phụ đạo, nội dung chủ yếu là kiểm tra việc lĩnh hội các kiến thức giảng dạy trên lớp hoặc ôn tập, củng cố kiến thức để các em nắm chắc hơn. Tôi hướng dẫn giáo viên, trong mỗi tiết dạy, xác định rõ mục tiêu của từng bài, từng hoạt động của học sinh dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. - Khi hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, Giáo viên cần giao việc phù hợp với từng đối tượng học sinh. Cụ thể là: Bài tập dành cho học sinh cả lớp; Bài tập cho học sinh hoàn thành tốt môn học; Riêng đối với học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán giáo viên không nên giao nhiều bài tập. Em nào yếu quá giáo viên phải ghi bài tập vào phiếu và kèm theo một vài câu hỏi để học sinh có thể tự kiểm tra hay chỉ rõ ý chính cần đi sâu, nhớ kỹ để hiểu rõ “cái đã cho, cái phải đi tìm”. Bài tập về nhà do các em làm, yêu cầu phụ huynh kí vào phía dưới để có sự giám sát, đốc thúc kịp thời của gia đình. Đến lớp, giáo viên kiểm tra cụ thể các sai lầm mắc phải của học sinh để phân tích và sửa chữa. 2. Gây hứng thú học tập cho học sinh. Bởi vì học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng vốn ngại học, ngại bày tỏ ý kiến nên để cuốn hút các em tích cực tham gia các hoạt động học tập thì giáo viên phải có những hình thức tổ chức các hoạt động học tập gây được hứng thú cho tất cả học sinh tham gia, kể cả học sinh yếu, tiếp thu chậm. Để gây hứng thú cho các em học tập, trong dạy học toán giáo viên có thể thực hiện như sau: Trong các tiết học vận dung các hình thức dạy tích cực như: Tổ chức hoạt động nhóm (hoặc tổ chức làm bài theo hình thức tiếp sức) có thi đua giữa các nhóm, tất cả các thành viên trong nhóm đều được giao phần việc làm vừa sức phù hợp với năng lực từng em, các nhóm học tập linh hoạt thay đổi như nhóm nhỏ, nhóm lớn, nhóm cùng trình độ, nhóm ngẫu nhiên... Giáo viên phải tạo cơ hội cho tất cả các em được phát biểu, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu. Động viên khuyến khích kịp thời khi học sinh có tiến bộ dù là nhỏ nhất để học sinh yếu mạnh dạn, tự tin hơn. Thường xuyên tổ chức "Hội vui học tập" vào các tiết hoạt động tập thể. Hoặc tổ chức trò chơi có lồng nội dung Toán học: Hái hoa dân chủ, Tuổi thơ khám phá… 3. Tổ chức phong trào đôi bạn cùng tiến, xây dựng môi trường học tập thân thiện Ở lớp cũng như ở nhà, giáo viên tổ chức cho học sinh học tốt hơn thường xuyên giúp đỡ các bạn chậm tiến. Trên lớp, cần sắp xếp 1 học sinh tiếp thu tốt giúp đỡ 1 bạn học sinh non yếu bên cạnh. Tổ chức thi đua giữa các nhóm giúp bạn, nếu bạn nào có tiến bộ thì biểu dương cả nhóm vào tiết chào cờ sáng thứ 2 đầu tuần. Ở nhà, giáo viên sắp xếp các em gần nhà nhau thành 1 nhóm và cử 1 học sinh làm nhóm trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ nhắc nhở, kiểm tra việc học bài, làm bài của các bạn và báo cáo với cô giáo chủ nhiệm vào đầu mỗi buổi 14 học. Không những thế, tôi còn hướng dẫn giáo viên yêu cầu các em Nhóm trưởng kiểm tra kỹ về cách học, cách trình bày bài làm, chữ viết, của các bạn. Giáo viên kiên trì uốn nắn và sửa những thói quen xấu của các em như: chưa đọc kĩ đề bài trước khi làm bài tập, tính toán cẩu thả, không làm nháp hoặc viết lộn xộn, phát biểu không chính xác, trình bày bài tuỳ tiện, giải toán xong không chịu thử lại… Khuyến khích, động viên đúng lúc, kịp thời khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả (dù sự tiến bộ nhỏ nhất); phân tích, phê bình đúng mức thái độ vô trách nhiệm hoặc lơ là đối với nhiệm vụ học tập, nhưng tuyệt đối tránh thái độ lời nói chạm lòng tự ái của học sinh để các em phấn khởi học tập xóa đi ấn tượng sợ học môn Toán. Qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể, chi tiếtcho giáo viên vận dụng các biện pháp, linh hoạt sử dụng các phương pháp dạy học tích cực như trên. Qua kết quả kiểm tra trên lớp, qua các bài kiểm tra… Tôi thấy các em học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán đã tiến bộ rất nhiều. Đến tuần thứ 6, các em hổng kiến thức lớp dưới đã nắm được bảng nhân, bảng chia đã học ở lớp 2, 3; các em học yếu do hoàn cảnh gia đình khó khăn có tiến bộ rõ rệt, đã cố gắng vươn lên trong học tập. Đặc biệt tất cả các em đã tích cực, hứng thú học Toán và tiếp thu bài mới lớp 4 đạt yêu cầu trở lên. 4. Quan tâm động viên kịp thời học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Với những đặc điểm của học sinh chưa hoàn thành các môn học nói chung và môn toán nói riêng, tôi đã khẳng định rằng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán cần được quan tâm, hỗ trợ dạy học một cách tích cực. Còn với học sinh học chưa đạt nguyên nhân do điều kiện hoàn cảnh gia đình tôi chỉ đạo giáo viên phải có sự quan tâm đặc biệt. Ngoài việc tích cực hỗ trợ cho các em lấp lỗ hổng kiến thức đồng thời phải có sự quan tâm đặc biệt về tình cảm và vật chất. Vì vậy tôi chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm thường xuyên đến thăm một số gia đình học sinh học non yếu, tiếp thu chậm trong khối 4 như gia đình em Cao Văn Nam, Bùi Văn Tùng lớp 4B, gia đình em Bùi Văn Nam, Lê Văn Diện lớp 4C, ... và một số gia đình học sinh khó khăn khác. Cảm thông được nỗi vất vả của các em, tôi đề nghị Ban giám hiệu nhà trường hỗ trợ cho các em quần áo, sách vở, kết hợp cùng với Đội Thiếu niên nhà trường, tôi đã cùng các cô giáo chủ nhiệm trao quà cho các em trong dịp Tết Nguyên đán. Nhận được sự quan tâm, động viên kịp thời của nhà trường cũng như cô giáo chủ nhiệm, gia đình các em đã hiểu và tạo điều kiện cho các em đi học đầy đủ. Tôi còn hướng dẫn giáo viên chủ nhiệm, khi ở trường, trong giờ học, giờ ra chơi, thường xuyên gần gũi, tâm sự với em, kể cho em nghe một số tấm gương biết vượt khó trong học tập, giúp em khỏi mặc cảm với số phận và cố gắng vươn lên trong học tập. Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh. Tôi chỉ đạo giáo viên phải tuyên truyền, nâng cao nhận thức của phụ huynh về trách nhiệm của phụ huynh và gia đình trong việc góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Tôi yêu cầu giáo viên phải trao đổi với phụ huynh để tìm ra 15 biện pháp tốt nhất phù hợp với điều kiện và tính cách từng em giúp các em vươn lên trong học tập. Giáo viên phải hướng dẫn phụ huynh biết kiểm tra việc học tập của con mình. Phải thường xuyên giữ liên lạc với phụ huynh. Thường xuyên liên lạc thông báo kết quả học tập của các em qua sổ liên lạc cho phụ huynh và đề nghị phụ huynh theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình, giúp đỡ các em trong quá trình học tập, quản lý thời gian biểu của con em, ghi đầy đủ lời nhận xét vào sổ (đảm bảo thông tin 2 chiều). Tổ chức cho giáo viên gặp mặt phụ huynh học sinh thường xuyên. Khi thấy học sinh chưa tiến bộ cần chủ động gặp phụ huynh để trao đổi về việc học tập của học sinh tiếp tục cùng với phụ huynh điều chỉnh biện pháp phù hợp và có hiệu quả hơn. Thấy được sự lo lắng của giáo viên nên phụ huynh đã thường xuyên kiểm tra việc học bài, làm bài của con em mình, đôn đốc các em đi học chuyên cần. Vì vậy, Học sinh lớp 4 của nhà trường đã tiến bộ lên rất