Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số biện pháp chỉ đạo chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn toán...

Tài liệu Một số biện pháp chỉ đạo chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn toán lớp 4

.PDF
25
12
147

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO CHUYÊN MÔN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY - HỌC MÔN TOÁN LỚP 4 Người thực hiện: Nguyễn Thị Hường Chức vụ: Phó hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Bái SKKN thuộc lĩnh vực(môn): Toán THANH HÓA NĂM 2016 0 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Như chúng ta đã biết, mục đích của quá trình dạy học ở bậc Tiểu học là nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội. Nhằm giúp học sinh từng bước hình thành nhân cách, từ đó trang bị cho học sinh các phương pháp ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Mục tiêu đó được thực hiện thông qua việc dạy học các môn và thực hiện theo định hướng yêu cầu giáo dục, nhằm trang bị cho trẻ những kiến thức, kỹ năng cần thiết để trẻ tiếp tục học ở bậc Trung học hay cho công việc lao động của trẻ sau này. Trong các môn học, môn Toán là một môn học độc lập có vị trí hết sức quan trọng bởi vì : - Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. - Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh. Những thao tác tư duy có thể rèn luyện cho học sinh qua môn Toán bao gồm phân tích tổng hợp, so sánh, tương tự, khái quát hóa, trìu tượng hóa, cụ thể hoá, đặc biệt hóa. Các phẩm chất trí tuệ có thể rèn luyện cho học sinh bao gồm: tính độc lập, tính linh hoạt, tính nhuần nhuyễn, tính sáng tạo. - Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc trung học Xuất phát từ vị trí quan trọng của môn Toán, qua thực tế giảng dạy, chỉ đạo chuyên môn trong nhiều năm, tôi thấy mặc dù chất lượng dạy học của nhà trường nói chung và môn toán nói riêng trong những năm gần đây đã được nâng lên đáng kể và luôn được đứng vào trong tốp đầu của huyện nhà. Song thực tế cho thấy chất lượng môn Toán hàng năm của khối 4 vẫn chưa đạt như mong muốn, qua các bài kiểm tra định kì, tỷ lệ học sinh trung bình còn cao, đặc biệt tỷ lệ học sinh điểm dưới 5 cao hơn so với các khối khác trong trường. Đó là điều tôi thường băn khoăn, trăn trở, làm thế nào để các em nâng được chất lượng học tập môn toán lớp 4? Là người quản lý phụ trách chuyên môn trong nhà trường, nhiều năm qua, tôi luôn suy nghĩ, tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp chỉ đạo công tác dạy – học trong nhà trường nói chung và đặc biệt là môn toán lớp 4 nói riêng góp phần nâng cao chất lượng dạy - học chung của nhà trường. Vì vậy năm học này, tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “ Một số biện pháp chỉ đạo chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy - học môn Toán khối 4 trong nhà trường Tiểu học” nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển giáo dục của đơn vị trong những năm tới. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Tìm ra biện pháp chỉ đạo chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng môn Toán khối 4 trong nhà trường Tiểu học tôi đang công tác. 1 III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: - Chất lượng giảng dạy và học tập của đội ngũ giáo viên, học sinh khối lớp 4 trường Tiểu học Xuân Bái. - Các tài liệu liên quan nhằm tìm ra các biện pháp chỉ đạo chuyên môn và thực hiện với giáo viên giảng dạy khối 4 và học sinh lớp 4 trong trường. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp điều tra, khảo sat; tổng hợp thống kê, so sánh số liệu… B. PHẦN NỘI DUNG I.SỞ LÍ LUẬN -Trong chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học ( Ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ: “Môn Toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh: Có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số, số thập phân; các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong cuộc sống. Bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng( nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; chăm học và hứng thú học tập toán; hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.” - Môn Toán ở Tiểu học được soạn theo kế hoạch dạy học quy định ( tuần bài) và dựa theo các bài học trong sách giáo khoa môn Toán đã và đang được sử dụng trong các trường Tiểu học toàn quốc. Đối với từng tiết dạy trong sách giáo khoa đã có hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng đề cập tới nội dung yêu cầu cần đạt. Đây là yêu cầu cơ bản, tối thiểu mà tất cả học sinh cần phải đạt được sau tiết học. Như vậy giúp giáo viên có cơ sở xác định yêu cầu cần đạt và bài tập cần làm trong sách giáo khoa để đảm bảo mọi đối tượng học sinh đều đạt chuẩn kiến thức kĩ năng của môn Toán trong chương trình. Đồng thời, căn cứ vào tình hình thực tế của mỗi lớp học, giáo viên khuyến khích, tạo điều kiện cho những học sinh có khả năng, có điều kiện giải quyết tất cả các bài tập trong sách giáo khoa; chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong sử dụng sách giáo khoa khi dạy học nhằm phát triển năng lực của mỗi học sinh góp phần thực hiện dạy đúng đối tượng học sinh ở Tiểu học. - Từ mục tiêu, yêu cầu của môn Toán lớp 4 giúp học sinh có một số hiểu biết ban đầu về số tự nhiên, phân số ( tử số và mẫu số không quá hai chữ số) và về cộng, trừ, nhân, chia với các số đó. Biết đọc, viết, so sánh, thực hành tính cộng, trừ, nhân, chia các số đã học. Biết sử dụng các đơn vị đã học và các đơn vị tấn, tạ, yến, giây, thế kỉ trong tính toán và đo lường. Nhận biết được góc nhọn, góc tù, góc bẹt, đường thẳng vuông góc, đường thẳng song song, hình bình hành, hình thoi. Biết tính diện tích của hình bình hành, hình thoi. Biết giải bài toán có nội dung thực tế có đến ba bước tính. Nhận biết được một số thông tin trên bản đồ cột. Dựa vào cơ 2 sở đó người giáo viên linh hoạt vận dụng các phương pháp, đổi mới các hình thức dạy học Toán nhằm nâng cao chất lượng môn Toán lớp 4 cho học sinh. Như vậy mới nâng cao được chất lượng môn toán cho học sinh Tiểu học. II. THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN TOÁN LỚP 4. 1.Thuận lợi và khó khăn *Thuận lợi: + Địa phương: Trong những năm gần đây đời sống kinh tế văn hoá giáo dục của nhân dân được phát triển, nhận thức có nhiều chuyển biến tốt, con em đi học đã được phụ huynh quan tâm hơn. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương luôn quan tâm đến công tác giáo dục của nhà trường. + Nhà trường: - Đội ngũ giáo viên nói chung và của khối lớp 4 nói riêng đại đa số là trẻ khoẻ nhiệt tình, tâm huyết với nghề và có năng lực chuyên môn. Số giáo viên có trình độ trên chuẩn cao: 4/4 đạt trên chuẩn(100%). - Nhà trường luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao của phòng Giáo dục và đào tạo - Trường nhiều năm đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc. - Đa số học sinh ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập. *Khó khăn: - Là một xã nắm phía tây huyện Thọ Xuân, địa bàn dân cư rộng, một bộ phận học sinh đi lại khó khăn( cách trường 4-5 km). . - Trình độ dân trí không đều, điều kiện kinh tế của nhân dân còn nhiều khó khăn. Địa phương là một điểm nóng của tệ nạn ma tuý nên ảnh hưởng nhiều đến công tác giáo dục. - Một bộ phận phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, còn phó mặc cho nhà trường. - Cơ sở vật chất của nhà trường tuy đã có sự đầu tư hàng năm, song vẫn chưa đủ để đáp ứng được nhu cầu của việc dạy và học. 2. Thực trạng chất lượng môn Toán lớp 4. Qua theo dõi việc giảng dạy, kết quả kiểm tra định kì môn toán khối 4, kết hợp với nhận xét của từng giáo viên chủ nhiệm trong 2 năm gần đây, bản thân nhận thấy rằng: tỉ lệ học sinh hoàn thành mức độ thấp và chưa hoàn thành môn toán (HS điểm 5- 6 và dưới 5) của khối 4 còn khá cao, cụ thể như sau: Kết quả kiểm tra định kì cuối năm của 2 năm học gần đây như sau: Năm hoc SHS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 6-5 Điểm < 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 2013-2014 98 29 29,5 27 27.5 37 37,9 5 5,1 2014-2015 90 23 25,5 35 38,9 28 31,2 4 4,4 Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2015- 2016 như sau: Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 6-5 Điểm < 5 SHS SL TL SL TL SL TL SL TL 102 19 18,6 23 22,5 48 47,2 12 11,7 2.3 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng môn toán khối 4 chưa cao . 3 * Về phía học sinh: - Còn một bộ phận học sinh chưa có hứng thú học toán nên khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng không bền dẫn đến nắm bài chưa sâu, còn nhiều lỗ hổng về kiến thức, kĩ năng. Nhiều em còn lười học, chưa có ý thức trong giờ học toán. Coi toán là môn học khó nên thiếu tự tin, ngại cố gắng, có tâm lý sợ học Toán - Có những em do thiểu năng trí tuệ, khả năng ghi nhớ kém. Không biết làm tính, (cộng, trừ, nhân, chia). * Về phía giáo viên: Phần lớn đội ngũ giáo viên trong trường tâm huyết với nghề, tận tâm với học sinh. Tuy nhiên, các thành viên trong khối 4 thường không cố định mà thay đổi hàng năm nên về chuyên môn cũng có phần bị hạn chế do: + Bỡ ngỡ về chương trình, nội dung, phương pháp dạy học. + Một số giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm dạy khối 4 + Còn có giáo viên còn chạy theo thành tích chưa thật sự quan tâm đến đối tượng học sinh gặp khó khăn trong học tập(HS yếu, kém), chưa đi sâu tìm hiểu, theo dõi xem học sinh yếu ở điểm nào, hổng kiến thức chỗ nào... + Giáo viên chưa xác định và lựa chọn, sắp xếp kiến thức phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình trong dạy buổi 2 + Giáo viên chưa đầu tư nghiên cứu sâu cho tiết dạy có hiệu quả. + Việc quan tâm đến các đối tượng học sinh chưa thường xuyên, liên tục. + Một bộ phận giáo viên chưa biết vận dụng phương pháp mới vào dạy học theo hướng phát huy tính tích cực. Mặt khác, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm và gia đình học sinh nên chưa có biện pháp phù hợp trong quá trình giúp đỡ học sinh học tập. Chính vì vậy vẫn tồn tại một số học sinh chưa hoàn thành(yếu, kém) về môn Toán. * Đối với phụ huynh: Một bộ phận phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em, còn phó mặc cho nhà trường. Hay còn có nhiều phụ huynh trình độ hạn chế không có khả năng giúp con học tập. Mặt khác, một số phụ huynh điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn, đi làm ăn xa phải gửi con cho ông bà, cô bác trông hộ nên số em đó rất lười học. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO CHUYÊN MÔN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY- HỌC MÔN TOÁN LỚP4 Từ những thực trạng nói trên, để tập trung nâng chất lượng dạy học toán trong nhà trường nói chung và nâng chất lượng dạy học môn toán lớp 4 nói riêng tôi đã suy nghĩ và trao đổi cùng đồng nghiệp đưa ra một số biện pháp chỉ đạo như sau: Biện pháp 1: Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên . Để nâng cao chất lượng giáo dục trong trường Tiểu học, ban giám hiệu nhà trường chúng tôi đặc đặc biệt quan tâm tới công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Vì vậy: - Hằng năm, ngay từ đầu năm học, tôi cùng các dồng chí trong ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức cho giáo viên tham gia học tập nghị quyết của Đảng các cấp, các văn bản pháp quy, chỉ thị, công văn chỉ đạo chuyên môn,...của cấp trên tới tất cả giáo viên của trường. 4 - Tuyên truyền để mỗi giáo viên thấy được trách nhiệm của người thầy " Tất cả vì học sinh thân yêu" - Phát động phong trào thực hiện cuộc vận động hai không với bốn nội dung “ Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.” Và “ Nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc học sinh ngồi nhầm lớp”. - Chỉ đạo, động viên cán bộ giáo viên tự học tự bồi dưỡng : Tôi xác định đây là công việc cần phải thực hiện thường xuyên liên tục. Vì vậy, tôi đã cùng ban giám hiệu suy nghĩ, thảo luận tìm biện pháp để thổi lên ngọn lửa của phong trào tự học, tự bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên bằng nhiều hình thức: + Tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi về kinh nghiệm tự học, giúp giáo viên định hướng việc tự học, tự bồi dưỡng. + Xác định được những nội dung cần phải học, phải bồi dưỡng và cách tự học, tự bồi dưỡng như thế nào? Cung cấp cho giáo viên các thông tin, tài liệu, xây dựng thư viện, phòng đọc, tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên thực hành việc tự học, tự bồi dưỡng. + Tổ chức các hoạt động sư phạm trong nhà trường gắn với tự học. Xây dựng một cơ chế, chính sách, đánh giá thi đua hoặc gắn lợi ích vật chất đối với việc tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên... Bản thân mỗi đồng chí trong ban giám hiệu phải gương mẫu học tập, không ngừng tự học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; chịu đọc và chịu học hỏi anh chị em giáo viên . - Tổ chức cho đội ngũ GV tham gia đầy đủ, chủ động và tích cực các hoạt động bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn như: Tập huấn về PPDH Toán theo hướng đổi mới; bồi dưỡng qua dự giờ, thăm lớp; bồi dưỡng qua các chuyên đề....Tổ chức sinh hoạt chuyên môn giữa các khối lớp. Chọn giáo viên có khả năng để bồi dưỡng chuyên sâu môn Toán cho từng khối. Biện pháp2: Chỉ đạo giáo viên thực hiện chương trình dạy học 2.1 Chỉ đạo tìm hiểu về đặc điểm nội dung, chương trình, mục tiêu, phương pháp dạy môn toán ở Tiểu học nói chung và môn toán lớp 4 nói riêng. Việc tìm hiểu nắm chắc đặc điểm nội dung, chương trình môn toán ở Tiểu học nói chung và môn toán lớp 4 nói riêng là rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán. Để chỉ đạo tốt việc này, tôi đã thường xuyên nghiên cứu tài liệu, SGK để nắm vững đặc điểm nội dung chương trình môn toán từng khối lớp, triển khai, trao đổi với giáo viên trong buổi sinh hoạt chuyên môn nhất là vào dịp đầu năm học để giáo viên nắm vững. Đặc biệt tôi yêu cầu giáo viên phải nắm chắc cấu trúc, nội dung chương trình, mục tiêu nhiệm vụ của môn Toán khối lớp mình dạy đó là: * §Æc ®iÓm - nội dung - phương pháp của môn Toán lớp 4 ë trưêng TiÓu häc Toán 4 mở đầu cho giai đoạn học tập sâu. Có thể coi Toán 4 là sự bổ sung hoàn thiện, tổng kết, hệ thống hoá, khái quát hoá kiến thức của giai đoạn trước về 5 mạch kiến thức sau: Số học; Đại lượng và đo đại lượng; Yếu tố hình học; Yếu tố thống kê và Giải toán. Phần số học ở Toán 4 được khái quát lên đi sâu vào bản chất. Chẳng hạn đọc - viết các số dựa trên hàng và lớp(không dựa vào cấu tạo thập phân); các phép tính được 5 khái quát lên thành công thức,...và nội dung chương trình Toán 4 được cụ thể hóa thành 6 chương như sau: Chương I: Số tự nhiên - Bảng đơn vị đo khối lượng. Chương II: Bốn phép tính với các số tự nhiên. Chương III: Dấu hiệu chia hết cho 2, 5, 3, 9 - Giới thiệu hình bình hành. Chương IV: Phân số, các phép tính với phân số - Giới thiệu hình thoi. Chương V: Tỉ số, một số bài toán liên quan đến tỉ số. Tỉ lệ bản đồ. Chương VI: Ôn tập. Học kì I tập chung vào bổ sung hoàn thiện hệ thống hóa khái quát hóá về số tự nhiên, dã số tự nhiên, các phép tính và một số tính chất. Học kì II tập trung phải tìm tòi và sáng tạo nội dung dạy học phù vào học phân số, dấu hiệu chia hết và một số dạng về hình học. Nội dung Toán 4, mỗi chương là một mảng kến thức, trước tiên giáo viên phải nắm vững mục tiêu, nội dung, khả năng có thể khai thác trong từng bài. Điều quan trọng là giáo viên phải xây dựng những phương pháp huy động tính tích cực của học sinh trong hoạt động học để các em nắm chắc và vận dụng thành thạo các nội dung trong từng bài, góp phần phát triển năng lực tư duy và năng lực thực hành của học sinh. 2.2 Chỉ đạo vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh vào dạy- học Toán. Trước tiên, tôi giúp giáo viên nhận thức và hiểu đúng về đổi mới phương pháp dạy học toán trong không có nghĩ là thay đổi hoàn toàn các phương pháp truyền thống mà phải biết lựa chọn và vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh.Vì vậy tôi yêu cầu giáo viên nắm vững các phương pháp dạy học Toán đó là: Phương pháp trực quan; Phương pháp quan sát; Phương pháp quy nạp; Phương pháp trò chơi; phương pháp diễn giải; Phương pháp thuyết trình; Phương pháp trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích và tổng hợp, phương pháp thảo luận nhóm, thực hành luyện tập... Hiểu được định hướng chung của phương pháp dạy học toán là dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẩn các hoạt động học tập tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, đồng thời phải biết không có biện pháp nào là vạn năng mà phải biết dựa vào nội dung từng bài cụ thể để lựa chọn các biệt pháp phối hợp vận dụng vào dạy học sao cho giờ dạy đạt hiệu quả cao nhất. Ví dụ: Khi dạy bài “Giây, thế kỷ” Toán 4. Giáo viên nên sử dụng phương pháp luyện tập, thực hành là chủ yếu, kết hợp với các phương pháp khác (đàm thoại, quan sát, hướng dẫn, giảng giải…) để hiểu được mối quan hệ giữa giờ và phút, phút và giây, giữa thế kỷ và năm. Từ đó rút ra kết luận: Dựa vào các đơn vị đo thời gian con người tính được khoảng thời gian từ trước cho đến nay. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp cần phải căn cứ vào lứa tuổi của học sinh, đặc thù của môn học, tính chất của từng bài và điều kiện về cơ sở vật chất và khả năng hướng dẫn của giáo viên. Hay: Trong quá trình dạy học giáo viên cần phát huy tính tích cực trong phương pháp dạy học vấn đáp kết hợp với một số phương pháp khác trong dạy hình thành kiến thức mới: cho bài “Phép nhân phân số” 6 Hoạt động 1: Hình thành phép tính nhân 2 phân số 3 4 và 2 5 Đây là vấn đề mới, nếu giáo viên chỉ giới thiệu qui tắc tính sau đó vận dụng tính thì chưa phát huy được tính tích cực của học sinh. Do dó giáo viên cần phải suy nghĩ và chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức mới một cách sáng tạo, tích cực. Chẳng hạn: Hãy tính 3 4 của 2 5 ?. Đây là tình huống mà học sinh chưa thể thực hiện ngay được nhưng nếu học sinh chịu khó suy nghĩ vận dụng kiến thức đã học ( cách cấu tạo phân số), hoặc giáo viên hướng dẫn thì học sinh có thể thực hiện được câu hỏi trên. Ở đây giáo viên muốn thực hiện câu 3 hỏi trên để giúp học sinh tìm được cách tính 4  2 5 ( khi chưa có qui tắc) Vì vậy giáo viên hướng dẫn gợi ý tiếp: Hãy phân tích 2 5 thành tổng của 4 phân số bằng nhau? Học sinh sẽ phân tích được( với HS yếu GV gợi ý hướng dẫn cụ thể hơn) Ta có 2 5 = 24 5 4 = 8 20 = 2 20 Từ kết quả trên, hãy cho biết Ta có 3 4 của 2 5 là : 2 20 2 2 2 + 20 + 20 + 20 . 2 3 4 của 2 + 20 + 20 = 2 5 là bao nhiêu? (HS dễ dàng tìm được) 6 20 . Từ đây rút ra kết luận: Ta nói Tích của 3 4 với 2 5 = 6 20 . Viết công thức khái quát: 3 2 3 2 6  = = . Từ đó giáo viên gợi ý để học sinh nêu 4 5 45 20 a c ac  = rồi yêu cầu học sinh nêu thành qui tắc, sau đó b d bd tổ chức luyện tập thực hành. 2.3 Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch bài dạy(soạn giáo án), chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên và việc lựa chọn đồ dùng dạy học của giáo viên: Thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên là việc làm quan trọng, trong việc thực hiện quy chế chuyên môn ở trường Tiểu học. Là khâu mà bất kì giáo viên trực tiếp giảng dạy nào cũng phải có, vì trong quá trình thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp giúp giáo viên có sự chuẩn bị, sự nghiên cứu về nội dung, tuy nó chưa phải là dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy để có biện pháp xử lí kịp thời đúng đắn. Và thiết kế bài dạy được xem là công cụ để thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, thể hiện sự sáng tạo của giáo viên và cũng là một trong những việc làm góp phần quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường. Do đó tôi đã tập trung chỉ đạo việc thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên cụ thể như sau: - Triển khai các văn bản, các yêu cầu cơ bản của chuyên môn về việc thiết kế bài dạy, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng đến tổ khối, giáo viên. Tôi yêu cầu giáo viên trước khi xây dựng kế hoạch dạy học phải nghiên cứu nắm chắc được mục tiêu, yêu cầu của một bài, sau đó phân tích lựa chọn nội dung bài học cụ thể trong chương trình môn Toán như: Nắm được vị trí của mảng kến 7 thức đó trong toàn bộ chương trình môn học và phải biết huy động những kiến thức mà học sinh đã được học trước đó để bổ trợ cho việc nắm kiến thức mới. Đông thời phải lựa chọn phương pháp và sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với nội dung của bài, phù hợp với trình độ và điều kiện học tập của học sinh. - Yêu cầu kế hoạch bài giảng của giáo viên phải thể hiện: + Mục tiêu đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng của bài học dành cho đối tượng học sinh trong lớp. + Trước khi thiết kế kế hoạch bài dạy, yêu cầu giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung kiến thức bài học, điều chỉnh nội dung dạy học sao cho phù hợp đối tượng học sinh của địa phương để đạt được chuẩn kiến thức, kĩ năng. Đặc biệt phải biết tận dụng ưu thế của mỗi PPDH theo hướng tích cự hóa học tập của học sinh, vận dụng linh hoạt vào từng bài dạy phù hợp, tổ chức hướng dẫn học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức trên lớp để tìm kiếm và chiếm lĩnh kiến thức mới, vận dụng làm bài tập thực hành thành thạo đạt kết quả tốt, + Nội dung cơ bản của kế hoạch phải thể hiện rõ hoạt động của thầy, hoạt động của trò, hoạt động trọng tâm của bài, dự kiến thời gian của từng hoạt động; mỗi hoạt động đều thể hiện được mục tiêu, nhiệm vụ, nêu cách tổ chức của thầy, dự kiến câu trả lời của học sinh và kết luận của giáo viên. Không ghi những vấn đề không cần thiết. + Nội dung giáo án ngắn gọn, xúc tích đảm bảo nội dung trọng tâm của bài, logic khoa học, lựa chọn phương pháp giảng dạy (thể hiện sự hệ thống việc làm của thầy - trò, hình thức tổ chức phù hợp với môn học, lớp học với đối tượng học sinh giỏi – khá – TB – yếu). + Khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học phải phù hợp với nội dung bài - Với những bài khó, tổ chức trao đổi, thống nhất chung. - Quy định thời gian kí duyệt kế hoạch giảng dạy của giáo viên trước khi lên lớp thực hiện tiết dạy. Ban giám hiệu, tổ trưởng chuyên môn kiểm tra thường xuyên lịch báo giảng, kế hoạch bài dạy thường xuyên theo tuần và theo tháng. Ngoài ra còn tiến hành kiểm tra đột xuất tối thiểu 2 lần / 1 giáo viên / học kì. 2.4 Chỉ đạo công tác giảng dạy trên lớp: - Chỉ đạo giáo viên dạy đúng đủ chương trình qui định (theo phân phối chương trình) và thời khóa biểu qui định. Dạy học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng. Trong giảng dạy giáo viên phải phân loại đối tượng, phải bao quát được đều các nhóm, các đối tượng học sinh trong lớp, có kế hoạch bồi dưỡng học sinh có năng khiếu và học sinh học lực còn yếu. Đặc biệt quan tâm tới học sinh khuyết tật( nếu có) ngay trong tiết học Toán hàng ngày. - Giáo viên cần khơi gợi tạo hứng nâng cao ý thức tích cực, tự giác, biết chia sẻ, giúp đỡ nhau trong hoạt động . - Thu thập và bảo quản đầy đủ các minh chứng làm cơ sở cho việc đánh giá xếp loại học sinh theo thông tư 30 của Bộ giáo dục và Đào tạo. 8 - Ban giám hiệu kiểm tra dưới nhiều hình thức: dự giờ thăm lớp, kiểm tra hồ sơ sổ sách của giáo viên, vở ghi chép của học sinh,....kiểm tra định kì, kiểm đột xuất, quan sát hàng ngày,... Biện pháp 3: Chỉ đạo công tác giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4(HS yếu kém) và học sinh hoàn thành môn học ở mức độ thấp. Để nâng cao chất lượng dạy học môn toán lớp 4, ngoài việc thực hiện dạy học đúng đủ nội dung chương trình qui định thì công tác giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 4(HS yếu kém) và học sinh hoàn thành môn học ở mức độ thấp rất cần thiết mà mỗi giáo viên chúng ta cần phải quan tâm và thực hiện thường xuyên liên tục trong cả năm học. Vì vậy, tôi đã chỉ đạo giáo viên thực hiện như sau: 3.1 Phân loại đối tượng : Việc làm này, ngay từ đầu năm học, tôi đã yêu cầu giáo viên phải theo dõi thường xuyên cụ thể kết quả học tâp hàng ngày của mỗi học sinh trong lớp mình phụ trách kết hợp với khảo sát chất lượng để sớm phát hiện, nắm bắt trình độ của từng học sinh. từ đó phân loại học sinh chưa hoàn thành bài học môn toán lớp 4(HS yếu kém) và học sinh hoàn thành bài học môn học ở mức độ thấp theo các nguyên nhân..Tìm hiểu, phân tích nguyên nhân dẫn đến tình hình học sinh gặp khó khăn trong học tập đối với từng em. Tiến hành phân loại học sinh học yếu theo những nguyên nhân chủ yếu.( Ví dụ như: Do hổng kiến thức từ lớp dưới, do thái độ học tập không đúng, do điều kiện hoàn cảnh gia đình, do trí tuệ chậm phát triển...) 3.2 Lập kế hoạch giúp đỡ, phụ đạo: Khi nắm được nguyên nhân dẫn đến học sinh học chưa hoàn thành bài học, môn học( yếu, kém) hoặc mới hoàn thành ở mức độ thấp(đạt điểm 5) về môn Toán của từng em, tôi đã hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học sinh thuộc đói tượng này với yêu cầu: Lập kế hoạch phải phù hợp với từng đối tượng học sinh kể cả tiết chính khóa cũng như tiết phụ đạo. Nội dung kế hoạch phải xuyên suốt cả năm học và cụ thể cho từng tuần, từng tháng. Nội dung các tiết phụ đạo tập trung rèn luyện kĩ năng và ôn tập các kiến thức đã học cho học sinh. Đặc biệt giúp các em củng cố những kiến thức cơ bản theo yêu cầu chuẩn kĩ năng kiến thức của lớp dưới mà các em còn bị hổng. Như nhớ được bảng nhân, bảng chia, giải được một số dạng toán cơ bản đã học ở lớp dưới... Mục đích là lấp lỗ hổng về kiến thức cho học sinh.Khi nắm được nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu, kém về môn Toán của từng em. * Ví dụ: Nội dung phụ đạo học sinh học yếu môn Toán lớp 4: - Tháng 9: Khảo sát, tìm hiểu nguyên nhân, phân loại học sinh. Củng cố về bảng nhân, bảng chia kết hợp ôn tập về các số đến 100.000, rèn kĩ năng thực hiện phép cộng phép trừ trong phạm vi 1000, phép nhân phép chia các số có 1 chữ số, kết hợp với củng cố về tìm thành phần chưa biết của phép tính - Tháng 10:Tiếp tục củng cố kĩ năng thực hiện phép cộng phép trừ kết hợp đọc, viết, so sánh các số có nhiều chữ số, củng cố về giải toán có lời văn. Củng cố mối quan hệ các đơn vị đo lường và vận dụng làm toán có lời văn. 9 - Tháng 11: Củng cố về kĩ năng thực hiện các phép tính với các số tự nhiên, Biểu thức chứa chữ, kết hợp giải các bài toán điển hình( Tìm số TBC;Tìm hai số khi biết tổng và hiệu)….. Cứ tiếp tục như vậy, kế hoạch phải thể hiện rõ nội dung cần giúp đỡ phụ đạo cho cả năm học. Kế hoạch bồi dưỡng phải có chỉ tiêu phấn đấu cụ thể. Ví dụ: cuối học kì I không còn tình trạng học sinh bị hổng kiến thức đã học. Học kì II, các em học đến đâu phải đạt yêu cầu đến đó (theo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình toán lớp 4). Đến cuối năm học, không còn học sinh nào học yếu môn toán. Lập sổ theo dõi quá trình phụ đạo nắm bắt kết quả tiến bội của học sinh(suốt cả năm học). 3.3 Xây dựng kế hoạch bài dạy cụ thể cho từng buổi, từng tiết Để thực hiện kế hoạch, nội dung, chương trình giúp đỡ, phụ đạo học sinh chưa hoàn thành bài học, môn học( yếu, kém) hoặc mới hoàn thành ở mức độ thấp( đạt điểm 5) về môn Toán, tôi chỉ đạo giáo viên: Phải căn cứ vào trình độ học sinh của lớp mình, căn cứ vào những phần kiến thức các em còn hổng, còn chưa nắm vững,… để xây dựng kế hoạch dạy học một cách phù hợp cho từng tiết, từng tuần và từng giai đoạn học tập theo định hướng: học sinh yếu, hổng kiến thức ở nội dung nào thì tập trung hướng dẫn ôn luyện, thực hành ở nội dung đó nhằm giúp học sinh đạt được yêu cầu cơ bản về kiến thức kĩ năng của bài học. Giáo viên được chủ động xây dựng kế hoạch phù hợp với trình độ học sinh, thực tế lớp học của mình trên cơ sở đảm bảo mục tiêu và phải được sự thống nhất của tổ, khối chuyên môn, xét duyệt của ban giám hiệu. Nội dung các tiết phải tập trung rèn luyện kĩ năng và ôn tập các kiến thức đã học cho học sinh. Đặc biệt giúp các em củng cố những kiến thức cơ bản theo yêu cầu chuẩn kĩ năng kiến thức của lớp dưới mà các em còn bị hổng. Như nhớ được bảng nhân, bảng chia, giải được một số dạng toán cơ bản đã học ở lớp dưới... Mục đích là lấp lỗ hổng về kiến thức cho học sinh. Việc củng cố kiến thức đã học thực hiện đồng thời với việc dạy kiến thức mới của lớp 4. Căn cứ vào yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài, giáo viên giúp học sinh yếu tiếp thu những kiến thức và làm bài tập vừa sức với các em. Cuối tuần kiểm tra 1 lần, cuối mỗi tháng, mỗi kỳ có bài kiểm tra theo dõi kết quả học tập của các em. * Lưu ý: kế hoạch bài dạy, giáo viên cần thể hiện rõ: + Hệ thống câu hỏi, bài tập, nội dung kiến thức ôn dành cho tất cả các đối tượng học sinh, ( Buổi toán tăng) như: có bài tập, kiến thức ôn dành bồi dưỡng đối tượng học sinh giỏi, trên cơ sở khắc sâu, củng cố và mở rộng những kiến thức cơ bản học sinh đã được học ở buổi 1 (lựa chọn cách giải nhanh, phù hợp, tự đặt đề và giải những bài toán đòi hỏi phát triển tư duy...), không lạm dụng vở bài tập Toán + Bài soạn phải được kí duyệt trước khi thực hiện dạy trên lớp theo hàng tuần (Ban giám hiệu duyệt ) 3.4 Hoạt động dạy trên lớp 10 Sau khi đã phân loại được đối tượng học sinh, giáo viên cần nghiên cứu, sắp xếp và tổ chức lớp học một cách phù hợp theo từng đối tượng học sinh: Yếu Trung bình - Khá giỏi. Việc này giúp giáo viên thuận lợi trong việc giao bài tập, hướng dẫn và giúp đỡ từng đối tượng học sinh. Giáo viên có thể đặt tên cho từng nhóm đối tượng, tuy nhiên cần tế nhị trong đặt tên nhóm, có thể là: Gấu đỏ - Sơn Ca - Thỏ trắng... tránh đặt theo nhận thức của học sinh là Yếu - Trung bình - Khá giỏi vì như vậy sẽ tạo sự mặc cảm cho các em. Trong các tiết học giáo viên phải tạo cơ hội cho tất cả các em được hoạt động cho dù là đối tượng học sinh giỏi hay học sinh yểu. Bằng mọi cách phải lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập, tránh tình trạng giáo viên để học sinh ngoài lề. Trong một tiết học, đến phần bài tập giáo viên phân bài cho từng đối tượng học sinh: Ví dụ: Bài tập 1; 2 cho nhóm yếu làm; Bài tập 1; 2; 3 cho nhóm trung bình làm. Bài tập 2; 3; 4 cho nhóm khá giỏi làm. Cần thực hiện linh hoạt khi tổ chức các hoạt động học tập. Như trong quá trình dạy bài mới, nếu có học sinh không nắm được kiến thức mới do hổng kiến thức lớp dưới hoặc kiến thức bài học trước thì thực hiện như sau: Trong phần bài mới vẫn cho học sinh theo dõi bình thường, đến phần bài tập, hay là tiết luyện tập, giáo viên cho những học sinh chậm làm các bài mà kiến thức liên quan đến lớp dưới, cho học sinh nhắc lại kiến thức cũ rồi hướng dẫn phần kiến thức mới của bài học. Ví dụ: Khi học sinh làm bài tập 1284 : 6 = ? với bài này học sinh không thực hiện chia được, chứng tỏ học sinh không thuộc bảng nhân 6, bảng chia 6. Vậy giáo viên giúp học sinh ôn lại bảng nhân, bảng chia 6 bằng nhiều hình thức như yêu cầu các em làm bài tập: Điền số thích hợp vào chỗ chấm: 6  2 =.... ; 6  5 = ....; 6  3 =... ; 6  4= ...; 12: 6=....; 24: 6 =....v v. Hay thi đọc bảng nhân 6....để các em thuộc bảng nhân, bảng chia 6. Từ đó hướng dẫn các em thực hiện phép chia trên. Tức là phát hiện học sinh hổng kiến thức ở đâu thì giáo vên phải linh hoạt điều chỉnh nội dung dạy để ôn tập, bổ sung ở đó. - Với buổi dành riêng cho giúp đỡ, phụ đạo học sinh yếu giáo viên cần lựa chọn hệ thống câu hỏi gợi mở, nội dung bài tập ở mức độ dễ để tạo cho các em có sự hứng thú tự tin trong học toán, có thể tăng dần theo mức độ hiểu bài của các em. Chẳng hạn: Củng cố kĩ năng giải toán, bước đầu nên đưa ra các dạng cơ bản nhất, đơn giản nhất mang tính chất vận dụng củng cố lý thuyết như: Bài toán đã cho biết hết các điều kiện, chỉ cần tìm yêu cầu của bài toán. Ví dụ 1: Mỗi quyển vở có 48 trang. Hỏi 25 quyển vở cùng loại có tất cả bao nhiêu trang?( bài 3 trang 69 SGK Toán 4) Điều kiện bài toán : Mỗi quyển vở có: 48 trang Yêu cầu bài toán: 25 quyển vở có: … trang? Ví dụ 2: Một mảnh đất trồng hoa hình bình hành có độ dài đáy là 40dm, chiều cao là 25dm. Tính diện tích mảnh đất đó? (Bài 4 trang 105 SGK Toán 4) Ví dụ 3: Người ta đổ 128 610l xăng vào 6 bể. Hỏi mỗi bể đó có bao nhiêu lít xăng? (Bài 2 trang 77 SGK Toán lớp 4) Điều kiện bài toán: 6 bể chứa: 128 610l xăng. Yêu cầu bài toán : 1 bể chứa : … l xăng? 11 Không nên ra những bài lắt léo hay những bài toán phải qua nhiều bước trung gian mới về dạng cơ bản. Để giúp các em giải đúng một bài toán, giáo viên phải hướng dẫn học sinh thực hiện tuần tự và đầy đủ theo 4 bước: Chẳng han bài toán : Một mảnh đất trồng hoa hình bình hành có độ dài đáy là 40dm, chiều cao là 25dm. Tính diện tích mảnh đất đó? (Bài 4 trang 105 SGK Toán 4) Bước 1: Tìm hiểu nội dung của bài toán: Yêu cầu học sinh đọc kĩ để toán và trả lời: Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? (học sinh trả lời – nhận xét) Để tính được diện tích mảnh đất hình bình hành ta làm như thế nào? (HS nêu – nhận xét) Bước 2: Tìm tòi cách giải của bài toán: Căn cứ vào dạng toán chúng ta vận dụng cách tóm tắt nào? (ngôn ngữ) Yêu cầu HS tóm tắt được bài toán. Tóm tắt: Độ dài đáy: 40dm Chiều cao : 25dm Diện tích : …dm2 ? * Phân tích, tìm cách giải: - Muốn tính diện tích hình bình hành ta làm thế nào? (Ta lấy độ dài đáy nhân với chiều cao (cùng đơn vị đo).) Quá trình phân tích trên GV lần lượt hướng dẫn học sinh lập sơ đồ ghi vắn tắt cách giải như sau: Diện tích = Độ dài đáy  chiều cao 40dm 25dm Sau khi học sinh đã biết cách phân tích bài toán trước lúc giải một bài toán có lời văn, GV yêu cầu mỗi học sinh tự lập sơ đồ cách giải vào giấy nháp rồi giải bài toán. Bước 3: Hướng dẫn thực hiện cách giải bài toán: Hướng dẫn học sinh nhìn sơ đồ để trình bày hoàn chỉnh bài giải: Tìm đủ điều kiện bài toán rồi mới tìm yêu cầu) Bài giải: Diện tích mảnh đất hình bình hành đó là: 40  25 = 1000 (dm2) Đáp số: 1000 dm2 Bước 4: Kiểm tra kết quả của bài toán: Yêu cầu học sinh tự kiểm tra lại kết quả của bài giải xem đã đúng hay chưa. *Tôi lưu ý với giáo viên: Khi hướng dẫn cho học sinh củng cố kĩ năng kiến thức từng nội dung, từng dạng bài, giáo viên phải hướng dẫn gợi mở từng bước cụ thể, giúp học sinh từng bước tiếp cận nội cung vấn đề đang củng cố. 12 Sau mỗi dạng bài, qua từng giai đoạn, giáo viên cần khảo sát để thấy được sự tiến bộ của học sinh đồng thời nắm bắt những kiến thức còn hổng để có kế hoạch và biện pháp bồi dưỡng phụ đạo phù hợp, hiệu quả. - Hình thức tổ chức dạy học: Giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung ôn luyện của từng tiết để lựa chọn các hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Từ đó có sự chuẩn bị đồ dùng hỗ trợ của đồ dùng. Chẳng hạn: Tổ chức theo cá nhân: có thể chuẩn bị phiếu học tập cá nhân, Tổ chức theo nhóm, chuẩn bị phiếu học tập theo nhóm... Đối với việc tổ chức theo nhóm, giáo viên cần thường xuyên thay đổi nhóm trưởng để tất cả các em đều có cơ hội tham gia và bày tỏ ý kiến của mình đồng thời rèn luyện kĩ năng giao tiếp, sự tự tin cho các em... Giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm đối tượng theo từng tiết học, hệ thống câu hỏi, bài tập có thể được chuẩn bị trên phiếu giao việc nhóm, cá nhân hoặc yêu cầu về hoàn thiện kiến thức, bài học trong các tiết, các bài học cụ thể của buổi 1.Trong quá trình giao nhiệm vụ giáo viên cần khuyến khích để học sinh thực hiện và hoàn thành yêu cầu, đạt được chuẩn về kiến thức kĩ năng, đồng thời phát huy sự tiến bộ của các em: học sinh thực hiện xong yêu cầu của mình có thể thực hiện yêu cầu của nhóm khác, cao hơn (đối với đối tượng học sinh yếu, trung bình). Hay: Tổ chức cho học sinh cũng cố kiến thức dưới dạng trò chơi. Ví dụ: Khi hướng dẫn HS ôn tập, củng cố và rèn luyện kĩ năng tìm phân số bằng nhau, giáo viên có thể tổ chức trò chơi “Tìm bạn”. Mục đích: - Giúp học sinh tìm được các phân số bằng phân số đã cho. - Rèn luyện sự nhanh nhạy, thân mật với bạn. Chuẩn bị: Một số thẻ màu xanh ghi các phân số; Một số thẻ màu đỏ ghi các phân số bằng các phân số đã cho tương ứng với mỗi phân số trên thẻ màu xanh Cách chơi: Giaó viên chia lớp thành các nhóm nhỏ, mỗi lượt chơi có 4 nhóm tham gia, số học sinh trong mỗi nhóm đều như nhau. Nhóm 1 và nhóm 3 được giáo viên phát cho mỗi em 1 thẻ màu xanh. Nhóm 2 và nhóm 4 được giáo viên phát cho mỗi em 1 thẻ màu đỏ, thẻ đỏ của nhóm 2 và nhóm 4 là những phân số bằng phân số đã cho của các nhóm 1 và nhóm 3. Một em ở nhóm 1 giơ thẻ xanh. Em nào của nhóm 2 có phân số phù hợp sẽ chạy đến bên em đó. Tương tự như vậy đối với nhóm 4 và 3 . Hai nhóm nào trong số 4 nhóm (nhóm 1 và nhóm 2 hoặc nhóm 3 và nhóm 4) tìm đến bạn cùng cặp nhanh hơn là 2 nhóm thắng cuộc. Hay: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Cá mẹ tìm cá con” để củng cố kĩ năng thực hện các phép tính. Mục đích: Rèn luyện học sinh kỹ năng tính nhanh, đúng Chuẩn bị: 6 con cá mẹ làm bằng giấy bìa cứng có ghi phép tính. 6 con cá con làm bằng giấy bìa cứng có ghi kết quả tính. Cách chơi: GV cho 12 HS tham gia chơi, 6 em cầm 6 con cá mẹ, 6 em cầm 6 con cá con. Yêu cầu các em cầm cá mẹ tìm đúng cá con của mình (sao cho phép tình trên mình cá mẹ tương ứng với kết quả đúng trên mình cá con). Như vậy không những giúp các em củng cố được kiến thức, rèn được kĩ năng tính toán mà còn làm tạo cho quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui, hấp dẫn, các em sẽ yêu thích học toán hơn. 13 - Đánh giá kết quả học tập của học sinh qua mỗi tiết. + Giáo viên chủ động phân phối thời gian, phân chia bảng một cách hợp lí để chữa bài, đánh giá, củng cố kiến thức cho từng đối tượng học sinh. Hệ thống các câu hỏi, bài tập của các nhóm phải được trình bày và nhận xét đầy đủ để các em thấy được kết quả bài làm của mình là đúng hay sai, là sáng tạo hay còn hạn chế ở điểm nào. Có thể tiến hành chữa bài (học sinh thực hiện) cùng một lúc trên bảng với các nhóm đối tượng học sinh, sau đó tiến hành nhận xét và sửa sai, chốt kiến thức trọng tâm cho từng đối tượng. + Tổ chức cho học sinh tự kiểm tra, nhận xét kết quả bài làm của nhau (đối với hình thức cá nhân), các nhóm nhận xét bài của nhóm bạn (đối với tổ chức theo nhóm đối tượng). 3.5 Kiểm tra kết quả thực hiện của giáo viên. - Ban giám hiệu, tổ chuyên môn thường xuyên dự giờ, rút kinh nghiệm để giáo viên thấy được những ưu điểm và hạn chế trong quá trình thực hiện. - Kiểm tra, khảo sát chất lượng của học sinh nhằm nắm bắt sự tiến bộ của các em từ đó chỉ đạo điều chỉnh nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách phù hợp. - Tổ chức và chỉ đạo các đợt kiểm tra định kì đảm bảo nghiêm túc, đúng quy chế , lấy chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn của các môn học nói chung và môn Toán nói riêng là một trong những tiêu chí để đánh giá xếp loại thi đua giáo viên hàng năm.. 3.6 Quan tâm động viên kịp thời học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Bên cạnh việc giúp đỡ, phụ đạo nêu trên, tôi còn chỉ đạo giáo viên cần quan tâm, hỗ trợ, động viên các em một cách tích cực. Ví dụ: học sinh học yếu nguyên nhân do điều kiện hoàn cảnh gia đình, ngoài việc tích cực hỗ trợ cho các em lấp lỗ hổng kiến thức đồng thời phải có sự quan tâm đặc biệt về tình cảm và vật chất như: thường xuyên đến thăm một số gia đình học sinh ( trong khối 4 như gia đình em lê Ngọc Anh lớp 4A, gia đình em Bùi Văn Dương lớp 4A, gia đình em Lê Duy Nghĩa lớp 4C ... )và một số gia đình học sinh khó khăn khác. Chia sẻ, cảm thông được nỗi vất vả của các em, tôi đề nghị hiệu trưởng nhà trường hỗ trợ cho các em quần áo, sách vở, kết hợp Hội chữ thập đỏ trao quà cho các em trong dịp Tết Nguyên Đán...hay khi ở trường, trong giờ học, giờ ra chơi, thường xuyên gần gũi, tâm sự với các em, hỏi thăm hoặc kể cho em nghe một số tấm gương biết vượt khó trong học tập, giúp em khỏi mặc cảm với số phận và cố gắng vươn lên trong học tập. 3.7. Gây hứng thú học tập cho học sinh. Để gây hứng thú cho các em học tập, trong dạy học toán, tôi chỉ đạo giáo viên có thể thực hiện như sau: Trong các tiết học vận dung các hình thức dạy tích cực như: Tổ chức hoạt động nhóm (hoặc tổ chức làm bài theo hình thức tiếp sức) có thi đua giữa các nhóm, tất cả các thành viên trong nhóm đều được giao phần việc làm vừa sức phù hợp với năng lực từng em, các nhóm học tập linh hoạt thay đổi như nhóm nhỏ, nhóm lớn, nhóm cùng trình độ, nhóm ngẫu nhiên... Giáo viên phải tạo cơ hội cho tất cả các em được phát biểu, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu. Động viên khuyến khích kịp thời khi học sinh có tiến bộ dù là nhỏ nhất để học sinh yếu mạnh dạn, tự tin hơn. Thường xuyên tổ chức "Hội vui học tập" vào các tiết hoạt 14 động tập thể. Hoặc tổ chức trò chơi có lồng nội dung Toán học: Hái hoa dân chủ, Tuổi thơ khám phá… 3.8 Tổ chức phong trào đôi bạn cùng tiến, xây dựng môi trường học tập thân thiện Tôi đã chỉ đạo giáo viên: Ở lớp cũng như ở nhà, cần phân công, tổ chức cho học sinh khá, giỏi thường xuyên giúp đỡ các bạn chậm hơn. Tổ chức thi đua giữa các nhóm giúp bạn, nếu bạn nào có tiến bộ thì biểu dương cả nhóm vào tiết chào cờ sáng thứ 2 đầu tuần. Ở nhà, giáo viên sắp xếp các em gần nhà nhau thành 1 nhóm và cử 1 học sinh làm nhóm trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ nhắc nhở, kiểm tra việc học bài, làm bài của các bạn và báo cáo với cô giáo chủ nhiệm vào đầu mỗi buổi học. Giáo viên kiên trì uốn nắn và sửa những thói quen xấu của các em như: chưa đọc kĩ đề bài trước khi làm bài tập, tính toán cẩu thả, không làm nháp hoặc viết lộn xộn, phát biểu không chính xác, trình bày bài tuỳ tiện, giải toán xong không chịu thử lại… Khuyến khích, động viên đúng lúc, kịp thời khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả (dù sự tiến bộ nhỏ nhất); Biện pháp 4: Đổi mới trong đánh giá xếp loại giáo viên và học sinh Những năm gần đây, tôi cùng các đồng chí trong ban giám hiệu đã tổ chức đánh giá xếp loại giáo viên thông qua hiệu quả dạy học. Trong một giờ dạy, giáo viên đã truyền tải cho các đối tượng học sinh nắm được những kiến thức kĩ năng gì? Giáo viên đã sử dụng những hình thức dạy học nào phù hợp với các đối tượng học sinh, kiểm soát được hoạt động nhận thức của các đối tượng học sinh trong lớp. Từ đó chúng tôi xét đến phương pháp dạy học của giáo viên đã phù hợp chưa? và xây dựng được kế hoạch dạy cho lần sau sát với thực tế hơn. Giáo viên có bao quát được lớp học hay không. Quá trình đánh giá xếp loại giáo viên chúng tôi phải căn cứ vào hiệu quả tiết học và kết quả học tập của học sinh trong tiết học đó, xa hơn là kết quả trong năm học. Trong quá trình kiểm tra hồ sơ giáo viên (có thể định kỳ hoặc đột xuất), tôi quan tâm đến tính khả thi của kế hoạch dạy học, quan tâm đến kế hoạch dành cho các đối tượng học sinh, ... ( có khi chỉ là các gạch đầu hàng nhưng có giá trị thực tiễn cao) mà không nặng nề việc “trình bày đẹp” các bước lên lớp hay. * Chỉ đạo về kiểm tra- đánh giá kết quả việc học tập của học sinh Thực hiện việc đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 Quy định đánh giá học sinh tiểu học (sau đây gọi tắt là TT 30/2014). Tôi cùng các đồng chí trong ban giám hiệu đã tổ chức tập huấn, triển khai tới tất cả giáo viên trong trường, giúp đỡ GV, học sinh, phụ huynh hiểu đúng và hiểu đầy đủ về ý nghĩa của việc đổi mới đánh giá học sinh theo tinh thần Thông tư 30/2014. Yêu cầu giáo viên nghiêm tức thực hiện đánh giá xếp loại học sinh theo tinh thần của thông tư. Chỉ đạo giáo viên nghiêm túc thực hiện đánh giá học sinh theo ba nội dung đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư 30/2014 đó là: 15 - Đánh giá quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học và hoạt động giáo dục khác theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học. - Đánh giá sự hình thành và phát triển một số năng lực của học sinh: Tự phục vụ, tự quản; Giao tiếp, hợp tác; Tự học và giải quyết vấn đề. - Đánh giá sự hình thành và phát triển một số phẩm chất của học sinh: Chăm học, chăm làm; tích cực tham gia hoạt động giáo dục; Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; Trung thực, kỉ luật, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất nước. Cách thức đánh giá học sinh tiểu học gồm: - Đánh giá thường xuyên (cả ba nội dung đánh giá) trong quá trình học hàng ngày: Nhận xét bằng lời hoặc viết, không dùng điểm số. - Đánh giá định kì cuối học kì I, cuối năm học đối với các môn học Tiếng Việt, Toán, Khoa học, Lịch sử và Địa lí, Ngoại ngữ, Tin học, Tiếng dân tộc bằng bài kiểm tra định kì bằng bài kiểm tra định kì (có nhận xét, sửa lỗi và cho điểm). - Tổng hợp đánh giá vào cuối học kì I, cuối năm học. * Đặc biệt tôi lưu ý: Đánh giá thường xuyên quá trình học tập môn Toán của học sinh được thực hiện theo tiến trình dạy học các bài học ở trên lớp và cả quá trình vận dụng kiến thức, kĩ năng ở nhà trường, gia đình. Tham gia đánh giá thường xuyên hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập môn Toán theo chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học gồm: giáo viên, học sinh (tự đánh giá và nhận xét, góp ý bạn qua hoạt động của nhóm, lớp); khuyến khích sự tham gia đánh giá của cha mẹ học sinh. Trong quá trình dạy học môn Toán, để đánh giá thường xuyên, căn cứ vào đặc điểm và mục tiêu của bài học, của mỗi hoạt động mà học sinh phải thực hiện trong bài học, giáo viên tiến hành một số việc như sau: Quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra quá trình và từng kết quả thực hiện nhiệm vụ của học sinh, nhóm học sinh theo tiến trình dạy học; Nhận xét bằng lời nói trực tiếp với học sinh hoặc viết nhận xét vào phiếu, vở của học sinh về những kết quả đã làm được hoặc chưa làm được; mức độ hiểu biết và năng lực vận dụng kiến thức; mức độ thành thạo các thao tác, kĩ năng cần thiết, phù hợp với yêu cầu của bài học, hoạt động của học sinh. Quan tâm tiến độ hoàn thành từng nhiệm vụ của học sinh; áp dụng biện pháp cụ thể để kịp thời giúp đỡ học sinh vượt qua khó khăn trong giờ học Toán. Vì vậy, trong các giờ học Toán, giáo viên sử dụng các kĩ thuật quan sát, theo dõi; trao đổi, phỏng vấn; kiểm tra nhanh (phiếu, vở); nhận xét (lời, viết) để đánh giá thường xuyên... Hàng tuần, giáo viên lưu ý những kết quả học sinh đã đạt được hoặc chưa đạt được; tìm biện pháp cụ thể giúp học sinh vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ; những điều cần đặc biệt lưu ý để giúp học sinh học tốt môn Toán. Hàng tháng, giáo viên ghi nhận xét vào sổ theo dõi chất lượng giáo dục về mức độ hoàn thành nội dung học tập môn Toán trong tháng; dự kiến và áp dụng biện pháp cụ thể, riêng biệt giúp đỡ kịp thời đối với những học sinh chưa hoàn thành nội dung học tập môn Toán trong tháng. Vào cuối học kì I, cuối năm học, giáo viên chủ nhiệm kết hợp với phụ huynh, thông qua nhận xét quá trình và kết 16 quả học tập để tổng hợp đánh giá quá trình học tập môn Toán, những đặc điểm nổi bật, sự tiến bộ, hạn chế, mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập theo chuẩn kiến thức, kĩ năng; năng khiếu, hứng thú về môn Toán, xếp loại từng học sinh đối với môn Toán: Hoàn thành hoặc Chưa hoàn thành. Ban Giám hiệu tổ chức dự giờ, thao giảng các môn học và hoạt động giáo dục, trong đó, chú trọng đến việc áp dụng thực hiện đánh giá thường xuyên bằng nhận xét trong quá trình dạy học của GV trên lớp theo thông tư. Góp ý, hướng dẫn để GV điều chỉnh và mạnh dạn tự tin hơn trong việc thực hiện đánh giá thường xuyên bằng nhận xét trong giờ dạy. Đặc biệt trong dạy học Toán, ngoài việc hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập để nắm kiến thức giáo viên phải kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của HS để động viên, khích lệ và phát hiện những hạn chế của các em để hướng dẫn, giúp đỡ, nhằm giảm áp lực học tập đối với học sinh nói chung, đặc biệt là đối với học sinh yếu chưa hoàn thành bài học. Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh. Xây dựng mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội là một trong những điểm quan trọng giúp phụ huynh quan tâm tới việc học tập ở nhà của con em mình. Vì vậy: Tôi chỉ đạo giáo viên phải tuyên truyền, nâng cao nhận thức của phụ huynh về trách nhiệm lớn lao của phụ huynh và gia đình trong việc góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Tôi yêu cầu giáo viên phải thừng xuyên trao đổi để tìm ra biện pháp tốt nhất phù hợp với điều kiện và tính cách từng em và từng bước giải quyết những thiếu sót trong quá trình học tập giáo dục, nhất là việc chuẩn bị bài của buổi học tiếp theo giúp các em vươn lên trong học tập. Giáo viên phải hướng dẫn phụ huynh biết kiểm tra việc học tập của con mình, giúp đỡ các em trong quá trình học tập ở nhà , quản lý thời gian biểu của con em, ghi đầy đủ lời nhận xét vào sổ (đảm bảo thông tin 2 chiều). Từ đó làm căn cứ để đánh giá xếp loại học sinh. Khi thấy có em A chưa tiến bộ cần chủ động gặp phụ huynh để trao đổi về việc học tập của học sinh tiếp tục cùng với phụ huynh điều chỉnh biện pháp phù hợp và có hiệu quả hơn. Qua đó, thấy được sự lo lắng của giáo viên nên phụ huynh đã thường xuyên kiểm tra việc học bài, làm bài của con em mình, đôn đốc các em đi học chuyên cần. Vì vậy, Học sinh lớp 4 của nhà trường đã tiến bộ lên rất nhiều. Biện pháp 6: Cải tiến nội dung, nâng cao chất lượng các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn. - Thực hiện công tác chuyên môn, tôi cùng các đồng chí trong ban giám hiệu chỉ đạo sinh hoạt 2 tuần/ 1 lần; Đặc biệt, tôi thường xuyên dự các buổi sinh hoạt chuyên môn để quản lí, chỉ đạo, giúp giáo viên tháo gỡ khó khăn trong chuyên môn. Hướng dẫn các tổ trưởng chuẩn bị nội dung sinh hoạt chú ý dành nhiều thời gian thảo luận bàn bạc xoay quanh việc “Làm thế nào để nâng cao hiệu quả giờ dạy, nâng cao chất lượng học tập của học sinh”. Hay tháo gỡ những khó khăn trong quá trình giảng dạy và thực hiện nhiệm vụ năm học dạy học và giáo dục học sinh đạt hiệu quả hơn. Đặc biệt chú trọng đến các giải pháp nâng cao chất lượng học sinh năng khiếu và guips đỡ phụ đạo những hoạc sinh chưa hoàn thành bài học, môn học; điều chỉnh nội dung tài liệu hướng dẫn học cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp. 17 - Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng giáo viên trong khối đảm nhiệm giúp đỡ kèm cặp, yêu cầu giáo viên(cứ hai tuần một lần, trong buổi sinh chuyên môn, giáo viên báo cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh đặc biệt là những em “yếu”, từ đó tập thể giáo viên cùng nhau thảo luận tìm cách để tháo gỡ những vướng mắc trong thực tế với tổ chuyên môn và với nhà trường về tình hình học sinh học đặc biệt là học sinh “yếu” môn toán và các môn học khác. Giao nhiệm vụ cho tổ trưởng theo dõi việc giúp đỡ phụ đạo học sinh “yếu” của khối mình. Chỉ đạo tổ chuyên môn thường xuyên tổ chức kiến tập, thực tập môn toán để góp ý, đúc rút kinh nghiệm. Đây là một việc làm cụ thể, trực tiếp mà hiệu quả. Nhờ đó mà tay nghề của giáo viên được nâng cao. Mặt khác trong tổ chuyên môn, xây dựng “ con chim đầu đàn” để từ đó nhân điển hình để cho các đồng chí khác đặc biệt là các đồng chí mới được phân công về dạy ở khối mình. III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN Sau khi vận dụng một số biện pháp chỉ đạo chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán khối 4 trong nhà trường Tiểu học” vào thực tế chỉ đạo công tác dạy- học của toàn trường nói chung và đặc biệt ở khối 4 nói riêng, tôi thấy chất lượng về môn toán năm học 2015-2016 được nâng lên rõ rệt. Thật đáng mừng khi các em học sinh đạt điểm 9-10 và điểm 7-8 tăng lên, tỉ lệ học sinh dưới điểm 5giảm hẳn. *) Kết quả kiểm tra định kì cuối học kì I về môn Toán ở khối lớp 4: Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 6-5 Điểm < 5 SL TL SL TL SL TL SL TL SHS 102 31 30,3 33 32,5 36 35,3 2 1,9 *) Kết quả khảo sát giữa học kì II về môn Toán ở khối lớp 4: Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 6-5 Điểm < 5 SHS SL TL SL TL SL TL SL TL 102 41 40,2 31 30,4 30 29,4 0 0 So sánh với kết quả khảo sát đầu năm tôi nhận thấy: Nhờ thực hiện tốt các giải chỉ đạo chuyên môn như trên, chất lượng học tập môn toán lớp 4 của trường tôi được nâng lên rõ rệt. Tất cả học sinh chưa hoàn thành bài học, môn học ( Học sinh có điểm khảo sát dưới 5)của môn toán ở đầu năm học đã tiến bộ có em đã đạt điểm 5 - 6.và 7. số học sinh đạt điểm 5 - 6 đầu năm nay đạt điểm 7- 8 khá nhiều. Điều đáng mừng hơn là các em đã thích học môn toán hơn và số lượng học sinh yêu thích môn toán ngày càng tăng. Đồng thời, khi vận dụng các giải pháp trên cho toàn trường thực hiện, đến hết học kì I chất lượng nâng bậc học có điểm dưới 5 về môn toán của trường chúng tôi đã giảm hẳn. Toàn trường quyết tâm phấn đấu đến cuối năm học không còn học sinh nào ngồi nhầm lớp về môn toán. PHẦN III: KẾT LUẬN 1. Bài học kinh nghiệm Qua việc chỉ đạo công tác chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán nói chung và môn Toán lớp 4 nói riêng tôi rút ra một số kinh nghiệm sau: 18 Muốn khắc phục và nâng cao chất lượng giáo dục và chất lượng dạy - học ngày một đi lên và có những biện pháp dạy và học đáp ứng được với sự phát triển của đất nước, thì đòi hỏi sự vào cuộc thật sự của các nhà quản lí giáo dục, giáo viên, học sinh và tất cả các lực lượng xã hội có liên quan. *Với các nhà quản lý: Phải gương mẫu nhiệt tình, có trình độ chuyên môn nghiệp vu, kĩ năng quản lý. Phải nắm vững các văn bản chỉ đạo chuyên môn, nắm vững đặc điểm, nội dung chương trình sách giáo khoa Toán 4 để chỉ đạo giáo viên thực hiện dạy học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng. Khuyến khích giáo viên chủ động và sáng tạo trong giảng dạy, đồng thời yêu cầu giáo viên trân trọng mọi cố gắng, mọi sáng tạo dù còn nhỏ bé của từng học sinh Tạo thêm điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học theo yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông. * Với giáo viên phải: - Tăng cường tự học tự bồi dưỡng, nghiên cứ các văn bản chỉ đạo về chuyên môn để nắm chắc mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy học ở Tiểu học, thực hiện dạy và học theo đúng qui đinh . - Giáo viên cần căn cứ vào hướng dẫn thực hiện chương trình và điều chỉnh nội dung dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo để xác định mục tiêu dạy học và kiểm tra đánh giá học sinh; chủ động thiết kế bài giảng khoa học, sắp xếp hợp lý hoạt động của giáo viên và học sinh; điều chỉnh nội dung dạy học, tổ chức dạy học đảm bảo các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và sát với đối tượng học sinh. - Tham gia giảng dạy tích cực và nhiệt tình trong đổi mới PPDH Tổ chức hướng dẫn các phương pháp học tập phát huy tính tích cực, tính tự học, tự phát hiện cái mới, cái hay,… để tự chiếm lĩnh tri thức., góp phần chứng minh ưu thế và hiệu quả việc giảng dạy môn toán. - Công tác chuẩn bị từng bài dạy thật kĩ phù hợp từng nội dung, soạn giảng chu đáo gọn nhẹ. - Trong tiết học toán giáo viên cần nắm được từng đối tượng học sinh, tạo điều kiện cho các em học một cách nhẹ nhàng tự nhiên, không gò bó căng thẳng để các em có hứng thú và ham thích học môn Toán nhiều hơn. - Phải thực sự yêu nghề mến trẻ, tận tâm, tận lực để giáo dục và phụ đạo các em với tất cả tâm huyết của mình. Giáo viên phải kịp thời phát hiện ra những học sinh yếu, kém.Tìm ra nguyên nhân cùng với những biểu hiện của học sinh yếu kém về môn Toán. Lập kế hoạch và đề ra các biện pháp phụ đạo cụ thể, rõ ràng; khi lên lớp phải nghiên cứu kĩ mục tiêu bài dạy để đề ra phương pháp và hình thức dạy học thích hợp, giúp các em thích thú học tập và dễ tiếp thu bài. - Áp dụng thường xuyên các biện pháp phụ đạo học sinh yếu, kém môn toán song song với các môn học khác đối với tất cả học sinh yếu các khối lớp. - Cần nêu vấn đề để phát huy năng lực cá nhân, tạo lập mối quan hệ hợp tác giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh, giữa học sinh- giáo viên và cộng đồng. 2. Kiến nghị: 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan