Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT
Tập V-1, Số 1, tháng 04/2009
Một phương pháp giải quyết xung đột
để nâng cao chất lượng hoạt động của
mạng chuyển mạch chùm quang
A Contention Resolution Method to Improve the
Performance of Optical Burst Switching Networks
Nguyễn La Giang
Abstract. Contention resolution is very important in
improving the performance of OBS networks. Deflection
routing is one of main solutions which are used for
resolving the burst contentions. This paper proposed a
deflection routing method, which provides one more chance
to contention bursts when deflection failure occurs. The
contention burst will get an opportunity to come back to the
adjacent previous node, and may get routed to the
destination through the backup route available at this node.
The simulation results showed that the proposed method
can decrease the burst loss probability in the low and
medium traffic loads and also improve the link utilization.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, do sự phát triển bùng nổ
của Internet và sự gia tăng của các ứng dụng băng
rộng, nên nhu cầu về khai thác băng thông mạng đã
trở thành một vấn đề được quan tâm rất nhiều. Truyền
dẫn quang với công nghệ WDM được xem như giải
pháp tốt nhất để đáp ứng các đòi hỏi về băng thông
của người sử dụng hiện nay cũng như hỗ trợ cho việc
cung cấp các dịch vụ mạng trong tương lai. Các mạng
quang thế hệ sau được nghiên cứu phát triển cùng với
các hệ thống chuyển mạch quang tiên tiến để chuyển
tải hiệu quả lưu lượng IP. Công nghệ chuyển mạch
chùm quang (OBS) [1] có nhiều ưu điểm, chẳng hạn
không lãng phí tài nguyên như định tuyến bước sóng,
không cần đệm quang như chuyển mạch gói quang,
được xem là giải pháp thích hợp trong giai đoạn tới để
khắc phục các “nút cổ chai” lưu lượng IP tại các nút
chuyển mạch tốc độ cao.
Các gói IP khi đến nút biên của mạng OBS sẽ được
kết hợp lại thành chùm dữ liệu (DB). Sau một khoảng
thời gian hoặc khi đạt đến độ dài nhất định, chùm sẽ
được tạo ra tại nút biên cùng với gói điều khiển chùm
(BCP). BCP chứa các thông tin về chùm như độ dài
chùm, thời gian phát chùm, đích đến, độ ưu tiên,… sẽ
được gửi đi trước chùm dữ liệu và được xử lý điện tử
tại các nút trung gian để đặt trước tài nguyên cho DB.
Sau khi BCP đã đặt trước bước sóng trên toàn tuyến
từ nguồn đến đích thì DB sẽ được phát đi. Do vậy, DB
sẽ không cần phải được đệm và xử lý điện tử tại các
nút trung gian. Nói cách khác DB sẽ được gửi đi hoàn
toàn trong miền quang.
Do không cần đệm nên OBS tiềm ẩn nguy cơ xung
đột chùm (được phát từ các nút biên khác nhau) tại
nút chuyển mạch trung gian, từ đó gây ra tắc nghẽn và
mất chùm. Xung đột xảy ra khi có ít nhất hai chùm đi
đến cùng một nút ở cùng một thời điểm. Để giải quyết
xung đột chùm, có 4 phương pháp cơ bản thường
được thực hiện, đó là: đệm bằng đường trễ quang,
chuyển đổi bước sóng, phân đoạn chùm và định tuyến
lệch hướng [2]. Trong trường hợp không phương pháp
nào được thực hiện thành công thì chỉ có một chùm
được đặt trước tài nguyên còn các chùm xung đột còn
lại sẽ bị huỷ. Đối với phương pháp định tuyến lệch
hướng, các chùm bị xung đột sẽ được gửi tới liên kết
- 49 -
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT
ra khác của nút và sau đó được định tuyến qua một
tuyến khác để đến đích.
Chính sách lựa chọn chùm nào bị huỷ khi xung đột
được gọi là chính sách giải quyết xung đột mềm nhằm
mục tiêu giảm tỉ lệ tổn thất chùm và tăng hiệu quả sử
dụng liên kết [3]. Một số thuật toán giải quyết xung
đột mềm cũng đã được đề xuất, như định tuyến lệch
hướng sử dụng offset bổ sung và định tuyến đường đi
ngắn nhất [4] hay định tuyến lệch hướng sử dụng mô
hình hàng đợi Markov [5]. Trong phân đoạn chùm, chỉ
một phần của chùm liên quan đến xung đột bị huỷ [6].
Các chính sách giải quyết xung đột được xem là các
mô hình phản ứng vì chúng được thực hiện sau khi
xung đột xảy ra. Còn có mô hình khác để giảm xung
đột là chủ động tránh quá tải mạng bằng chính sách
quản lý lưu lượng [3].
Mặt khác, để đánh giá chất lượng mạng OBS, thông
số tổn thất chùm hay gói thường được sử dụng. Do đó,
việc thiết kế phương pháp định tuyến lệch hướng cho
chùm cần phải nhằm mục tiêu có được giá trị tổn thất
chùm thấp nhất.
Trong phương pháp định tuyến lệch hướng thông
thường, chỉ một chùm được chuyển đi theo tuyến
ngắn nhất (gọi là tuyến chính), còn chùm xung đột sẽ
được định tuyến lệch hướng sang tuyến mới (gọi là
tuyến lệch hướng). Tuy nhiên, khi cả tuyến lệch
hướng mới cũng không sẵn có thì thì chùm đó sẽ bị
huỷ.
Bài báo này đề xuất một phương pháp giải quyết
xung đột chùm mới bằng định tuyến lệch hướng kết
hợp với sử dụng thông tin khảo sát về tuyến dự phòng.
Phương pháp này nhằm cố gắng định tuyến chùm một
lần nữa sau khi định tuyến lệch hướng lần đầu không
thành công. Phương pháp đề xuất được đánh giá bằng
các thông số xác suất tổn thất gói, thông lượng, hiệu
quả sử dụng liên kết và việc đánh giá được thực hiện
thông qua mô phỏng.
II. ĐỀ XUẤT PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH TUYẾN
LỆCH HƯỚNG
Tập V-1, Số 1, tháng 04/2009
Trong phương pháp này, nếu như gói điều khiển
không thành công khi đặt trước bước sóng trên đường
đi hoặc trên tuyến lệch hướng thì chùm sẽ không bị
huỷ ngay. Thay vào đó, gói điều khiển sẽ có cơ hội
quay lại nút kề trước đó mà nó đã đi qua và sử dụng
tuyến lệch hướng sẵn có tại nút này để đi đến đích. Vì
gói điều khiển tốn thời gian khi quay ngược lại nên để
tránh xảy ra việc chùm dữ liệu đi vượt lên trước gói
điều khiển gây ra nghẽn và huỷ chùm, phương pháp
đề xuất đã đặt trước bước sóng trên tuyến quay ngược
nhằm buộc chùm dữ liệu phải đi một vòng theo tuyến
chính và quay ngược, nhờ đó giữ cho chùm dữ liệu đi
sau gói điều khiển.
Mặt khác, ngoài gói điều khiển chùm BCP thông
thường, ta định nghĩa thêm các gói điều khiển khác là
gói điều khiển quay ngược BRP, gói điều khiển khảo
sát tuyến dự phòng RIP, gói điều khiển quay ngược
khảo sát tuyến dự phòng BIP và bản tin báo đặt trước
không thành công NAK. Khi chùm bị huỷ thì NAK sẽ
được gửi đến nút nguồn để thông báo việc huỷ. BCP
được sử dụng để đặt trước bước sóng từ nguồn đến
đích và nó chứa toàn bộ các thông tin cần thiết để thiết
lập đường dẫn. Khi định tuyến lệch hướng không
thành công thì BRP sẽ được tạo ra và nó sao chép
hoàn toàn thông tin của BCP. BRP được sử dụng để
quay ngược lại nút kề trước mà nó vừa đi qua. Còn
RIP cũng giống như BCP ngoại trừ việc nó không đặt
trước bước sóng. Chức năng chính của RIP là khảo sát
tình hình tuyến dự phòng và báo cho nút trước đó về
tình hình tắc nghẽn. BIP cũng tương tự như BRP. Khi
RIP gặp xung đột và định tuyến lệch hướng không
thành công thì BIP sẽ được tạo ra và gửi tới nút trước
đó để thông báo về xung đột. Các gói điều khiển này
bao gồm các trường thông tin như sau:
- Nhận dạng gói: loại gói điều khiển (BCP,
BRP, RIP, BIP, NAK).
- Địa chỉ nút nguồn.
- Địa chỉ nút đích.
- Số trình tự của chùm.
- Giá trị offset.
- 50 -
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT
-
Thời gian bắt đầu xuất phát của gói điều
khiển ở từng nút.
- Độ dài chùm dữ liệu tương ứng.
- Timeout, cũng là thời gian sống của chùm
trong mạng để tránh hiện tượng lặp vòng khi
định tuyến lệch hướng nhiều lần.
- Cờ dự phòng: được thiết lập khi cả tuyến
chính lẫn tuyến lệch hướng đều sẵn có.
- Cờ lệch hướng: Thiết lập khi chùm lệch
hướng hay quay ngược lại.
Khi định tuyến lệch hướng không thành công tại
một nút có xung đột, nếu như ở nút liền kề trước đấy
mà gói điều khiển đã đi qua có tuyến lệch hướng thì
chùm sẽ kiểm tra tuyến kết nối giữa nút xung đột với
nút kề trước để quay lại. Tất nhiên nếu tuyến này bận
thì chùm sẽ bị huỷ. Trong trường hợp có sẵn tuyến thì
gói điều khiển sẽ quay lại nút kề trước và đi theo
tuyến lệch hướng của nút này để đến đích. Việc gói
điều khiển quay lại sẽ làm giảm khoảng thời gian
offset giữa gói điều khiển và chùm dữ liệu, làm cho
chùm dữ liệu có thể sẽ được phát đi trước khi gói điều
khiển kết thúc đặt trước tài nguyên, dẫn đến việc tắc
nghẽn và huỷ chùm. Để giải quyết việc này, gói điều
khiển cần đặt trước băng thông cho tuyến quay lại
giữa nút xung đột và nút kề trước. Mục đích của việc
này là để bắt chùm dữ liệu cũng phải đi theo vòng lặp
ở tuyến này và do vậy giữ cho chùm dữ liệu đi sau gói
điều khiển, do đó không cần phải tăng giá trị offset
lên.
Thuật toán định tuyến của phương pháp này được
mô tả như sau:
Khi một nút nhận được gói điều khiển thì:
1. Nếu loại gói điều khiển là BCP thì:
+ Nếu cả tuyến chính và tuyến lệch hướng đều rỗi
thì đặt trước bước sóng và gửi gói điều khiển đi
trên tuyến chính. Gửi gói sao chép của BCP là
RIP đi trên tuyến lệch hướng.
+ Nếu tuyến chính bận thì đặt trước bước sóng trên
tuyến lệch hướng và gửi gói điều khiển đi trên
tuyến lệch hướng.
Tập V-1, Số 1, tháng 04/2009
+ Nếu cả 2 tuyến chính và tuyến lệch hướng đều
không sẵn có thì:
- Nếu cờ dự phòng bằng 1 (tức là nút kề trước
có sẵn tuyến lệch hướng) thì kiểm tra băng
thông trên liên kết quay ngược, nếu có sẵn thì
đặt trước bước sóng cho tuyến quay ngược
này, tạo BRP (từ BCP) và gửi nó đến nút kề
trước. Nếu băng thông không sẵn có thì huỷ
chùm và gửi NAK đến nút nguồn.
- Nếu cờ dự phòng bằng 0 (không có tuyến rỗi
nào ở nút kề trước) thì huỷ chùm và gửi NAK
đến nút nguồn.
2. Nếu loại gói điều khiển là BRP thì:
+ Nếu có tuyến lệch hướng ở nút hiện tại thì đặt
trước bước sóng cho liên kết lệch hướng đó.
Chuyển trường nhận dạng của BRP thành BCP
và chuyển BCP này đi trên liên kết lệch hướng.
+ Nếu không có tuyến lệch hướng thì huỷ chùm và
gửi NAK đến nút nguồn.
(Chú ý là mặc dù sẽ sử dụng tuyến lệch hướng
nhưng tuyến chính đã được đặt trước vẫn không bị
huỷ, nhằm buộc chùm dữ liệu phải di chuyển theo
tuyến chính rồi quay ngược lại để đi tiếp trên tuyến
lệch hướng, do vậy giữ cho chùm dữ liệu luôn đi
sau gói điều khiển).
3. Nếu loại gói điều khiển là RIP:
+ Nếu có cả 2 tuyến hoặc chỉ 1 tuyến sẽ xử lý
giống như xử lý BCP nhưng không đặt trước
bước sóng cho liên kết.
+ Nếu không có tuyến nào rỗi thì chuyển đổi
trường nhận dạng RIP thành BIP và gửi đi trên
tuyến ngược lại tới nút kề trước.
4. Nếu loại gói điều khiển là BIP thì đánh dấu liên kết
giữa nút hiện tại và nút mà BIP vừa từ đó đi đến là
không sẵn có (nhằm mục đích ngăn BCP khi đi đến
nút hiện tại sẽ không đi vào tuyến sẽ có tắc nghẽn tại
nút kế tiếp, đã được gói RIP phát hiện trước đấy).
Để dễ hiểu hơn, thuật toán này được minh hoạ bằng
hình ảnh như ở hình 1.
- 51 -
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT
Trong hình 1, nút N là nút nguồn còn nút D là nút
đích. Để đơn giản, giả thiết rằng trễ truyền giữa hai
nút bất kỳ liền kề là bằng nhau và bằng 1 đơn vị thời
gian, coi trễ xử lý gói điều khiển tại nút là không đáng
kể. Gọi liên kết giữa hai nút nằm trên tuyến chính là
liên kết chính, còn liên kết giữa hai nút nằm trên tuyến
lệch hướng là liên kết lệch hướng.
Tập V-1, Số 1, tháng 04/2009
gắng sử dụng tuyến khác để đi đến đích. Vì cờ dự
phòng trong BCP được thiết lập bằng 1 nên nút B sẽ
gửi đi gói BRP tới nút C trước đấy. Cùng lúc này, gói
RIP2 đã đi đến nút E. Tại nút E, cả liên kết chính E-G
và chặng lệch hướng E-F đều sẵn có. RIP2 được
chuyển đi trên liên kết chính tới nút G. Ở thời điểm 4,
gói BRP đi đến nút C. Do liên kết lệch hướng C-E là
sẵn có nên việc đặt trước được thực hiện cho liên kết
này. BCP được chuyển thành BRP và được gửi đến
nút E. Cùng lúc này RIP2 đã đi đến nút G. Quyết định
định tuyến cho phương pháp đề xuất cũng được mô tả
ở bảng 1.
Hình 1. Minh hoạ thuật toán quay ngược
Bảng 1. Định tuyến từ thời điểm 0 đến 4
Dễ thấy tuyến ngắn nhất từ N tới D là N-A-B-D. Ở
thời điểm 0, gói điều khiển BCP được xử lý ở nút N.
Tại N, cả hai liên kết chính N-A và lệch hướng N-H
đều sẵn có. Do vậy băng thông được đặt trước cho
liên kết N-A và BCP được chuyển đi trên liên kết NA. Một gói điều khiển khảo sát tuyến dự phòng RIP1
sẽ được tạo ra và chuyển đi trên liên kết N-H. Ở thời
điểm 1, BCP đi đến nút A. Tuy nhiên, băng thông trên
liên kết A-B lúc này không sẵn có. Liên kết lệch
hướng A-C sẵn có và do vậy việc đặt trước được thực
hiện cho liên kết lệch hướng này. BCP sẽ tiếp tục di
chuyển theo liên kết A-C. Ở thời điểm 2, BCP đi đến
nút C. Tại nút C, cả liên kết chính C-B lẫn liên kết
lệch hướng C-E đều sẵn có. Việc đặt trước được thực
hiện trên liên kết C-B. Cờ dự phòng trong BCP được
thiết lập bằng 1 và BCP được gửi đến nút kế tiếp trên
liên kết C-B. Gói điều khiển dự phòng RIP2 sẽ được
tạo ra và được gửi đi trên liên kết C-E. Vào thời điểm
3, BCP đi đến nút B. Lúc này cả liên kết chính lẫn liên
kết lệch hướng đều không sẵn có. Trong trường hợp
định tuyến thông thường thì chùm sẽ bị huỷ. Tuy
nhiên, trong phương pháp được đề xuất ở bài báo này,
BCP sẽ quay ngược lại nút liền kề trước đấy và cố
Để hiểu rõ ý nghĩa của việc sử dụng gói khảo sát
tuyến dự phòng, ta hãy xem xét hai trường hợp sau:
- Trường hợp 1: nếu liên kết G-D là có sẵn thì RIP2 sẽ
được chuyển đi trên liên kết này đến nút D. Ở thời
điểm 5, nút E nhận được BRP. Sau khi xử lý BRP,
việc đặt trước được thực hiện cho liên kết E-G và
BRP được gửi đi trên liên kết này đến nút G. Cùng
thời điểm 5 này, RIP2 đã đi đến đích D. Vào thời
điểm 6, nút G nhận được BRP và gửi nó đi trên liên
kết chính sau khi đã thực hiện việc đặt trước bước
sóng. Ở thời điểm 7, BRP đi đến đích D. Như vậy,
chùm dữ liệu tương ứng của gói điều khiển này sẽ đi
trên tuyến đã đặt trước là N-A-C-B-C-E-G-D.
Bảng 2: Định tuyến theo trường hợp 1
- Trường hợp 2: nếu cả liên kết chính G-D và liên kết
lệch hướng G-B đều không có sẵn thì bản sao của
RIP2 là BIP sẽ được tạo ra tại nút G và gửi ngược lại
nút E trước đó. Tại thời điểm 5, nút E nhận được đồng
- 52 -
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT
thời cả BRP và BIP. Nút E sẽ xử lý BIP và đánh dấu
liên kết E-G là không sẵn có cho BRP tương ứng mặc
dù trên thực tế là liên kết này vẫn sẵn có. Mục đích
của việc đánh dấu này là để ngăn BRP không đi vào
tuyến E-G vì sẽ gặp tắc nghẽn ở nút G. Nếu BRP đi
vào tuyến E-G thì nó sẽ phải quay lại, do đó sẽ gây ra
trễ vòng lặp bổ sung trong quá trình đặt trước. Sau khi
xử lý BRP, băng thông sẽ được đặt trước trên liên kết
lệch hướng E-F. Như vậy, ta đã thấy rằng nhiệm vụ
chính của gói điều khiển khảo sát tuyến dự phòng là
giảm thiểu các tình huống quay ngược lại như đã nói
ở trên của gói điều khiển, và do vậy làm giảm tổng
thời gian đặt trước tuyến đường quang cho chùm. Ở
thời điểm 6, nút F nhận được BRP và gửi nó tới nút D
sau khi đã đặt trước liên kết F-D. Ở thời điểm 7, gói
điều khiển BRP đi đến đích. Như vậy chùm dữ liệu sẽ
đi theo tuyến N-A-C-B-C-E-F-D.
Bảng 3: Định tuyến theo trường hợp 2
III. ĐÁNH GIÁ PHƯƠNG PHÁP ĐÃ ĐỀ
XUẤT BẰNG MÔ PHỎNG
Để đánh giá chất lượng của phương thức định tuyến
lệch hướng được đề xuất ở trên, một cấu hình mô
phỏng đã được xây dựng dựa trên công cụ mô phỏng
mạng OBS-ns của Đại học Thông tin và Truyền thông
Hàn Quốc. Cấu hình mạng được sử dụng để đánh giá
phương pháp đề xuất là cấu hình NSFNET 14 nút
(hình 2).
Lưu lượng gói đến mạng được sử dụng cho mô
phỏng là lưu lượng Poisson. Thông số chính được
dùng để đánh giá chất lượng của phương pháp đề xuất
là tỉ lệ tổn thất chùm tương ứng với tải lưu lượng đến
(tải được tính theo Erlang). Tỉ lệ tổn thất được tính
bằng tỉ số giữa số chùm bị huỷ trên tổng số chùm đi
đến các nút của mạng. OBS-ns sử dụng thuật toán
định tuyến dựa trên đường đi ngắn nhất. Việc lựa
Tập V-1, Số 1, tháng 04/2009
chọn tuyến đi được xác định trước và lưu trong bảng
định tuyến tại từng nút. Cơ chế lập lịch của OBS-ns là
LAUC-VF, giao thức báo hiệu là JET.
Hình 2: Cấu hình NSFNET 14 nút
Các giả thiết sau được đưa ra cho mô phỏng:
- Tất cả các liên kết trong mạng đều có cùng độ dài.
- Tất cả các sợi cáp quang đều có cùng số bước
sóng.
- Không có chuyển đổi bước sóng và không có đệm
quang.
- Chùm được tạo ra tại nút biên bằng việc kết hợp
các gói đi đến tuân theo tiến trình đến Poisson.
- Độ dài chùm có phân bố hàm mũ.
- Gói điều khiển được phát đi trên bước sóng riêng
và không bao giờ bị nghẽn do thiếu bước sóng.
- Lưu lượng mạng là như nhau, không có ưu tiên
trên các liên kết.
Các thông số mô phỏng được thiết lập như sau: 2
kênh điều khiển, 8 kênh dữ liệu (8 bước sóng). Độ dài
chùm trung bình là 125 KB, thời gian kết hợp chùm là
0.1 ms, độ dài gói đến là 1250 byte. Thời gian xử lý
gói điều khiển là 4 µs, giá trị offset là 40 µs, trễ truyền
trên một liên kết là 1 ms. Cáp quang có tốc độ truyền
dẫn là 10 Gb/s.
Kết quả mô phỏng được so sánh giữa phương pháp
định tuyến lệch hướng đã đề xuất với các trường hợp
không sử dụng định tuyến lệch hướng và sử dụng định
tuyến lệch hướng thông thường.
- 53 -
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT
công cũng tăng lên. Từ đó dẫn đến việc càng nhiều
chùm quay ngược lại để tìm tuyến mới. Do đó làm
cho lưu lượng trên mạng tăng lên và làm tăng xác suất
nghẽn tức là tăng xác suất tổn thất chùm. Còn trong
trường hợp không có định tuyến lệch hướng, chùm bị
huỷ ngay và do vậy không sinh ra lưu lượng mới, tức
là số lượng xung đột cũng không tăng lên.
Hiệu quả sử dụng liên kết theo tải lưu lượng (8 bước sóng)
1.E+00
Hiệu quả sử dụng liên kết
Hình 3 cho thấy kết quả so sánh về mặt xác suất tổn
thất gói khi tải lưu lượng thấp (≤ 0.5 Erlang). Có thể
thấy rằng phương pháp đề xuất có tỉ lệ tổn thất gói
thấp hơn cả, đặc biệt là khi tải rất thấp. Tuy nhiên khi
tải tăng lên thì sự khác biệt giữa 3 phương thức là
giảm đi. Điều này là đúng vì trong trường hợp không
thực hiện được định tuyến lệch hướng thì 2 phương
thức không có định tuyến lệch hướng và lệch hướng
thông thường đều huỷ chùm, trong khi phương pháp
đề xuất cho phép gói điều khiển quay lại và tìm kiếm
liên kết khác còn sẵn có để đi đến đích. Khi tải thấp
thì số lượng liên kết rỗi là cao nên gói điều khiển dễ
có khả năng tìm được tuyến khác. Nhưng khi tải tăng
lên thì số liên kết rỗi giảm đi và khả năng tìm tuyến
rỗi khác sẽ thấp đi.
Tập V-1, Số 1, tháng 04/2009
0.1
Xác suất tổn thất gói
Có lệch hướng
Lệch hướng +
tuyến dự phòng
1.E-04
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
Tải lưu lượng (Erlang)
Hình 3: Xác suất tổn thất gói khi tải thấp
Tổn thất gói theo tải lưu lượng cao (8 bước sóng)
0.9
0.8
Xác suất tổn thất gói
0.2
0.3
0.4
Tải lưu lượng (Erlang)
0.5
0.6
Hình 5 cho thấy hiệu quả sử dụng liên kết cho cả 3
phương pháp. Hiệu quả sử dụng liên kết được tính
bằng lưu lượng chuyển qua liên kết chia cho dung
lượng của liên kết đó. Nó cũng là tỉ số giữa thời gian
bận của liên kết chia cho tổng thời gian quan sát. Ta
thấy rằng phương pháp đề xuất có hiệu quả sử dụng
liên kết cao nhất. Điều này là do thông thường khi
xung đột thì chùm bị huỷ, nhưng phương pháp định
tuyến lệch hướng được đề xuất sẽ cố gắng sử dụng các
tài nguyên khác bằng phương pháp quay ngược để
tránh hủy chùm.
Không lệch hướng
0
Không lệch hướng
Hình 5: Hiệu quả sử dụng liên kết theo tải
1.E-01
1.E-03
Lệch hướng +
tuyến dự phòng
Có lệch hướng
1.E-02
1.E-03
Tổn thất gói theo tải lưu lượng thấp (8 bước sóng)
1.E+00
1.E-02
1.E-01
0.7
Thông lượng theo tải lưu lượng (8 bước sóng)
Không lệch hướng
0.6
Có lệch hướng
Lệch hướng +
tuyến dự phòng
0.5
1.E+00
9.E-01
Thông lượng
0.4
0.3
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
Tải lưu lượng (Erlang)
Hình 4: Xác suất tổn thất gói khi tải cao
8.E-01
7.E-01
Lệch hướng +
tuyến dự phòng
Có lệch hướng
6.E-01
Không lệch hướng
5.E-01
Trường hợp tải cao được chỉ ra ở hình 4. Chất lượng
hoạt động của phương pháp định tuyến lệch hướng
theo đề xuất bị giảm xuống khi tải lưu lượng tăng lên
so với phương thức không định tuyến lệch hướng. Lý
do là khi tải tăng lên, số lượng xung đột chùm tăng lên
và làm cho số định tuyến lệch hướng không thành
4.E-01
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
Tải lưu lượng (Erlang)
0.6
0.7
0.8
Hình 6: Thông lượng theo tải lưu lượng
Hình 6 thể hiện thông lượng theo tải lưu lượng đến
nút. Thông lượng được tính bằng tỉ số giữa số gói
thành công trên tổng số gói được gửi đi trong một
- 54 -
Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT
khoảng thời gian nhất định. Thông lượng thu được
qua phương pháp định tuyến lệch hướng đề xuất là
cao nhất. Ở mức tải thấp, thông lượng của cả 3
phương pháp là gần như bằng nhau. Khi tải tăng lên
thì sự khác biệt về thông lượng cũng tăng lên. Đó là
do chùm có nhiều khả năng đến được đích hơn khi
xảy ra xung đột vì sử dụng phương pháp định tuyến
lệch hướng. Tuy nhiên khi tải tăng lên cao đến khoảng
0.7 Erlang thì sự khác biệt lại không còn nhiều. Đó là
do số lượng xung đột tăng lên khi định tuyến lệch
hướng sẽ làm cho số lượng chùm bị huỷ tăng lên, tức
là phương thức định tuyến đề xuất không có nhiều
hiệu quả ở mức tải cao.
IV. KẾT LUẬN
Tập V-1, Số 1, tháng 04/2009
[3] F.Farahmand, Q.Zhand, J.P.Jue, “A Feedback-Based
Contention Avoidance Mechanism for Optical Burst
Switching Networks”, Proceedings of the First Annual
International Conference on Broadband Networks –
BROADNETS, California, USA, 25-29 October, 2004.
[4] S.Kim, N.Kim, M.Kang, "Contention Resolution for
Optical Burst Switching Networks Using Alternative
Routing", Proceedings IEEE ICC, vol.5, pp.2678-2681,
New York, USA, April-May 2002.
[5] C.F.Hsu, T.L.Liu, N.F.Huang, "Performance Analysis
of Deflection Routing in Optical Burst-Switched Networks",
Proceedings of IEEE INFOCOM, vol.1, pp.66-73, New
York, USA, June 2002.
[6] J.Teng, and G.N.Rouskas, "A Comparison of the JIT,
JET, and Horizon Wavelength Reservation Schemes on A
Single OBS Node", Proceedings of the First International
Workshop on Optical Burst Switching, Dallas, USA,
October, 2003.
Bài báo đã đề xuất một phương pháp giải quyết
xung đột bằng định tuyến lệch hướng kết hợp với
thông tin khảo sát về tuyến đường dự phòng. Các kết
quả mô phỏng đã cho thấy phương pháp này cho tỉ lệ
tổn thất gói thấp hơn phương pháp định tuyến thông
thường và phương pháp không có định tuyến trong
trường hợp mức tải thấp và trung bình (nhỏ hơn 0.7
Erlang). Phương pháp này cũng làm tăng thông lượng
chuyển qua mạng và hiệu quả sử dụng liên kết so với
2 phương pháp truyền thống kia. Tuy nhiên khi tải cao
(trên 0.7 Erlang), phương pháp này không làm tăng
chất lượng hoạt động của mạng. Phương pháp này
cũng đề xuất quay ngược gói điều khiển chỉ 1 chặng,
do vậy có thể tiếp tục được nghiên cứu mở rộng thêm
cho trường hợp quay ngược nhiều chặng, kết hợp với
mức ưu tiên của chùm.
Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội
năm 1993, nhận bằng Thạc sĩ Điện tử
Viễn thông năm 2003, đang là Nghiên
cứu sinh của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn
thông tham gia thực tập tại Viện nghiên cứu Điện tử
Viễn thông ETRI - Hàn Quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hiện công tác tại Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ
Thông tin và Truyền thông.
[1] C.Qiao and M.Yoo, “Optical burst switching (OBS) - a
new paradigm for an optical internet”, Journal of High
Speed Networks, vol.8, pp.69–84, March, 1999.
[2] S.Lee, K.Sriram, H.Kim, J.Song, “Contention-based
Limited Deflection Routing in OBS Networks”, Proceedings
of IEEE Globecom, vol.5, pp.2633-2637, San Francisco,
USA, December, 2003.
Ngày nhận bài: 06/11/2008
SƠ LƯỢC VỀ TÁC GIẢ
NGUYỄN LA GIANG
Sinh năm 1971 tại Thanh Hoá.
Lĩnh vực quan tâm: công nghệ chuyển mạch chùm
quang, báo hiệu trong mạng viễn thông, QoS trong
mạng hội tụ băng rộng.
Email:
[email protected].
- 55 -