nhiều. Biện pháp 6: Nâng cao chất lượng giảng dạy giáo viên khối 4 về môn Toán: thông qua sinh hoạt chuyên môn, dự giờ lên lớp, bồi dưỡng qua các chuyên đề. Sinh hoạt chuyên môn ở trường Tiểu học là một hoạt động nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho giáo viên. Sinh hoạt chuyên môn góp phần tháo gỡ những khó khăn trong quá trình giảng dạy và thực hiện nhiệm vụ năm học. Sinh hoạt chuyên môn còn góp phần bồi dưỡng giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiểu học. Với tầm quan trọng của việc sinh hoạt chuyên môn như vậy, ở trường chúng tôi đã xây dựng nội dung sinh hoạt chuyên môn chủ yếu xoay quanh việc “Làm thế nào để nâng cao hiệu quả giờ dạy, nâng cao chất lượng học tập của học sinh”. Vì vậy, trong sinh hoạt chuyên môn của nhà trường, tôi chỉ đạo các tổ chuyên môn không thiên về việc chỉ lên kế hoạch hoạt động chuyên môn mà chú trọng việc đưa các vấn đề vướng mắc trong chuyên môn và thực tế dạy học để thảo luận cùng nhau tháo gỡ những vướng mắc để thực hiện nhiệm vụ dạy học và giáo dục học sinh đạt hiệu quả hơn. Thực hiện công tác chuyên môn, tôi quyết tâm thực hiện chuyên đề “Khắc phục tình trạng học sinh không đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn học”. Đây là một nội dung chủ yếu và xuyên suốt quá trình sinh hoạt chuyên môn của trường trong năm học. Bởi vì để thực hiện tốt mục tiêu “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục ...” thì việc “khắc phục tình trạng học sinhhọc không đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn học” là một nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường và của mỗi giáo viên. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã dành nhiều thời gian cho nội dung tìm biện pháp khắc phục tình trạng này. Cụ thể: Sau khi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng giáo viên về việc giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán, trong buổi sinh hoạt chuyên môn yêu cầu giáo viên báo cáo với tổ chuyên môn và với nhà trường về tình hình học sinh không đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn toán và các môn học khác. Tổ chức thảo 16 luận chuyên đề “khắc phục tình trạng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán lớp 4”. Tổ chức cho tập thể giáo viên phân tích nguyên nhân, bàn kế hoạch khắc, xây dựng nội dung phụ đạo, giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng phù hợp với từng khối lớp. Giao nhiệm vụ cho tổ trưởng, khối trưởng theo dõi việc phụ đạo học sinh yếu của tổ mình, khối mình. Cứ hai tuần một lần, trong buổi sinh chuyên môn, giáo viên báo cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh non yếu, từ đó thảo luận để tập thể giáo viên cùng nhau tháo gỡ những vướng mắc trong thực tế phụ đạo học sinh. Để mở rộng sáng kiến, tôi đã trình bày vấn đề này trong buổi sinh hoạt chuyên môn của nhà trường, Tôi đã tiếp nhận được nhiều ý kiến đóng góp thật bổ ích giúp tôi bổ sung cho “ Biện pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán ở lớp 4” hoàn chỉnh hơn. Tôi đã chỉ đạo cho tất cả giáo viên trong trường vận dụng các biện pháp nêu trên ở tất cả các khối lớp để tiếp tục khắc phục và ngăn ngừa tình trạng học sinh yếu, kém về môn Toán trong toàn trường phù hợp với đốitượng học sinh và điều kiện thực tế của lớp của nhà trường. Ngoài ra Ban giám hiệu thường xuyên dự giờ thăm lớp. Tăng cường bồi dưỡng giáo viên giải các dạng toán qua các chuyên đề trong năm học. Sau khi vận dụng vào thực tế dạy học “Các giải pháp giúp đỡ khắc phục tình trạng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán” của toàn trường nói chung và đặc biệt ở khối 4 nói riêng, tôi thấy kết quả đạt được đáng mừng, các em học sinh học non yếu có nhiều chuyển biến rõ rệt. Tỉ lệ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán giảm hẳn, tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt môn học tăng cao. Biện pháp 7: Làm tốt công tác thi đua khen thưởng Trong những năm học qua trường TH Xuân Phú luôn quan tâm và làm tốt công tác thi đua khen thưởng. Chất lượng lớp do GV chủ nhiệm và giảng dạy được gắn với danh hiệu giáo viên. Cuối năm học lớp không có học sinh chưa đạt chuẩn KT và kỹ năng về các môn học kết hợp với tham gia tốt các hoạt động khác của nhà trường sẽ được tuyên dương khen thưởng. Tương ứng là GV sẽ đạt lao động tiên tiến.Chính vì vậy chất lượng giáo dục nói chung và môn Toán nói riêng đã được giáo viên đặc biệt quan tâm. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến Khi áp dụng các giải pháp trên, tôi thấy các em học sinh ở lớp 4 đã tiến bộ rõ rệt, chất lượng học tập ngày càng được nâng lên. * Kết quả kiểm tra định kì cuối học kì I về môn Toán ở khối lớp 4: Năm học 2016-2017 Tổng số HS 110 Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm dưới 5 SL TL % SL TL % SL TL % SL TL% 20 18,2 40 36,4 46 41,4 4 4,0 17 2017-2018 103 20 19,4 37 35,9 43 41,9 3 2,8 * Kết quả kiểm tra định kì cuối học kì II về môn Toán ở khối lớp 4: Năm học Tổng số HS Điểm 5-6 Điểm dưới 5 Điểm 9-10 Điểm 7-8 SL TL% SL TL % SL TL % SL TL % 2016 - 2017 110 23 20,9 45 40,9 42 38,2 0 0 2017 - 2018 103 24 23,3 47 45,7 32 31,0 0 0 Nhờ thực hiện tốt các giải pháp phụ đạo, giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức về kỹ năng về môn toán mà chất lượng học tập môn toán được nâng lên rõ rệt.Tất cả học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn toán ở đầu năm học của học sinh khối 4 đã đạt.Số lượng học sinh yêu thích môn toán ngày càng tăng. Đồng thời, khi vận dụng các giải pháp trên cho toàn trường thực hiện, đến hết học kì I chất lượng nâng bậc học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn toán của trường chúng tôi đã chuyển biến rõ rệt.Toàn trườngcuối năm học không còn học sinh nào chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn toán. 3. KẾT LUẬN 3.1. Kết luận Qua việc nghiên cứu đề tài này,bằng những biện pháp trên tôi nhận thấy hiệu quả khá cao.Trong thời gian nghiên cứu tôi thấy có nhiều điều thật lí thú, có lẽ nó không mới với chương trình toán tiểu học nhưng nó thực sự có hiệu quả và đó là việc mà người giáo viên nên làm. Từ đó tôi rút ra một số kinh nghiệm sau: Muốn khắc phục và giảm thiểu số học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán để nâng cao chất lượng giáo dục và chất lượng dạy - học ngày một đi lên và có những biện pháp dạy và học đáp ứng được với sự phát triển của đất nước, thì đòi hỏi sự vào cuộc thật sự của các nhà quản lí giáo dục, giáo viên, học sinh và tất cả các lực lượng xã hội có liên quan đặc biệt là vai trò của người giáo viên. Đó là: 1. Người giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, tận tâm, tận lực để giáo dục và phụ đạo các em với tất cả tâm huyết của mình. 2. Giáo viên phải quan tâm đến học sinh thông qua các hoạt động học tập cũng như việc làm bài tập hàng ngày của học sinh và làm các bài kiểm tra định kì. 3.Tìm ra nguyên nhân cùng với những biểu hiện của học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng về môn Toán. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan