Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng môn toá...

Tài liệu Một số biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng môn toán ở tiểu học

.PDF
20
16
119

Mô tả:

I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Đất nước ta đã và đang bước vào thời kỳ đổi mới. Chất lượng giáo dục là vấn đề sống còn của một đất nước, một dân tộc. Do vậy, phương pháp dạy học cần được đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại. Mục tiêu giáo dục tiểu học cũng đã nhấn mạnh đến yêu cầu của giáo dục tiểu học là góp phần đào tạo những người lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo, chủ động, thích ứng. Yêu cầu này đòi hỏi phải đổi mới toàn diện và đồng bộ giáo dục, trong đó cần ưu tiên đổi mới phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học (PPDH) đóng vài trò quan trọng và quyết định với hiệu quả của việc dạy học ở Tiểu học. Dạy học có phương pháp và đúng phương pháp sẽ không chỉ truyền đạt được kiến thức cho học sinh một cách đầy đủ mà thêm vào đó, khơi gợi được hứng thú, tinh thần tự giác và chủ động cho học sinh. Trái lại, việc dạy học sai phương pháp sẽ làm cho việc học trở thành việc nhồi nhét kiến thức, khiến cho học sinh ngày một thụ động, đối phó, thậm chí ảnh hưởng đến cả lối tư duy và đạo đức của các em. Đặc biệt ở bậc học Tiểu học vấn đề này được các nhà giáo dục và xã hội đặc biệt quan tâm, đòi hỏi công tác chỉ đạo các nhà quản lý và giáo viên trường Tiểu học phải có biện pháp quản lý, giảng dạy phù hợp, không ngừng đổi mới PPDH nhằm hướng cho học sinh vào hoạt động học tập một cách tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo.Vì thế, PPDH phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ đó là: “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.” Trong các môn học ở bậc Tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng bởi vì: Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học, học môn Toán góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí, cách phát hiện và cách giải quyết những vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Là một cán bộ quản lý chỉ đạo chuyên môn trong nhà trường, tôi rất băn khoăn, lo lắng đến chất lượng giáo dục của nhà trường, đứng trước mục tiêu giáo dục và yêu cầu của việc dạy học hiện nay việc thực hiện đổi mới PPDH dạy học môn Toán của giáo viên là rất cần thiết. Vậy làm thế nào để công tác chỉ đạo đổi mới PPDH môn Toán ở tiểu học được tốt. Tôi xin mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng môn Toán ở Tiểu học.” 2. Mục đích nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm nhằm đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của tất cả các đối tượng học sinh trong việc tự chiếm lĩnh kiến thức môn Toán. 1 3. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các phương pháp dạy học môn Toán bậc Tiểu học nhằm đưa ra các biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp nâng cao chất lượng môn Toán bậc Tiểu học cho học sinh trường Tiểu học Ngư Lộc II - Hậu Lộc - Thanh Hóa trong năm học 2017 – 2018. 4. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng kết hợp các phương pháp: - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết - Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê - Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp phân tích tổng hợp 2 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Cơ sở lý luận Đổi mới phương pháp dạy học là một trọng tâm của đổi mới giáo dục, đổi mới PPDH được hiểu là đưa những phương pháp mới vào giảng dạy trên cơ sở phát huy những mặt tích cực của các phương pháp truyền thống nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy. Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học Toán nói riêng, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động của học sinh, mọi học sinh đều hoạt động học tập để phát triển năng lực cá nhân, giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm bản thân để học sinh chiếm lĩnh tri thức và vận dụng các tri thức đó trong thực hành. Tạo cho học sinh làm việc tự giác, chủ động, không dập khuôn máy móc biết tự đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn. Đặc biệt là giúp học sinh có niềm tin, niềm vui trong học tập. Đồng thời tạo điều kiện cho học sinh phát huy năng lực sở trường của mình, biết ứng dụng kiến thức mới trong bài học vào thực tế đời sống xã hội. Đổi mới phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học không loại bỏ phương pháp dạy học truyền thống mà phải vận dụng một cách hợp lí mặt tích cực của phương pháp dạy học cũ để tổ chức cho học sinh hoạt động học tập theo kiểu mới, tạo điều kiện cho từng học sinh được tham gia giải quyết vấn đề từ đó mà thu nhận tri thức mới và rèn luyện kĩ năng mới. Đặc biệt, đối với học sinh Tiểu học tư duy của các em ở lớp 1,2,3 chủ yếu là trực quan sinh động, lên lớp 4,5 được nâng dần lên tư duy trừu tượng, chính vì thế bước đầu có khả năng thực hiện việc phân tích tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá và những hình thức đơn giản của sự suy luận, phán đoán, các khái niệm Toán học được hình thành qua trừu tượng hoá và khái quát hoá nhưng không thể chỉ dựa vào tri giác bởi khái niệm toán học còn là kết quả của các thao tác tư duy đặc thù, chính vì thế cần phát huy các hoạt động học tập tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh giúp các em tự khám phá kiến thức mới trong quá trình học Toán. 2.Thực trạng của việc đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở trường Tiểu học Ngư Lộc II – Hậu Lộc – Thanh Hóa 2.1.Tài liệu, đồ dùng và công tác tự học, tự bồi dưỡng: Trong những năm qua, nhà trường đã đầu tư mua các loại sách giáo khoa, sách tham khảo của môn Toán dành cho giáo viên và học sinh, các tổ chuyên môn cũng đã thiết kế, tự làm đồ dùng thiết thực đơn giản để phục vụ cho các tiết dạy giúp cho học sinh hiểu bài một cách dễ dàng. Tuy nhiên tài liệu cho giáo viên nghiên cứu về việc đổi mới PPDH của môn Toán còn ít, chưa phát động được phong trào tự làm đồ dùng học tập đơn giản cho học sinh nên chưa phát huy được tính sáng tạo của học sinh. Năng lực của một số giáo viên là nòng cốt chuyên môn của nhà trường vững vàng kiến thức, luôn vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy để có những tiết dạy nhẹ nhàng và có hiệu quả cao, Tuy vậy còn một số giáo viên khả năng tự 3 học, tự bồi dưỡng còn có những hạn chế nhất định nên chưa đáp ứng được việc đổi mới phương pháp dạy học môn Toán. 2.2. Thực trạng của việc đổi mới PPDH dạy học môn Toán: Xuất phát từ mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học môn Toán nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy, tôi đã trực tiếp dự giờ một số tiết Toán từ khối 1 đến khối 5 ( Cả tiết hình thành bài mới và các tiết luyện tập), tôi nhận thấy: - Giáo viên dạy đúng qui trình của một tiết dạy ở hai dạng bài ( Dạng bài hình thành bài mới và luyện tập) - Giáo viên truyền đạt đầy đủ nội dung kiến thức trong sách giáo khoa, thực hiện đúng theo chuẩn kiến thức kỹ năng. Bên cạnh đó, vẫn còn bộc lộ hạn chế như sau: Giáo viên còn dạy học theo kiểu truyền thống như sử dụng phương pháp thuyết trình để truyền thụ cho học sinh một khối lượng lớn các nội dung toán học, chưa chủ động được về thời gian. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động vì giáo viên chỉ dùng lời nói đơn điệu, giáo viên nói nhiều nên không có điều kiện kiểm tra khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh dẫn tới việc đánh giá thường xuyên trong tiết dạy chưa chủ động và chưa phù hợp. Hoặc giáo viên giảng giải minh hoạ, tức là giáo viên dùng lời nói để giải thích nội dung Toán kết hợp với việc dùng các tài liệu trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích này. PPDH này kết hợp được giữa cái cụ thể và cái trừu tượng nên cũng gây hứng thú học tập cho học sinh trong việc giúp học sinh hiểu, nhớ kiến thức nhưng vẫn chỉ nhằm thông báo kiến thức có sẵn cho học sinh. Vì vậy, HS vẫn bị đặt trong tình trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực tư duy của các em. Sự chủ động, tích cực của phần lớn học sinh trong các bài học chưa cao, kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề trong học tập còn thấp, kĩ năng thực hành còn hạn chế vì giáo viên chưa biết gợi mở đưa ra các tình huống có vấn đề cho học sinh suy nghĩ. Năm học 2017 - 2018, vào thời điểm tháng 9 và tháng 10 năm 2017, tôi đã tiến hành dự giờ các tiết học Toán và điều tra việc vận dụng đổi mới PPDH kết quả cụ thể như sau Sử dụng phương Tổng số pháp dạy học linh hoạt, phù hợp. 32 tiết 14 tiết Sử dụng hiệu quả các phương tiện, đồ dùng cần thiết cho tiết dạy. 16 tiết Học sinh tự tin, biết hợp tác đều được hoạt động học tập tích cực đúng khả năng 15 tiết Phát triển tư duy, sáng tạo của học sinh 17 tiết Qua việc đánh giá và nhận xét giờ dạy của giáo viên việc sử dụng linh hoạt các PPDH và phát huy tính tích cực và phát triển tư duy của học sinh còn 4 có những mặt hạn chế nhất định, có những tiết dạy đảm bảo được yếu tố này nhưng không đảm bảo yếu tố kia. Từ thực trạng trên để hoạt động dạy học trong nhà trường đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở Tiểu học. 3. Các giải pháp đã sử dụng để chỉ đạo đổi mới phương pháp giảng dạy nâng cao chất lượng môn Toán bậc Tiểu học: 3.1.Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý và giáo viên Tiếp thu và triển khai đầy đủ và kịp thời các văn bản, chỉ thị của ngành giáo dục về việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả, giúp cho cán bộ quản lý và giáo viên và các lực lượng tham gia giáo dục phải có quan điểm đúng đắn về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học nói chung và đổi mới PPDH môn Toán nói riêng. Xây dựng các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức của việc đổi mới PPDH góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục, tránh tư tưởng ngại khó hoặc đổ lỗi cho các điều kiện khách quan. Tăng cường chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học thông qua công tác bồi dưỡng và dự giờ thăm lớp của giáo viên, tổ chức có hiệu quả các đợt sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề cấp tổ và cấp trường. Tiếp tục phát động giáo viên tự làm đồ dùng dạy học. Trang bị những kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và khả năng tự học của học sinh. 3.2. Chỉ đạo tổ chức dạy học, đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm nâng cao khả năng tư duy học sinh: 3.2.1. Dạy học phát huy tính tích cực, chủ động và phát triển tư duy sáng tạo của học sinh: Ở cùng một lứa tuổi, học sinh có đặc điểm chung về tâm lý và học chung cùng lớp. Nội dung kiến thức cơ bản trong từng bài học ở chương trình mới môn Toán đáp ứng nhu cầu tiếp thu của tất cả học sinh. Mỗi tiết dạy, giáo viên phải thiết kế một qui trình dạy học cho học sinh cả lớp, đáp ứng yêu cầu “Đồng loạt”, phù hợp với quĩ thời gian qui định cho một tiết dạy. Bên cạnh đó cần nhận rõ rằng mỗi trẻ em có sự khác biệt với trẻ em cùng lứa tuổi về nhu cầu và năng lực cá nhân. Vì vậy, ở mỗi bài dạy cụ thể, giáo viên phải biết tạo cơ hội để học sinh bộc lộ tốt nhất những năng lực sở trường của “ Cá nhân ” được thể hịên ở cách học và dung lượng kiến thức đến với học sinh thông qua hệ thống câu hỏi, bài luyện tập thực hành , sử dụng đồ dùng dạy học ... Ví dụ: Bài 2: ( trang 172- Toán 1 ) Viết số thích hợp vào ô trống +3 -5 9 6 +2 8 +2 +3 4 5 Với bài tập này học sinh chỉ cần điền số thích hợp vào ô trống là đúng và đủ, đạt yêu cầu so với chuẩn kiến thức và kĩ năng. Nhưng để tạo cơ hội cho học sinh phát triển tư duy ngôn ngữ toán học, giáo viên cần yêu cầu học sinh nhìn vào sơ đồ đặt bài toán tương ứng với sơ đồ đã cho. Ví dụ: +2 Nhà Lan nuôi 8 con gà, bố mua thêm 2 con gà nữa. 8 Hỏi nhà Lan có tất cả bao nhiêu con gà? -5 9 An có 9 cái kẹo, An cho bạn 5 cái . Hỏi An còn lại bao bao nhiêu cái kẹo? Học các bảng nhân ( Toán 3) bài tập cuối cùng của mỗi bài học đều có dạng bài đếm thêm…. rồi viết số thích hợp Ví dụ: Đếm thêm 7 rồi viết số thích hợp vào ô trống: ( Bài 3 - Trang 31 – Trong bài : Bảng nhân 7) 7 14 21 42 63 Học sinh đếm rồi lần lượt điền vào 5 ô trống theo thứ tự từ trái sang phải là: 28; 35; 49; 56; 70. Giáo viên tổ chức cho học sinh phát hiện: các số trong dãy số này chính là tích của 7 với các số tự nhiên liên tiếp từ 1 đến 10 mà trong bảng nhân các em đã được học và dùng kết quả của bài tập này để củng cố bài, kiểm tra việc ghi nhớ bảng nhân sau tiết học như: ( 28 là tích của 7 và bao nhiêu ? 56 là tích của 7 và bao nhiêu ? ....) Trong chương trình Toán 3 học sinh được học phép chia hết và phép chia còn dư, khi dạy phần nội dung này bắt buộc giáo viên phải tổ chức hướng dẫn để tất cả học sinh nắm được kỹ thuật chia bên cạnh đó học sinh phải hiểu được trong phép chia còn dư, số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia ( Nếu số dư lớn hơn hoặc bằng số chia thì bước chia liền trước chưa thực hiện xong cần phải thực hiện lại ) Bài 1: ( trang 30- Toán 3) Tính 17 2 35 4 42 5 58 6 Bài 4: ( trang 30- Toán 3) Trong các phép chia có dư với số chia là 3, số dư lớn nhất của các phép chia đó là A. 3 B. 2 C. 1 D. 0 * Sau khi học sinh tìm được kết quả phép chia còn dư (bài tập 1) và số dư lớn nhất (bài 4), giáo viên khai thác thêm: Phải thêm vào số bị chia mấy đơn vị để phép chia thành phép chia hết? Lúc này thương thay đổi như thế nào? Bài 3: (trang 156- Toán 3) Nêu bài toán rồi giải bài toán theo tóm tắt sau: 17kg Con : ? kg Mẹ : Với bài này ngoài yêu cầu của bài tập giáo viên nên tạo cơ hội để học sinh phát triển tư duy bằng cách tìm nhiều cách giải cho bài toán. 6 Cách 1: Mẹ cân nặng số ki - lô- gam là: 17  3 = 51 (kg) Cả hai mẹ con cân nặng số ki - lô- gam là: 51 + 17 = 68 (kg) Đáp số : 68 kg Cách 2: Từ sơ đồ ta nhận thấy số ki - lô- gam cân nặng của mẹ gấp 3 lần số ki - lôgam cân nặng của con. Do vậy số ki - lô- gam cân nặng của 2 mẹ con có số phần bằng nhau là: 3 + 1 = 4 (phần) Cả hai mẹ con cân nặng số ki - lô- gam là: 17 x 4 = 68 (kg) Đáp số : 68 kg Dạy bài: Chia một tích cho một số (Toán 4- trang 79). Học sinh tiến hành làm bài thông qua 2 ví dụ a và b và rút ra được quy tắc. Và giáo viên nên đưa ra câu hỏi: “Khi chia một tích 2 thừa số cho 1 số; 2 thừa số của tích phải như thế nào thì làm được 3 cách? làm được 2 cách ? làm được 1 cách ?”. - Khi cả 2 thừa số của tích đều chia hết cho số đó (3 cách). - Khi 1 trong 2 thừa số của tích chia hết số đó (2 cách ). - Khi không có thừa số nào của tích chia hết cho số đó (1 cách ). Nói đến so sánh 2 phân số, các em học sinh thường nghĩ ngay đến các cách: - Qui đồng mẫu số hoặc tử số. - So sánh phần hơn hoặc phần bù của phân số so với đơn vị. - So sánh với phân số trung gian hoặc đơn vị. * GV có thể gợi ý cho học sinh: Chúng ta có thể dùng “Sơ đồ đoạn thẳng” để so sánh phân số được không? 3 2 * Ví dụ: So sánh 2 phân số sau vµ 4 3 Ta có sơ đồ: 3 4 3 2  4 3 * Giáo viên cũng có thể gợi ý cho học sinh tìm thương của 2 phân số. Nếu thương lớn hơn 1 thì số bị chia lớn hơn số chia, nếu thương nhỏ hơn 1 thì số bị chia nhỏ hơn số chia. 2 3 Ví dụ: a- So sánh 2 phân số: - Từ sơ đồ ta thấy 13 25 và Ta thực hiện phép chia như sau: So sánh thương với 1: 7 10 26 35 13 25 : 26 35 = 7 10 <1 7 Thương nhỏ hơn 1 nên 13 25 b- So sánh 2 phân số: 6 5 và 9 8 < 26 35 Ta thực hiện phép chia như sau: 6 5 16 : = 9 8 15 16 >1 15 6 5 Thương lớn hơn 1 nên > 9 8 So sánh thương với 1: Muốn so sánh 2 phân số khác mẫu số ta thực hiên phép chia 2 phân số; sau đó lấy thương của phép chia so sánh với 1, nếu thương nhỏ hơn 1 thì số bị chia nhỏ hơn số chia, còn nếu thương lớn hơn 1 thì số bị chia lớn hơn số chia. 3.2.2. Dạy học tự phát hiện - Dạy học hợp tác nhóm Đổi mới PPDH thì cần phải tập trung vào hoạt động của học sinh. Phải tạo điều kiện và cơ hội để học sinh tự tìm tòi khám phá, phát hiện những nội dung mới của bài học. Học sinh thông qua cách học tự phát hiện để từng nhóm tạo thói quen làm việc có phương pháp. Tuỳ theo trình độ của học sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh biết cách phát hiện và giải quyết vấn đề theo các mức độ: Nhận biết hiểu rõ áp dụng vào thực tiễn phân tích tống hợp nhận định đánh giá. Trong từng hoạt động học tập mỗi học sinh phải thật sự làm việc đề dần dần hình thành kỹ năng tự phát hiện. Dạy học tự phát hiện sẽ hình thành cách học, cách làm việc trí óc hợp lí, khoa học cho học sinh. Giáo viên phải biết nâng cao năng lực chuyên môn và phương pháp tư duy độc lập sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu tự phát hiện của học sinh. Dạy học hợp tác nhóm là hình thức tổ chức dạy học có ý nghĩa và tác dụng tích cực. Tất cả học sinh đều được làm việc và thực hành luyện tập, biết giúp đỡ lẫn nhau, giải quyết được những vấn đề khó và tìm ra cái mới trong bài học, tạo thái độ học tập tích cực, đặc biệt bước đầu giúp các em làm quen với phong cách làm việc hợp tác. Khi tổ chức làm việc nhóm, giáo viên phải nêu rõ nhiệm vụ, chuẩn bị phương tiện đồ dùng đầy đủ như phiếu bài tập, mô hình, ..... Xác định rõ nội dung nào, hoạt động nào của bài học cần làm việc theo nhóm. Không tổ chức theo nhóm một cách máy móc, hình thức khi nội dung bài học không phù hợp với điều kiện lớp học không phù hợp. Ví dụ : Khi dạy bài : 8 cộng với một số 8 + 5 (Toán lớp 2 trang 19 - SGK) a- Dạy kiến thức mới Bước 1: Giáo viên nêu bài toán Bước 2: Xuất hiện phép tính 8 + 5 Bước 3: Tìm kết quả của phép tính : 8 + 5 = ? Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm để tìm kết quả của phép tính thông qua thao tác trên que tính, các nhóm sẽ tìm ra kết quả bằng các cách khác nhau. Học sinh đưa ra: 8 Cách 1: Tách 5 que tính thành 2 phần: 2 que tính và 3 que tính. Lấy 8 que tính gộp với 2 que tính là 10 que tính, 10 que tính thêm 3 que tính là 13 que tính. Cách 2: Đếm tiếp 8 que tính với 1 que tính là 9 que tính; 9 que tính với 1 que tính là 10 que tính, 10 que tính thêm 1 que tính là 11 que tính, ..., 12 que tính thêm 1 que tính là 13 que tính. Cách 3: Gộp 8 que tính với 5 que tính rồi đếm lần lượt: 1que tính, 2 que tính, ..., 13 que tính. Cách 4: Tách 8 que tính thành 2 phần: 5 que tính và 3 que tính; gộp 5 que tính với 5 que tính là 10 que tính, 10 que tính với 3 que tính là 13 que tính. Dù tìm kết quả bằng cách nào thì kết quả cuối cùng vẫn là 13 que tính và học sinh điền kết quả vào phép tính: 8 + 5 = 13. Tuy nhiên để chuẩn bị “ cơ sở ” cho việc thực hiện phép cộng có nhớ ( qua 10) sau này, giáo viên nên giúp học sinh tự nhận biết ( thông qua các thao tác với que tính ) 8 +5 = 8+2+3 hoặc 8 + 5 = 10 + 3 = 13 2 3 Dạy bài : Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó ( Toán 4- trang 47) Giáo viên dùng bảng phụ xuất hiện bài toán: “Tổng của 2 số là 70. Hiệu của hai số đó là 10. Tìm hai số đó.” Cho học sinh phân tích kỹ bài toán, nêu tóm tắt, vẽ sơ đồ và tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm. Tóm tắt bài toán : Số lớn : 10 70 Số bé : Để tìm ra cách giải giáo viên gợi ý cho học sinh như sau: - Có mấy cách để 2 đoạn thẳng biểu thị số lớn và số bé bằng nhau ? - Và lúc này tổng thay đổi như thế nào? Cách 1 : Cắt đoạn thẳng biểu thị phần hơn của số lớn so với số bé, lúc này tổng giảm đi 10 đơn vị. Số lớn : 10 Số bé 70 Bài giải Hai lần số bé là : 70 – 10 = 60 Số bé là : 60 : 2 = 30 Số lớn là : 70 - 30 = 40 ( Hoặc : 30 + 10 = 40) Đáp số : Số lớn : 40 Số bé : 30 Cách 2 : Vẽ thêm đoạn thẳng biểu thị 10 đơn vị vào số bé, lúc này tổng sẽ tăng lên 10 đơn vị. Số lớn : 9 10 70 Số bé : Bài giải Hai lần số lớn là : 70 + 10 = 80 Số lớn là : 80 : 2 = 40 Số bé là : 70 - 40 = 30 (Hoặc : 40 - 10 = 30) Cắt đoạn thẳng biểu thị 10 đơn vị làm 2 phần bằng nhau và chuyển 1 nửa đoạn thẳng này xuống nối với đoạn thẳng biểu thị số bé thì được 2 đoạn bằng nhau Số lớn : 10 70 Số bé: Tổng lúc này không thay đổi và có 2 cách giải sau : Cách 3 : Nửa hiệu 2 số là : 10 : 2 = 5 Số bé là : 70 : 2 - 5 = 30 Số lớn là : 70 - 30 = 40 ( Hoặc : 30 + 10 = 40 ) Cách 4: Nửa hiệu 2 số là : 10 : 2 = 5 Số lớn là : 70 : 2 + 5 = 40 Số bé là : 70 - 40 = 30 ( Hoặc : 40 - 10 = 30) Từ 4 cách giải trên giáo viên cho học sinh nhận xét cách giải nào đơn giản ( học sinh lựa chọn cách 1 và cách 2 ) từ 2 cách giải đó giáo viên khái quát cho học sinh phương pháp giải dạng toán này bằng công thức: Cách 1 : Tìm số bé trước Cách 2 : Tìm số lớn trước Số bé = ( Tổng - hiệu ) : 2 Số lớn = (Tổng + hiệu) : 2 Số lớn = Tổng - số bé Số bé = Tổng - số lớn ( Hoặc : Số lớn = Số bé + Hiệu) ( Hoặc : Số bé = Số lớn - Hiệu)  Với cách tổ chức cho học sinh tự phát hiện như trên tuy cách 3 và cách 4 không phục vụ cho việc khái quát công thức nhưng giúp học sinh chủ động trong việc nắm kiến thức góp phần làm cho các em tự tin và kích thích học sinh tự khám phá trong những bài học tiếp theo. (Sách giáo khoa chỉ đề cập tới cách 1 và cách 2) Muốn hiểu được kiến thức mới phải có nền tảng từ kiến thức đã học. Việc vận dụng kiến thức đã học để từ đó hình thành được kiến thức mới đòi hỏi người giáo viên phải gợi mở, dẫn dắt học sinh đi từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng, nâng dần mức độ tư duy của học sinh bằng hệ thống câu hỏi, sự vận dụng linh hoạt sáng tạo, tư duy logic giúp các em phát hiện kiến thức. Trong chương trình Toán lớp 5, các yếu tố hình học được giới thiệu gồm 1 chương( Chương ba), trong chương này sách giáo khoa trình bày cách xây dựng công thức 10 tính diện tích tam giác, diện tích hình thang, diện tích hình tròn…...cao hơn nữa là cách tính thể tích một số hình …. Vậy việc xây dựng công thức tính diện tích các hình phải dựa trên cơ sở nào ? đòi hỏi người giáo viên phải giúp học sinh phát hiện kiến thức mới trên nền tảng những kiến thức đã học. nâng cao khả năng tư duy của các em qua mỗi tiết học cần củng cố, chốt khắc sâu cái cơ bản và bản chất của Toán học. Ví dụ : Muốn xây dựng công thức tính diện tích hình tam giác thì phải dựa vào công thức tính diện tích hình chữ nhật ( đã học ở lớp 3). Muốn xây dựng được công thức tính diện tích hình thang thì phải dựa vào công thức tính diện tích tam giác…..các yếu tố hình học được liên quan logic và chặt chẽ với nhau Chính vì lẽ đó, để nâng cao khả năng tư duy sáng tạo của các em khi dạy phần hình học cần định hướng cho học sinh trí tưởng tượng thông qua cách vẽ hình đây là một trong những yếu tố rất cần giúp học sinh học tốt phần hình học. Ví dụ : Khi dạy bài Hình thang Sau khi giới thiệu về hình thang, ngoài việc học sinh chỉ ra các yếu tố của hình như hình thang có 4 cạnh, có hai cạnh đáy là hai cạnh đối diện và song song, hai cạnh kia là hai cạnh bên. Ở bài này yếu tố đường cao của hình thang được giới thiệu : Đoạn thẳng vuông góc với 2 đáy được gọi là đường cao hình thang. Vậy để cho học sinh biết được đường cao thông qua biểu tượng, hình ảnh cụ thể sau : A D B C H Nếu chỉ dừng lại việc xác định đường cao ở hình ảnh trên thì hạn chế tư duy của học sinh, từ tính chất đường cao mà sách giáo khoa giới thiệu cùng với kỹ năng vẽ hình, hiểu bản chất của đường cao thì học sinh cần còn vẽ thêm đường cao nữa trong hình thang theo hình ảnh cụ thể sau : A - Độ dài AH D = CE H B E C 11 Qua kỹ năng vẽ hình nâng dần khả năng tư duy trừu tượng của học sinh do đó khi dạy bài Diện tích hình thang, ngoài phương án xây dựng công thức tính diện tích hình thang là cắt ghép hình thang chuyển thành hình tam giác ( Sách giáo khoa đã trình bày) trong quá trình chỉ đạo chuyên môn, tôi đã định hướng cho giáo viên phương án dạy như sau : Bước 1 : Xuất hiện hình thang ABCD A b B h D E h C a H Bước 2 : - Nối A với C Sau khi nối A với C, học sinh biết ngay được diện tích hình thang ABCD bằng tổng diện tích của 2 hình tam giác ADC và ABC Bước 3 : - Học sinh xác định đường cao AH của tam giác ADC, đỉnh là A, đáy là CD - Học sinh xác định đường cao CE của tam giác ABC, đỉnh là C và đáy là AB ( Cách xác định này đã học bài hình thang) Bước 4 : - Học sinh xác định cách tính diện tích tam giác ADC Diện tich tam giác ADC = (độ dài đáy CD  độ dài đường cao AH) : 2 Tương tự như vậy học sinh xác định cách tính diện tích tam giác ABC Diện tich tam giác ABC = (độ dài đáy AB  độ dài đường cao CE) : 2 Bước 5 : - Nếu coi cạnh đáy CD có độ dài là a, đáy AB có độ dài là b, đường cao AH có độ dài là h – Học sinh viết công thức tính diện tích tam giác theo độ dài nói trên Diện tích tam giác ADC = Diện tích tam giác ABC = ah 2 bh ( Vì 2 CE = AH = h) Vậy diện tích hình thang ABCD bằng tổng diện tích hình tích hình tam giác ADC và ABC hay : Diện tích hình thang ABCD = ah 2 + bh 2 ( *) 12 Nhận xét (*) như sau : Đây là phép cộng 2 phân số cùng mẫu số ( Mẫu số cùng là 2)- Yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức phép cộng hai phân số cùng mẫu số và áp dụng tính chất một số nhân với một tổng ( đã học ở lớp 4) như sau : Diện tích hình thang ABCD = ah 2 + bh 2 = ah  bh 2 Bước 6 : - Yêu cầu học sinh gắn vào các yếu tố của hình thang : a là độ dài đáy lớn b là độ dài đáy bé h là độ dài chiều cao S là diện tích hình thang - Rút ra công thức và cách tính diện tích hình thang : S = = ( a  b)  h 2 ( a  b)  h 2 Như vậy với cách hình thành công thức tính diện tích hình thang như trên, giúp cho giáo viên không cần phải các thao tác cắt ghép hình ( Như SGK) và quá trình cắt ghép hình để giúp học sinh nhận ra được diện tích hình thang ABCD bằng diện tích của tam giác ADK ( hình như SGK toán 5 trang 93) cũng là vấn đề khó cho cả giáo viên và học sinh. Cách dạy theo phương án trên sẽ nâng cao trí tưởng tượng, rèn kỹ năng vẽ hình, bằng câu hỏi gợi mở học sinh phát hiện được vấn đề cần giải quyết. b. Dạy luyện tập - Khi giải bài tập dạy trắc nghiệm có nhiều lựa chọn, chẳng hạn 5 Bài tập1 ( trang 125 Toán 4 ) : Phân số bằng phân số nào dưới đây? 9 10 15 15 20 A. B. C. D. 27 18 27 27 Học sinh chỉ cần nêu bằng lời “ khoanh tròn vào C ” hoặc dùng bút khoanh vào C là đúng và đủ. Nhưng giáo viên nên tổ chức cho học sinh thảo luận, trao đổi ý kiến về cách làm bài. Chẳng hạn, có thể học sinh nêu các phương án và nêu nhận xét như sau: 10 15 15 20 10 5 5 20 Phương án 1: Rút gọn các phân số ; ; ; được ; ; ; 27 18 27 27 27 6 9 27 5 15 Như vậy phân số bằng phân số nên phải khoanh vào C 9 27 10 15 15 20 Phương án 2: Trong các phân số ; ; ; có 3 phân số có MS bằng 27 18 27 27 5 15 27 , viết thành phân số có mẫu số là 27 được Vậy “khoanh vào C ” 9 27 ( vì chỉ có 1 kết quả đúng). 13 5 10 thành phân số có mẫu số là 18 được , rõ ràng 9 18 10 15 5 < nên chỉ cần so sánh phân số với 3 phân số còn lại . Làm tương tự như 18 18 9 phương án 2 có kết quả là “khoanh tròn vào C” Các phương án nêu trên đều đúng, nhưng phương án 1 và phương án 2 gọn hơn phương án 3 và phương án 2 thực hiện nhanh hơn phương án 1. Bài 2: ( Trang 153 Toán 3) A 8cm B Hình H gồm hình chữ nhật ABCD và hình chữ nhật DMNP(có kích thước ghi trên hình vẽ). 10cm Phương án 3: Viết Phân số a, Tính diện tích mỗi hình chữ nhật có trong hình vẽ. b, Tính diện tích hình H D M C 8cm N P 20cm N (Hình H) Học sinh dễ dàng tìm được diện tích hình H chính là tổng diện tích hình chữ nhật ABCD và hình chữ nhật DMNP. Khi học sinh chữa bài, giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm để tìm ra các cách giải khác nhau. Một số cách giải khác như sau: Cách1: Cắt hình đã cho thành 3 mảnh và ghép lại như sau : Diện tích hình H chính là diện tích hình chữ nhật có chiều dài 20 cm , 4cm chiều rộng là 12 cm. 8cm 20cm Cách 2: Cắt hình đã cho thành 3 mảnh và ghép lại như sau : 8 8 8 10 cm 24 cm Diện tích hình H chính là diện tích hình chữ nhật có chiều dài là 24 cm và chiều rộng là 10 cm. 14 Cách 3: Cắt hình đã cho thành 2 mảnh và ghép lại như sau : 10cm 20cm 8cm 30 cm Diện tích hình H chính là diện tich hình chữ nhật có chiều dài 30cm, chiều rộng 8cm. Cách 4 : Kẻ thêm để tạo thành hình chữ nhật 10cm 8cm 20 cm Có chiều dài 20 cm, chiều rộng 18cm và diện tích hình H chính là diện tích hình mới tạo thành trừ đi diện tích phần gạch chéo.Với cách làm như trên chẳng những học sinh ôn tập, củng cố được nhiều kiến thức mà còn giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng không gian thông qua thao tác cắt ghép và có thói quen tìm ra nhiều cách giải khác nhau, lựa chọn cách giải hợp lý nhất khi giải quyết vấn đề trong học tập và trong cuộc sống. 3.2.3. Sử dụng hợp lý linh hoạt sáng tạo đồ dùng dạy học: Do đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học mang nặng tính trực quan, trực giác cụ thể. Trong khi đó đặc điểm của kiến thức toán và đối tượng toán trừu tượng do đó cần có sự hỗ trợ của đồ dùng nhằm tạo chỗ dựa ban đầu cho hoạt động nhận thức nhờ có những đồ dùng học sinh dễ dàng hơn trong việc nhận thức các kiến thức trong toán học trừu tượng; học sinh nhớ lâu hiểu kỹ các kiến thức do được hoạt động trực tiếp để kiến tạo kiến thức, học sinh tập trung chú ý vào tập dượt giải quyết nhiệm vụ học tập, đưa ra sản phẩm cụ thể thông qua thao tác trực quan nên tạo hứng thú học tập. Sách giáo khoa và sách giáo viên đã gợi ý định hướng đồ dùng dạy học cho từng bài học nhưng sự lựa chọn, bổ sung và cách sử dụng hoàn toàn tuỳ thuộc vào mỗi giáo viên. Mỗi đồ dùng dạy học có thể mang nhiều tính năng, tác dụng và nhiều cách sử dụng đồ dùng dạy học để tiết học có hiệu quả hơn nhưng chưa quan 15 tâm đúng mức đến việc sử dụng đồ dùng dạy học một cách sáng tạo và hiệu quả nhất. Sự sáng tạo thể hiện ở những khía cạnh như sử dụng đúng thời điểm thích hợp, phản ánh rõ nét, sâu sắc nội dung kiến thức bài học, kích thích học sinh hứng thú học tập và tiếp thu bài học nhè nhàng, tự nhiên. Sáng tạo còn thể hiện qua việc giáo viên tạo ra sự giao thoa giữa nội dung kiến thức bài học, tính năng tác dụng của đồ dùng dạy học và năng lực tiếp thu của học sinh. Trong từng lớp học, tất cả học sinh phải có đầy đủ đồ dùng học tập để mỗi em được thực hành luyện tập. Để dạy bài So sánh các số có ba chữ số ( Toán 2, trang 148), có thể tiến hành như sau: - HS quan sát tranh vẽ trong SGK và nhận xét: hình bên trái có 2 “ bảng trăm”, 3 “Thanh chục” và 4 “ô vuông”; như thế trong hình bên trái có 234 ô vuông. Tương tự trong hình bên phải có 235 ô vuông. - Số ô vuông bên trái ít hơn số ô vuông bên phải - Vậy số 234 bé hơn số 235 và viết: 234<235. Ta cũng có: 235>234. Ví dụ: Khi dạy đối tượng hình học giáo viên phải xuất hiện đồ dùng trực quan để học sinh có biểu tượng về đối tượng hình học đó, sau đó theo lệnh của giáo viên học sinh thực hành lấy ( tìm ) đối tượng hình học mới học trong bộ đồ dùng để giáo viên kiểm tra ( dạy bài: Hình vuông, hình tròn, hình tam giác - Toán 1; hình bình hành, hình thoi - Toán 4 vv. ) Nhưng khi dạy các phép tính ở lớp 1 và lớp 2; xây dựng công thức tính diện tích các hình (lớp 4 , 5) thì học sinh lại xuất hiện đồ dùng trực quan theo lệnh của giáo viên, thông qua đồ dùng trực qua đó tìm ra kết quả của các phép tính, xây dựng công thức tính diện tích các hình (lớp 4, 5). Việc xuất hiện đồ dùng trực quan của giáo viên lúc này chỉ có tác dụng mô tả lại việc làm của học sinh có thế với phát huy mọi khả năng của học sinh khi hình thành kiến thức mới. 3.2.4. Đổi mới phương pháp lập kế hoạch bài học và thực hiện kế hoạch dạy học môn toán: Lập kế hoạch bài học là khâu chuẩn bị quan trọng cho sự thể hiện giờ dạy trên lớp, việc lập kế hoạch bài học tuy ngắn gọn song thể hiện rất rõ hoạt động và việc làm của thầy và trò trong một tiết dạy. Do vậy trong các buổi sinh hoạt chuyên môn cần chỉ đạo việc đổi mới phương pháp lập kế hoạch bài học cho giáo viên đó là: Xác định mục tiêu của tiết dạy, xác định rõ mục tiêu kiến thức cần truyền đạt cho học sinh ở từng bài tập trong tiết dạy để từ đó tìm cách tổ chức các hoạt động dạy học.Trong mỗi bài dạy, xác định có bao nhiêu hoạt động và mỗi hoạt động phân định rõ việc làm của thầy, của trò. Trong đó hoạt động của trò vẫn là trọng tâm, hình thức lập kế hoạch bài học cũng được trình bày theo hệ thống hoạt động. Trong chương trình toán, có nhiều bài toán việc khai thác không đơn giản, cần tổ chức như thế nào để tác động đến tất cả các đối tượng học sinh. Trong mỗi kế hoạch bài học cần đặt tình huống sư phạm có thể xảy ra, phải chú ý đến mọi đối tượng nhằm tích cực hoá việc học tập của học sinh và quan tâm đối tượng những học sinh có kỹ năng tiếp thu môn toán kém. Cần chỉ đạo thiết kế và thi công kế hoạch bài học theo những yêu cầu sau: 16 a- Xây dựng kế hoạch bài dạy . A. Mục tiêu bài học: (Kiến thức, Kỹ năng, thái độ) B. Đồ dùng dạy học : - GV: Đồ dùng phải đủ, đúng, thể hiện rõ ở hoạt động nào ? - HS: Phải có đầy đủ đồ dùng học tập, sách vở, .... C. Hoạt động dạy học chủ yếu Mỗi đơn vị kiến thức là một hoạt động, hoạt động đó phải có: Tên và dự đoán được kết quả, thời gian cho mỗi hoạt động, kiến thức trọng tâm cần củng cố trong mỗi hoạt động là gì để từ đó lựa chọn PPDH và hình thức tổ chức dạy học phù hợp cho từng hoạt động. Để làm được điều trên, cần chỉ đạo cho giáo viên nghiên cứu được: + Vị trí bài học trong chương trình, trong mạch kiến thức + Nghiên cứu kiến thức, nội dung bài học. Từ đó xác định được mục tiêu, đồ dùng dạy học và các hoạt động dạy học chủ yếu. b- Thi công kế hoạch bài học Có thể nói, một trong các khâu quan trọng của bài dạy là thi công kế hoạch bài học. Giờ dạy có thành công hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố song yếu tố quan trọng nhất là giáo viên có trung thành với kế hoạch bài học hay không. Mỗi hoạt động dạy học khi xây dựng mà giáo viên đã lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho hoạt động đó. Vì vậy, ngoài việc chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch bài học đúng yêu cầu, cần chỉ đạo giáo viên thực hiện đầy đủ kế hoạch đề ra. Để việc thiết kế và thi công được tốt BGH cần sử dụng khả năng của các đồng chí tổ trưởng, khối trưởng đặc biệt là đội ngũ giáo viên giỏi làm nòng cốt. c - Khuyến khích giáo viên dạy giáo án điện tử: Dạy giáo án điện tử giúp giáo viên đổi mới PPDH song khi lựa chọn dạy học với giáo án điện tử phải theo từng nội dung kiến thức và từng bài dạy thì mới có hiệu quả. Gây được sự hướng thú học tập đối với học sinh. Nhất là toán lớp1, lớp 2, lớp 3... có rất nhiều hình ảnh trong bài dạy kể cả việc hình thành kiến thức mới cũng như phần luyện tập giáo viên sử dụng giáo án điện tử trình chiếu kênh hình sẽ sinh động hơn hấp dẫn hơn. 3.3.Thực hiện có hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo. Đổi mới PPDH là yêu cầu bức thiết đối với tất cả giáo viên và các cấp quản lý. Để giáo viên làm được tốt thì vai trò của quản lý trong các nhà trường là rất quan trọng. Các đồng chí trong Ban Giám hiệu phải tâm huyết, nhiệt tình và có kế hoạch hành động thiết thực để thực hiện tốt đổi mới PPDH, triển khai kịp thời, đầy đủ các chuyên đề, tổ chức tốt các buổi sinh hoạt chuyên môn đi sâu vào nội dung và phương pháp dạy học; xây dựng đội ngũ giáo viên dạy giỏi của trường, sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học đã có và tự làm; nâng cao nhận thức của đội ngũ giáo viên. Ban giám hiệu cần kiểm tra đánh giá chất lượng đổi mới PPDH trong nhà trường một cách thường xuyên, những hoạt động dạy học của giáo viên và học 17 sinh trong việc đổi mới PPDH, và sự tác động ấy không rời rạc, không thụ động mà cần chặt chẽ, chủ động, bao quát, trọng tâm vào mối quan hệ giữa các chủ thể dạy học. Chỉ đạo đổi mới PPDH cần phân định ở 2 phạm vi đó là giờ dạy trên lớp của giáo viên và các điều kiện hỗ trợ tác động của các quản lý. Nhân rộng các tiết dạy thể hiện sự sáng tạo trong quá trình dạy học, thảo luận, góp ý tập trung đi sâu vào hiệu quả giờ dạy phát huy được tính tích cực và phát triển tư duy của học sinh. Ban giám hiệu phải có những giải pháp tương ứng tạo chuyển biến tích cực cho việc đổi mới PPDH đối với từng giáo viên trong thời gian cụ thể. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Việc chỉ đạo đổi mới PPDH môn Toán theo hướng phát huy tích tích cực của học sinh có hiệu quả, đã khuyến khích được sự chuyên cần, chủ động sáng tạo và ý thực vươn lên trong học tập của học sinh. Từ đó nâng cao chất lượng dạy và học. Vào thời điểm giữa kỳ 2, ban giám hiệu dự giờ có báo trước và không có báo trước của môn Toán và được đánh giá chất lượng các tiết dạy như sau: Sử dụng phương Tổng số pháp dạy học linh hoạt, phù hợp. 45 tiết 42 tiết Sử dụng hiệu quả các phương tiện, đồ dùng cần thiết cho tiết dạy. 43 tiết Học sinh tự tin, biết hợp tác đều được hoạt động học tập tích cực đúng khả năng 44 tiết Phát triển tư duy, sáng tạo của học sinh 43 tiết Qua kết quả trên, tôi nhận thấy các tiết dạy đã vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, không rập khuôn máy móc nhưng tốt hơn cả đã huy động tất cả các đối tượng học sinh hoạt động tích cực, phát triển tư duy Toán học cho các em, giúp các em phát triển năng khiếu môn Toán được tốt hơn. 18 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Có thể nói đổi mới PPDH là vấn đề rất cần thiết và cấp bách. Qua quá trình chỉ đạo đổi mới PPDH nói chung, đổi mới PPDH môn Toán nói riêng, nhìn chung đội ngũ giáo viên của nhà trường có ý thức vươn lên và có trách nhiệm cao trong việc giảng dạy. Giáo viên nâng cao nhận thức của mình về việc đổi mới PPDH nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường. Để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cũng như tất cả các môn học khác ở Tiểu học tôi xin có một vài kiến nghị với các bạn đồng nghiệp như sau: - Đổi mới PPDH ở tiểu học cần đảm bảo sự phối hợp hợp lí giữa cái “Truyền thống” và cái “hiện đại” nhằm đưa dạy học lên tầm cao mới về chất lượng và hiệu quả nhưng vẫn giữ được thế ổn định. Đổi mới PPDH không chấp nhận sự đổi mới nửa vời tức là chỉ cải tiến cái cũ mà không chấp nhận cái mới hoặc cực đoan loại bỏ hoàn toàn tất cả các phương pháp truyền thống, chỉ công nhận cái mới. - Khi nghiên cứu bài dạy giáo viên luôn phải suy nghĩ là: Với nội dung của tiết học này thì cách tạo tình huống có vấn đề như thế nào để học sinh tự giải quyết được vấn đề giáo viên nêu ra. Nếu làm được điều đó chính là đã giúp học sinh tự phát hiện ra kiến thức của bài học (đối với kiến thức mới) và tìm ra được nhiều cách giải, phương án giải cho một bài toán và các kiến thức có liên quan(đối với các tiết luyện tập) Trên đây là một số vấn đề bản thân muốn trao đổi cùng bạn đồng nghiệp về việc đổi mới PPDH môn Toán bậc Tiểu học, thời gian nghiên cứu không nhiều nên không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp. 2. Kiến nghị: - Giáo viên cần tăng cường nghiên cứu về tài liệu bồi dưỡng, tích cực tự làm đồ dùng dạy học thiết thực nhằm phát huy hết khả năng của học sinh. - Phòng GD& ĐT nên tổ chức thường xuyên các chuyên đề để nâng cao chất lượng dạy học Toán ở Tiểu học. Xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Hậu Lộc, ngày 10 tháng 3 năm 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.. Người thực hiện Tô Thị Đằng 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa môn Toán lớp 1- Nhà xuất bản Giáo dục 2. Sách giáo khoa môn Toán lớp 2 - Nhà xuất bản Giáo dục 3. Sách giáo khoa môn Toán lớp 3- Nhà xuất bản Giáo dục 3. Sách giáo khoa môn Toán lớp 4- Nhà xuất bản Giáo dục 3. Sách giáo khoa môn Toán lớp 5- Nhà xuất bản Giáo dục 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan