Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ kinh tế thương mại giữa việt nam và singapore...

Tài liệu Mối quan hệ kinh tế thương mại giữa việt nam và singapore

.DOC
101
1420
109

Mô tả:

Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Mục lục Lời mở đầu Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp ……1 Chương I: Cơ sở của mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore ……4 I.Cơ sở về điều kiện tự nhiên 4 1.Vị trí địa lý, địa hình 4 2. Khí hậu, đất đai 5 II. Cơ sở về điều kiện chính trị- xã hội 6 1. Dân cư, dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ 6 2. Nhà nước và chính trị 8 III. Cơ sở về điều kiện kinh tế 10 1. Kinh tế Singapore 10 2. Kinh tế Việt Nam 18 Chương II: Thực trạng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore ……25 I. Lịch sử phát triển mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore 25 II.Thực trạng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore 1.Quan hệ thương mại Việt Nam-Singapore 31 1.1 Kim nghạch xuất nhập khẩu 31 1.2 Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu 36 2. Quan hệ đầu tư của Singapore vào Việt Nam 44 2.1 Thực trạng quan hệ đầu tư 44 2.2 Hình thức đầu tư 47 2.3 Lĩnh vực đầu tư 50 III. Đánh giá quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore 53 Những thuận lợi của mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore …………………………………………………………………53 Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp Những khó khăn của mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore………………………………………………………… ……….58 Chương III: Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore ……62 1. Triển vọng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore..62 2. Kiến nghị một số giải pháp thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore……………………………………………………….66 Kết luận Phụ lục ……75 ……76 Tµi liÖu tham kh¶o ……82 LỜI MỞ ĐẦU Chưa đầy 20 năm sau công cuộc đổi mới (1986), Đảng và nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, trở ngại đưa nước ta dần dần đi vào ổn định chính trị, xã hội, phát triển kinh tế và hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Về mặt đối ngoại, Đảng ta tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại với phương châm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới”. Chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia lớn nhỏ trong khu vực cũng như ngoài khu vực đặc biệt là tăng cường quan hệ với các nước láng giềng trong khối asean trong đó có Singapore. Trên thực tế, Singapore có quan hệ rất sớm với Việt Nam. Ngay từ đầu những năm 90s, mối quan hệ giữa hai nước đã tiến triển đáng kể cùng với sự phát triển chung của tình hình khu vực và thế Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp giới. Từ đó tới nay Singapore luôn là một trong các bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Singapore đã khẳng định tầm quan trọng của mình trong mối quan hệ hợp tác với Việt Nam. Và mối quan hệ hữu nghị hợp tác về kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và Singapore ngày càng lớn mạnh. Việt Nam có thể tìm thấy ở Singapore những sản phẩm của nghành công nghệ tiên tiến như máy móc, thiết bị, điện tử, linh kiện ô tô, xe máy đồng thời có thể xuất sang Singapore những mặt hàng là thế mạnh của mình như hàng nông sản, thuỷ sản, lao động…. Trong lĩnh vực đầu tư, Singapore đã và đang vươn lên đứng đầu danh sách các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Vậy làm sao để tiếp tục thu hút vốn đầu tư ấy là điều mà Việt Nam phải quan tâm. Và làm cách nào để thúc đẩy mối quan hệ ấy. Việc lựa chọn đề tài “Mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore” làm đề tài khoá luận, một mặt em muốn tìm hiểu thêm về quốc đảo láng giềng này, mặt khác đánh giá những thuận lợi cũng như khó khăn của mối quan hệ này để từ đó cùng độc giả bàn luận một số giải pháp khắc phục nó nhằm giúp cho mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore ngày càng tốt đẹp hơn. Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào hai lĩnh vực cơ bản nhất trong mối quan hệ giữa hai nước, đó là: quan hệ thương mại và quan hệ đầu tư. Phạm vi nghiên cứu đề cập đến hiện trạng, triển vọng và một số giải pháp nâng cao mối quan hệ ấy. Luận văn gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở của mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore Chương II: Thực trạng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp Chương III: Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore Với việc sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, chon lọc, phân tích, tổng hợp, đánh giá thông tin dữ liệu, luận văn này mong muốn mang đến bạn đọc ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Do khuôn khổ hạn hẹp của đề tài cũng như hạn chế của tác giả, luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của bạn đọc. Luận văn này hoàn thành được là nhờ có sự đóng góp của thầy cô, gia đình, bạn bè và các tổ chức có liên quan. Do vậy trước hết em xin chân thành cảm ơn Thạc Sỹ- Nguyễn Kim Thu đã rất nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn, đánh giá góp ý kiến bổ ích để em có thể hoàn thành luận văn này. Đồng thời em xin chân thành cảm ơn Đại Sứ Quán Singapore, Bộ kế hoạch và đầu tư, Tổng cục thống kê và phòng thương mại Việt Nam, Vụ Châu á Thái Bình Dương đã cung cấp những tài liệu cần thiết để luận văn mang tính xác thực và thiết thực hơn. Cuối cùng em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại Học Ngoại Thương đã trực tiếp giảng dạy và truyền thụ cho em những kiến thức bổ ích và quí báu. Em xin cảm ơn những người thân, gia đình, bạn bè đã ủng hộ giúp đỡ để em hoàn thiện luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội tháng 12/2003. Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp Chương I: Cơ sở của mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore I.Cơ sở về điều kiện tự nhiên 1. Vị trí địa lý- địa hình Về vị trí địa lý-địa hình của Singapore: Singapore là một quần đảo nằm ở phía bắc đường xích đạo, ở vào khoảng 103,4- 104 độ kinh đông và 1,15- 1,30 vĩ độ bắc. Singapore có diện tích 692,7 km2 với 54 đảo lớn nhỏ (trong đó 20 đảo có người ở). Phía tây và phía đông Singpore giáp Malaysia. Phía nam giáp Indonesia. Singapore nằm ở cực nam bán đảo Malacca là điểm án ngữ quan trọng trên con đường buôn bán bằng đường biển từ ấn độ dương sang thái bình dương, từ đông nam á hải đảo sang đông nam á lục địa. Lãnh thổ Việt Nam có vị trí địa lý đặc biệt ở Đông Nam á, ở vào khoảng 102-109,3 độ kinh đông và 8,1-23,24 vĩ độ bắc. Với diện tích 331.690 km2 Việt Nam nằm ở ranh giới trung gian, nơi tiếp giáp với các lục địa (Châu á và Châu Đại Dương) và đại dương (Thái Bình Dương và Đại Tây Dương). Về địa hình, Việt Nam hình chữ S, nằm ở phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp với Trung Quốc, phía tây giáp với Lào và Campuchia, phía đông giáp với biển. Việt Nam nằm trong khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất, đồng thời án ngữ trên các tuyến hàng hải huyết mạch thông thương như ấn độ và thái bình dương, châu âutrung cận đông với Trung Quốc…. (Địa lý kinh tế- xã hội Việt Nam- NXB Giáo Dục 2001) Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp Như vậy cả Việt Nam và Singapore đều có vị trí địa lý hết sức thuận lợi đồng thời lại gần nhau (vì cùng trong khu vực Châu á). Đây là một cơ sở thuận lợi cho sự phát triển mối quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Vì dù rằng vị trí địa lý không có tính chất quyết định nhưng nó lại có khả năng tạo ra những thuận lợi cũng như khó khăn cho việc trao đổi, tiếp cận, giao thoa cùng phát triển giữa các quốc gia với nhau. Đặc biệt là trong xu thế hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới như hiện nay thì vị trí địa lý sẽ trở thành một nguồn lực, định ra hướng phát triển có lợi nhất trong phân công lao động toàn thế giới và xác định các mối quan hệ song phương và đa phương của một quốc gia. Do vậy đây là yếu tố thuận lợi xét trong mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore . Khí hậu và đất đai Singapore nằm trong vùng khí hậu xích đạo nhiệt đới nên khí hậu thường xuyên nóng và ẩm, độ ẩm không khí cao. Là quốc gia hải đảo với 150 km bờ biển bao bọc xung quanh nên khí hậu Singapore quanh năm tương đối mát mẻ và dễ chịu. Nhiệt độ bình quân trong năm là 26,7oC, dao động từ 24oC đến 31oC, độ ẩm bình quân trong năm là 84,4%. Lượng mưa trung bình khá lớn, khoảng 2359 mm/ năm. Tuy vậy nhưng về đất đai, phần lớn diện tích đất Singpore đã bị đô thị hoá, do vậy đất dành cho nông nghiệp chỉ còn khoảng 1%, đất rừng còn khoảng 5%. Về khí hậu và đất đai Việt Nam, nước ta hoàn toàn nằm trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là về xích đạo cho nên Việt Nam cũng có một nền nhiệt cao, thường từ 22oC đến 27oC. Hàng năm có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1500 đến 2000 mm. Độ ẩm không khí khoảng 80%. Độ ẩm không khí cao, lượng mưa lớn là những điều kiện thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển của nhiều loài sinh vật đặc biệt là đối với các loại cây trồng như lúa nước, cây rừng, cây nhiệt đới….Trong khi đó, khác với Singpore là ở chỗ, Việt Nam có đất đai khá nhiều. Theo số liệu của tổng cục thống kê, tiềm năng đất nông nghiệp của cả nước là 10- 11,37 triệu ha, riêng đất trồng cây hàng năm lên tới 8 triệu ha (đất trồng lúa khoảng 5 triệu ha) và còn lại là 2,3 triệu ha đất trồng cây lâu năm. Trên lãnh thổ Việt Nam có Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp nhiều loại đất với 2 nhóm đất chính là: Feralit ở miền đồi núi và đất phù sa ở vùng đồng bằng. Đất phù sa rất thích hợp với cây trồng. Về chất lượng, đất ở Việt Nam có tầng dày, kết cấu tơi xốp, lượng chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng khá cao nhất là đất phù sa, đất xám. Điều này tạo điều kiện cho Việt Nam có thể đa dạng hoá chủng loại cây trồng. Đó là chưa kể đến Việt Nam có một hệ thống rừng rậm tiêu biểu cho rừng nhiệt đới, có nguồn tài nguyên thuỷ hải sản phong phú (cá, tôm, trai, ốc, mực….) có giá trị dinh dưỡng cao, có tiềm năng xuất khẩu lớn. Do vậy điều kiện khí hậu và đất đai là điều kiện thứ hai thúc đẩy việc trao đổi hàng hoá giữa hai quốc gia. Singapore có thể nhập từ Việt Nam các mặt hàng nông, thuỷ sản bù đắp cho sự thiếu hụt trong nước do điều kiện tự nhiên không cho phép. Thay vào đó Việt Nam có thể nhập từ Singapore sản phẩm của nghành công nghệ cao. II. Cơ sở về điều kiện chính trị- xã hội 1. Dân cư, dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ Dân cư, dân tộc: Singapore là một quốc gia trẻ nhiều dân tộc và đa sắc thái văn hoá. Dân số của Singapore là gần 4,46 triệu người (tính đến tháng 7 năm 2002). Về thành phần dân tộc thì người Hoa là nhóm tộc người chính (chiếm tới 76,7%). Nhóm tộc người lớn thứ hai là người Mã Lai (chiếm 14% dân số Singapore). Thứ ba là cộng đồng người ấn độ, chiếm khoảng 7%. Ngoài ra còn có cộng đồng người châu âu (chủ yếu là có nguồn gốc ănglê-xắc sông), cộng đồng người ả rập và nhóm tộc ít người khác. Việt Nam cũng là một quốc gia đa dân tộc (54 dân tộc anh em). Dân tộc kinh chiếm đa số (87% dân số cả nước) sống tập chung chủ yếu ở vùng châu thổ sông hồng, các đồng bằng ven biển miền trung, đồng bằng sông cửu long ….Còn 53 dân tộc khác phân bổ chủ yếu ở các vùng núi (chiếm 2/3 lãnh thổ) trải dài từ bắc vào nam. Trong số các dân tộc thiểu số, đông nhất là dân tộc Tày, Thái, Mường, Hoa, Khơ Me, Nùng… mỗi dân tộc trên dưới 1 triệu người. Nhỏ nhất là dân tộc Brau, Roman, O-du chỉ vài trăm người. Tổng cộng 54 dân tộc có hơn 8 triệu người. Đây là một con số không nhỏ so với dân số Singapore. Cũng vì thế Việt Nam được Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp coi là nơi cung cấp lực lượng lao động dồi dào rất hấp dẫn các nhà đầu tư Singapore. Về tôn giáo: ở Singapore, đại đa số người Hoa theo Phật giáo. Còn hầu hết người Mã Lai theo hồi giáo, nói tiếng mẹ đẻ. Người ấn độ theo đạo hinđu và nói tiếng Tamin. Người châu âu theo đạo thiên chúa và nói tiếng anh. Từ trước tới nay không một tôn giáo nào ở Singapore được nhà nước công nhận là quốc giáo. ở Việt Nam, trong các tôn giáo chủ yếu có nguồn gốc á đông như: Phật giáo, nho giáo, đạo giáo…,Phật giáo đã được phổ biến rộng khắp ngay từ thời Bắc thuộc và phát triển cực thịnh thời Lý- Trần. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Phật giáo được duy trì cho tới ngày nay. Nho giáo chính thức được tiếp nhận vào Việt Nam từ năm 1070 (khi Lí Thánh Tông cho lập văn miếu thờ Chu Công, Khổng Tử. Nhiều công trình biểu trưng của nho giáo còn tồn tại đến ngày nay như: Văn Miếu Hà Nội, Văn Miếu ở Huế. Đạo giáo vào Việt Nam từ cuối thế kỷ II và có chỗ đứng ngay vì tìm thấy những tín ngưỡng tương đồng có sẵn từ lâu như sùng bái ma thuật, phù phép…Còn tôn giáo có nguồn gốc từ phương tây như thiên chúa giáo không phổ biến ở Việt Nam (hiện nay chỉ có khoảng 5 triệu tín đồ). Như vậy về tôn giáo Việt Nam và Singapore tìm thấy điểm chung ở văn hoá phật giáo, thờ cúng tổ tiên nên sinh hoạt và ứng xử trong gia đình cũng có nhiều nét tương đồng. Từ đó dẫn đến một nền văn hoá khá giống nhau nên thiết lập quan hệ tương đối dễ dàng. Về ngôn ngữ: ở Singapore nhà nước công nhận cả 4 thứ tiếng gồm tiếng Mã Lai, tiếng Hoa phổ thông, tiếng Tamin và tiếng Anh là những ngôn ngữ chính, trong đó tiếng anh là ngôn ngữ chính trong thương mại, hành chính và giáo dục. Còn ở Việt Nam : Dân tộc Kinh chiếm đa số dân số của cả nước nói tiếng kinh. 53 dân tộc khác mỗi dân tộc có ngôn ngữ của mình. Tiếng kinh là tiếng phổ thông. Và trong những năm qua do xu thế mở cửa hội nhập thế giới nên mặc dù tiếng anh là tiếng ngoại ngữ song cũng rất phổ biến ở Việt Nam . Do vậy xét riêng trong quan hệ buôn bán thì đây cũng là một thuận lợi cho 2 phía bởi vì cả Việt Nam và Singapore đều có thể sử dụng tiếng Anh làm công cụ trong trao đổi buôn bán. Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp 2.Nhà nước và chính trị ở Singapore có 22 đảng phái chính trị khác nhau trong đó Đảng Hành Động Nhân Dân (PAP) cầm quyền từ hơn 30 năm nay và vẫn tiếp tục giữ vị trí thống trị. Lãnh tụ của đảng này trước đây là ông Lý Quang Diệu và hiện nay là ông Goh Chok Tong. Sau khi lên nắm quyền lãnh đạo, Đảng PAP chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường có điều tiết (cũng giống như Việt Nam sau này). Theo hiến pháp, Singapore là một nước cộng hoà, đứng đầu nhà nước là Tổng thống do toàn dân lựa chọn theo phổ thông đầu phiếu. Tổng thống có nhiệm kỳ 6 năm, hiện nay là ông Stellapan nhậm chức từ 01/9/1999. Đứng đầu chính phủ là thủ tướng. Thủ tướng hiện nay của Singapore là ông Goh Chok Tong nhậm chức ngày 28/11/1990 và được bổ nhiệm lại 2 lần năm 1997 và 2001. Thủ tướng và các thành viên nội các do tổng thống bổ nhiệm từ các đại biểu của nghị viện. Tổ chức nhà nước gồm 3 cơ quan chính: cơ quan lập pháp (gồm nghị viện và hội đồng tổng thống), cơ quan hành pháp (bao gồm các bộ, ban nghành chức năng của chính phủ, đứng đầu nội các là chính phủ và tổng thống), cơ quan xét xử (gồm toà án tối cao và toà án địa phương). Khác với Singapore có 22 đảng phái chính trị khác nhau thì Việt Nam chỉ có một đảng duy nhất: đó là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời sớm hơn Đảng Hành Động Nhân Dân (PAP) rất nhiều (3/2/1930). Điều 4 hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi “Đảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân….là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Thực tế Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo xã hội thực hiện mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam: đánh đổ ách đô hộ của thực dân Pháp lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (năm 1945) và đánh đổ đế quốc Mỹ thống nhất đất nước (năm 1975). Năm 1986 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước nhằm mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ: có ban chấp hành trung ương (BCH Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp TW). ban chấp hành trung ương bầu ra bộ chính trị và tổng bí thư. Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam là ông Trần Phú, hiện nay là ông Nông Đức Mạnh. Tổ chức bộ máy nhà nước gồm: quốc hội (là cơ quan lập hiến, lập pháp, bầu ra chủ tịch từ các đại biểu quốc hội), toà án nhân dân tối cao (là cơ quan xét xử), viện kiểm sát nhân dân tối cao (kiểm tra việc tuân theo pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác… đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Ngoài ra ở Việt Nam còn có Mặt trận tổ quốc Việt Nam (là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân), tổ chức công đoàn (chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên chức và những người lao động khác), hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh… Như vậy mặc dù Việt Nam và Singapore có chế độ chính trị khác nhau song trong xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không phân biệt chế độ chính trị xã hội được đưa lên hàng đầu, nên sự khác biệt này sẽ không phải là rào cản. Ngược lại đây là cơ hội để Việt Nam có thể trao đổi với một quốc gia phát triển nhất khu vực Đông Nam á đồng thời học tập Singapore về cách quản lý về mọi mặt. III. Cơ sở kinh tế Nói đến cơ sở kinh tế tức là chúng ta sẽ đề cập đến chiến lược phát triển kinh tế và các chính sách phát triển kinh tế của hai quốc gia: Việt Nam và Singpore . 1.Kinh tế Singapore Chiến lược phát triển kinh tế của Singapore là việc chuyển đổi từ chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu (hay nói cách khác là chuyển từ chiến lược đóng cửa nền kinh tế sang chiến lược mở cửa nền kinh tế). Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu: Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu được hầu hết các nước công nghiệp phát triển tiến hành trong thế kỷ 19. Một số nước châu á bắt đầu thực hiện chiến lược này từ trước chiến tranh thế giới thứ II. Bản chất của chiến lược này là nhằm thoả mãn nhu cầu trong nước để Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp xây dựng một nền kinh tế độc lập, không phụ thuộc bên ngoài. Do vậy mà ngoại thương không được chú trọng mà chỉ chú trọng đến khả năng tự cung tự cấp của thị trường nội địa. Singapore áp dụng chiến lược này từ những năm 1960-1965. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của thực dân Anh, quốc gia Singapore gặp nhiều khó khăn trở ngại: nguồn cung cấp nguyên liệu giảm, thất nghiệp tăng nhanh…. buộc Singpore phải tiến hành công nghiệp hoá trên cơ sở xây dựng và phát triển nghành công nghiệp hướng nội. Để kích thích các nhà tư bản trong và ngoài nước mở rộng kinh doanh trong các nghành công nghiệp non trẻ nhằm tạo thêm công ăn việc làm và tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu trong nước, chính phủ Singapore đã thi hành chính sách bảo hộ hàng nội địa bằng hàng rào thuế quan, hạn chế hàng ngoại nhập cả về số lượng và chủng loại đồng thời áp dụng những ưu đãi về tài chính cho các hoạt động kinh doanh trong nước: Ví dụ: miễn thuế cho các xí nghiệp tiên phong mới thành lập trong năm năm đầu, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu và máy móc từ bên ngoài, cho các xí nghiệp lớn vay vốn với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường…Điều này đã mang lại cho Singpore một số kết quả khả quan: tạo thêm công ăn việc làm, nâng giá trị nghành công nghiệp chế biến trong tổng sản phẩm quốc dân(GDP) từ 13,2% (năm 1960) lên 15,6% (năm 1965). Tuy vậy do hạn chế của chính sách bảo hộ mậu dịch, mất ổn định chính trị, cơ sở hạ tầng chưa được hoàn thiện nên số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào Singapore từ năm 1959-1965 chỉ khoảng 40 triệu USD. Nền kinh tế Singapore vẫn nằm trong tình trạng là một nền sản xuất nhỏ, tỉ lệ thất nghiệp cao (chiếm 10% lực lượng lao động), đời sống nhân dân chưa được cải thiện với mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp (500 USD/người). Điều này đòi hỏi Singpore phải chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu (từ năm 1965 đến nay). Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp Chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu: là chiến lược mở cửa nền kinh tế, hướng ra thị trường bên ngoài, do vậy mà ngoại thương được chú trọng. áp dụng chiến lược này, mỗi quốc gia có thể tận dụng lợi thế so sánh của mình trong trao đổi buôn bán nhằm tối đa hoá lợi ích cho mình. Đây là chiến lược mà hầu hết các quốc gia trong nền kinh tế hiện đại đều theo đuổi. Với Singapore cũng vậy, sau khi tách khỏi liên bang Malaysia, chính phủ Singapore bắt tay ngay vào thựcàšiện chiến lược n•y. ĐiểU đầu tiên trong èhiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Singapore là lựa chọn v khuyến khích những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như: chế biến gỗ, chế biến thực phẩm, lắp ráp cácưthiết bị điện dân dụng, các phương tiện giao thông vận tải, ngành kéo sợ_, ngành may mặc,xây dựng các cơ sở lọc dầu và đóng tàu biển ... Việc thu hởt đầu tư vào những ngành này giúp SFngapore giải quyết tình trạng thất Å_hiệp, nhanh chóng tạo ra sản phẩm đ# xuất khẩu và tăng nhanh nguồn vốn tích luỹ ban đầu cho đầu tư. Trong khi ẻó nhu cầd của các nước tư bản như: Mỹ, Nhật bản… ngay từ Thững năm 1960s đã có nhu cầu thay đổi nhanh các xí nghiệp sử dụng nhiều lao động sang các nước đang phát triển để nâng cấp, hˆện đại hGá các xí nghiệp mới, sử dụng nhiều vốn và có trì–h độ công ngh cao. Singapore đã đón nhận luồng di dời của các xí nghiệp—này một cách kịp thời để phát triển nghành công nghiệp trong ầước. Đến giữ` những năm 1970s, chiến lược công nấhiệp hoá hướng về xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động đã mang lại cho Singapore những thành quả tốt đẹp: ngành công nghiệp chế biến đã tạo ra được gần 150000 việc làm mới, giá trị xuất khẩu của ngành này đã tăng từ 43% lêá#55%, nạn thất nghiệp hầu như được thanh toán. Nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại mặt hạn chế của nó, đó là: việc ưu tiên những nghành sử dụng nhiều lao động dẫn đến việc cải tiến công ng ử, nâng cao tay nghề ít được chú trọng, do vậy năng suất lao động thấp, hạn chế khả năng tạo ra những sản phẩm có giá trị cao. Mặt khác nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế tăng lên từ giữa những năm 1970s đẩy Singapore vào tình trạng thiếu lao động. Sự gia tăng các hàng rào thuế quan bảo hộ mậu dịch ở các nước phương tây từ cuối những năm 1970s cùng sự cạnh tranh của Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp những hàng xuất khẩu từ các nước có mức lương thấp trong khu vực gây ra trở ngại đối với xuất khẩu hàng của Singapore. Do vậy từ cuối những năm 1970s, chính phủ Singapore bắt đầu từng bước thay thế các xí nghiệp sử dụng nhiều lao động, điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hiện đại hoá công nghệ và sử dụng nhiều chất xám. Để tạo điều kiện cho chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu phát huy hiệu lực, chính phủ Singpore đã tiến hành nhiều biện pháp hành chính quan trọng mà chúng ta phải kể đến đó là: -Thứ nhất là thực hiện chính sách mậu dịch tự do: chính sách mậu dịch tự do được Singapore áp dụng nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi với việc xoá bỏ hàng rào thuế quan. Chính phủ Singapore đặc biệt khuyến khích nền kinh tế tự do bằng cách đề ra những ưu đãi về thuế và tài chính, khuyến khích mở cửa các ngành công nghiệp, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và các tập đoàn đa quốc gia lập trụ sở của mình tại Singapore. Mỗi thành viên có thể tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Chính phủ không can thiệp vào công việc kinh doanh của mỗi cá nhân, không thu thuế xuất nhập khẩu mà chỉ thiết lập một môi trường kinh doanh thích hợp thông qua hệ thống pháp lý toàn diện: ( Đối với hàng xuẩt khẩu: nhìn chung Singapore không đánh thuế hàng xuất khẩu nhưng cũng áp dụng hạn nghạch hoặc giấy phép để quản lý một số mặt hàng cần thiết. ( Đối với hàng nhập khẩu: Bộ tài chính Singapore quy định chỉ đánh thuế đối với một số ít mặt hàng tuỳ theo các thời điểm khác nhau. Các mặt hàng chịu thuế nhập khẩu thường là: rượu, bia, đồ gỗ, xăng dầu và một số ít mặt hàng tiêu dùng khác nhằm bảo vệ các mặt hàng sản xuất trong nước. Việc nhập khẩu các mặt hàng như máy móc, trang thiết bị nguyên liệu thô được miễn thuế nhập khẩu. Hàng nhập khẩu từ asean được hưởng thuế suất ưu đãi. Chính sách thương mại tự do không chỉ là tự do trong buôn bán mà còn mở rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Để thực hiện thành công chính sách này Singapore áp dụng rất nhiều đạo luật khác nhau, ví dụ: ( Luật kinh tế: chỉ đạo và điều tiết các hoạt động kinh tế, đây là cơ sở cho việc thành lập hội các nhà kinh tế. Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp ( Luật về hệ thống khuyến khích và phát triển kinh tế: tạo cơ sở pháp lý cho việc miễn thuế đối với các nghành công nghiệp mũi nhọn, khuyến khích hiện đại hoá và mở rộng hoạt động kinh doanh. ( Luật về thuế thu nhập: quy định các khoản thu nhập của cá nhân hay tập thể xí nghiệp phải nộp. ( Luật công ty: quy định về các thủ tục đăng ký thành lập và hoạt động của các công ty ở Singapore. ( Luật ngân hàng: quy định về các thủ tục cấp giấy phép cho hoạt động tín dụng. ( Luật chứng khoán: quy định về thành lập và hoạt động của các thị trường chứng khoán. ( Luật quy định về quỹ dự phòng TW: làm cơ sở cho việc thành lập và hoạt động của hình thức bảo hiểm xã hội và an ninh quốc gia. ( Luật về văn tự và đất đai: những quy định về quyền sở hữu và cho thuê đất. ( Luật về cơ quan tiền tệ: xác định những chức năng của cơ quan này với tư cách là cơ quan tài chính ngân hàng và hoạt động ngân hàng. -Thứ hai phải kể đến là chính sách khuyến khích đầu tư của Singpore: Chính phủ đã đưa ra hàng loạt chính sách đổi mới công nghệ để thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư vào các nghành công nghiệp non trẻ. Singapore tiếp tục đưa ra hàng loạt luật quy định: luật mở rộng kinh tế năm 1967 và được bổ sung vào năm 1970, luật khuyến khích mở rộng kinh tế ban hành năm 1971. Các luật trên tiếp tục được điều chỉnh bổ sung với những điều kiện ngày càng thuận lợi hơn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể các nhà đầu tư nước ngoài ở Singapore được hưởng rất nhiều ưu đãi: ( Không quốc hữu hoá các xí nghiệp nước ngoài, miễn thuế 5 năm cho các ngành công nghiệp mũi nhọn, miễn thuế lãi suất tín dụng, thuế quảng cáo. Trong quá trình kinh doanh nếu bị thua lỗ thì không phải nộp thuế trong 3 năm và có thể kéo dài thời hạn miễn thuế nếu tiếp tục bị lỗ. ( Đối với các cá nhân nước ngoài: không phân biệt quyền sở hữu kinh doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư bản xứ, các Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp nhà đầu tư nước ngoài được tự do chuyển đổi tiền tệ và chuyển vốn lợi nhuận về nước, được thuê mướn người nước ngoài vào Singapore để vận hành máy móc thiết bị của mình, được miễn thuế khi vay vốn nước ngoài, miễn thuế nhập khẩu bản quyền và bằng phát minh sáng chế, miễn thuế đầu tư vào nghiên cứu khoa học và đào tạo tay nghề và nâng cấp công nghệ, có thể không bị đánh thuế với những nguyên liệu, thiết bị không có sẵn ở Singapore. ( Đồng thời chính phủ cũng có chính sách khuyến khích đối với các nhà tư bản công nghiệp và chuyên gia kỹ thuật nước ngoài, đó là nếu họ có vốn đầu tư đạt 125.000 $ thì sẽ được hưởng chế độ nhập cảnh, cư trú dễ dàng và nếu sau 5 năm tiếp tục đầu tư sẽ có quyền cư trú vĩnh viễn cùng cả gia đình. Nếu số vốn đã đầu tư vào công nghệ chế biến, chế tạo thì sẽ được hưởng ngay quyền cư trú vĩnh viễn. Các kỹ sư, chuyên gia, công nhân có tay nghề cao được phép tự do nhập cư và làm việc lâu dài tại Singapore. ( Ngoài ra nhà nước còn có chính sách miễn thuế : đối với những dự án có số vốn đầu tư từ 1 triệu USD trở lên miễn thuế từ 5 đến 10 năm, với những dự án có số vốn đầu tư dưới 1 triệu USD nhưng sản phẩm làm ra có chất lượng cao cũng được miễn thuế. Những xí nghiệp như thế này có thể được nhà nước cho vay vốn với lãi suất thấp hoặc nhà nước sẽ mua cổ phần và bảo hiểm đầu tư. Những xí nghiệp có sản phẩm chủ yếu dành cho xuất khẩu sẽ được giảm thuế lợi tức, thuế xuất khẩu và hưởng ưu đãi nhiều hơn những xí nghiệp có sản phẩm phục vụ thị trường nội địa. Các biện pháp này giúp Singapore có một nguồn vốn đầu tư trực tiếp tăng nhanh từ 157 triệu đô la Singpore (S$) năm 1960-1965 lên 6,35 tỷ S$ (năm 1979) và đạt tới 19 tỉ S$ (năm 1989). Trong những năm gần đây, chính phủ Singapore tiếp tục duy trì đa dạng hoá đầu tư trong đó chú trọng tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực châu á- thái bình dương trong đó có Việt Nam vì các nước trong khu vực này là thị trường tiêu thụ lớn, tiềm năng phát triển kinh tế cao, tài nguyên phong phú, lao động rẻ… -Thứ 3:Phát triển kết cấu hạ tầng toàn diện: Trước hết, chính phủ Singapore quan tâm đến phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại như: xây dựng các khu công nghiệp, kho bãi nhà xưởng, đường sá, bến bãi… để thu hút đầu tư. Xuất phát từ lí Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp do quỹ đất có hạn nên buộc chính phủ Singapore phải tiến hành quy hoạch đô thị và quản lý đất đai. Ngay từ thập kỷ 60-70 chính phủ Singapore đã thực hiện chính sách trưng thu đất trong diện quy hoạch và bồi thường chủ đất bằng tiền hoặc bằng đất. ở giai đoạn sau chính phủ mua lại đất với giá thị trường. Đi đôi với phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật là phát triển kết cấu hạ tầng xã hội trong đó đặt giáo dục đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng kỹ thuật lên hàng đầu. Bởi vì nhân lực là nguồn có sẵn duy nhất ở Singapore. Do vậy chính phủ đã chủ trương giáo dục hướng nghiệp ngay từ đầu bên cạnh việc giáo dục kiến thức phổ thông. Ngoài ra chính phủ thường xuyên cải cách bộ máy hành chính, thiết lập hệ thống pháp luật toàn diện, lấy pháp luật làm nền tảng cho mọi hoạt động, thành lập uỷ ban điều tra các hành vi tham nhũng… để dần dần nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước. Các chính sách này nhằm tạo ra một nền kinh tế thị trường tự do. Để hỗ trợ cho việc theo đuổi nền kinh tế thị trường tự do, chính phủ Singapore đã thành lập hai cơ quan: Hội đồng phát triển thương mại Singapore (STDB) có chức năng khuyến khích xuất khẩu ra nước ngoài và Hội đồng phát triển kinh tế Singapore (SEDB) có chức năng thu hút nhiều đầu tư vào Singapore . Kết quả: Sau hơn 30 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, Singapore đã đạt được những thành tựu kỳ diệu về phát triển kinh tế với mức tăng trưởng cao liên tục, thể hiện ở bảng sau: Bảng1 : Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Singapore Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) 8,9 Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp 6,2 7,8 1,3 5,5 9 Nguồn: Vụ Châu á II- Bộ Ngoại Giao Năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực tốc độ tăng trưởng GDP của Singapore chỉ còn 1,3% song các năm sau lại có dấu hiệu phục hồi lại. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng của Singapore cao nhất (9,0%) tuy vậy năm 1996 đánh dấu mốc quan trọng đối với Singapore, Singapore là quốc gia đầu tiên ở khu vực đông nam á được OECD xếp vào hàng ngũ các nước phát triển. Singapore cũng đã giải quyết được nạn thất nghiệp giảm từ 3,9% (năm 1987) xuống còn 1,9%(năm 1993), đây có thể được coi là một cố gắng lớn của Singapore. Đồng thời Singapore nhanh chóng biến từ một nền kinh tế thu nhập chủ yếu dựa vào buôn bán chuyển khẩu sang nền kinh tế có nền công nghiệp chế biến chế tạo phát triển cao, tạo ra sản phẩm để xuất khẩu, từ đó tăng nhanh nguồn vốn tích luỹ cho đầu tư và cùng với một hệ thống dịch vụ thương mại tài chính và du lịch hấp dẫn, mở đường cho Singpore trở thành thành viên của NIES châu á vào đầu những năm 80s và là một trong bốn con rồng của khu vực. 2. Kinh tế của Việt Nam Việt Nam cũng là một nước chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Tuy giành lại được độc lập từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhưng phải trải qua 30 năm kháng chiến đến năm 1975 mới được giải phóng hoàn toàn. Sau khi đất nước hoàn toàn độc lập, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế thương mại không chỉ với các nước xã hội chủ nghĩa mà còn với các nước tư bản chủ nghĩa và các nước trong khu vực. Song do xuất phát điểm của nền kinh tế quá thấp, chiến tranh tàn phá cộng với việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cùng với các chính sách phát triển kinh tế sai lầm, nóng vội làm sản xuất trong nước tăng chậm. Kế hoạch 5 năm Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp (1976-1980) phần lớn các chỉ tiêu đều không đạt. Tăng trưởng chỉ đạt 0,4% trong khi tỷ lệ tăng dân số hàng năm trên 2,3%. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Lưu thông hàng hoá bị đình đốn dẫn đến giá cả tăng nhanh lạm phát có nguy cơ ngày càng trầm trọng: đầu năm 1980 tăng khoảng 30-50% hàng năm, cuối năm 1985 lên đến 587,2% và siêu lạm phát lên đến đỉnh điểm vào năm 1986 với 774,7%,, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Thêm vào đó là chính sách cấm vận của Mỹ duy trì trong thời gian này đã hạn chế quan hệ kinh tế của Việt Nam.Từ năm 1976 kim nghạch xuất nhập khẩu có tăng nhưng không đáng kể so với thời gian trước, luôn trong tình trạng nhập siêu. Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thời kỳ này rất hạn chế, chủ yếu là các khoản vay không lãi suất hoặc các khoản viện trợ không hoàn lại của các cơ quan liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ…và kết quả của chính sách đóng cửa nền kinh tế là đến năm 1985 kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1986 đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm. Nội dung chủ yếu là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và nhà nước ta là: - Mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở bình đẳng hai bên cùng có lợi để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh đồng thời giữ vững nguyên tắc: bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đảm bảo sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Khắc phục tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế, mở cửa nền kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để thực hiện được điều này, chúng ta phải thực hiện thông qua nhiều kênh, kênh quan trọng nhất là ngoại thương. Đồng thời phải có chính sách thu hút mạnh mẽ đầu tư của các công ty nước ngoài, áp dụng chính sách thị trường tự do, từng bước đưa giá cả trong nước gắn với giá cả của thị trường thế giới. Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp - Mở rộng sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và hoạt động dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước. Nhà nước chỉ quản lý để tránh các hành động tiêu cực: buôn bán trái phép, trốn lậu thuế… còn tất cả các thành phần kinh tế đều được tự do tham gia kinh doanh. Điều này giúp nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, không còn độc quyền ngoại thương và buộc các doanh nghiệp phải năng động hơn, nhạy bén hơn và tất yếu điều này sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. - Coi trọng hiệu quả kinh tế trong hoạt động ngoại thương: hiệu quả ngoại thương được hiểu không chỉ là mức lợi nhuận mà còn được hiểu ở mức đóng góp cho xã hội. Tức là doanh nghiệp phải tìm kiếm lợi nhuận tối ưu chứ không phải là lợi nhuận tối đa. - Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ thương mại: Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác song phương và đa phương với các nước trên thế giới đặc biệt là tăng cường hợp tác với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức asean trên tinh thần đoàn kết hữu nghị và hợp tác cùng phát triển. Các quan điểm chỉ đạo trên là cơ sở cho việc hoạch định chính sách và cơ chế quản lý trong việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế thương mại, cụ thể các chính sách đó là: ( Chính sách bảo hộ thương mại: chính phủ thông qua biện pháp thuế quan hoặc phi thuế quan như: hạn nghạch, quy định về mẫu mã, chất lượng, chế độ quản lý ngoại tệ để hạn chế hàng nước ngoài xâm nhập, bảo vệ sản xuất trong nước cũng như thị trường trong nước. Mặc dù thực hiện chính sách bảo hộ thương mại, song chính phủ Việt Nam còn thực hiện chính sách thương mại tự do: tức là chính phủ không can thiệp bằng biên pháp kinh tế hoặc phi kinh tế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, cho phép hàng hoá cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, không thực hiện đặc quyền ưu đãi đối với hàng hoá xuất nhập khẩu nước mình, không có sự kỳ thị phân biệt với hàng hoá xuất nhập khẩu nước ngoài. Cơ sở cho chính sách thương mại thời kỳ này là nghị định 64/HĐBT ngày 16/6/1989 của Hội Đồng Bộ Trưởng về chế độ tổ chức, quản lý kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu. Nghị định đã thể hiện những nới lỏng bước đầu trong cơ chế quản lý ngoại Trêng §¹i Häc Ngo¹i Th¬ng Kho¸ LuËn Tèt NghiÖp thương, dần dần thực hiện tự do hoá ngoại thương của chính phủ ta. Tự do hoá ngoại thương thể hiện: ( Nhà nước cho phép các đơn vị kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế được phép xuất khẩu trực tiếp. Việc cho phép mọi thành phần kinh tế được phép xuất khẩu trực tiếp là một điều mới mẻ vì trước đây mọi hoạt động xuất nhập khẩu đều được thực hiện dưới sự quản lý độc quyền của bộ thương mại.Việc xuất khẩu trực tiếp phải tuân thủ các quy định pháp lý đã ban hành của nhà nước. ( Tự do hoá một phần nhập khẩu, nhất là nhập khẩu phi mậu dịch đối với những hàng hoá thiết yếu cho nhu cầu trong nước mà sản xuất nội địa không đáp ứng kịp. ( Đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập khẩu như cấp giấy phép, quota, kiểm tra hải quan…, thường xuyên có các kế hoạch điều chỉnh hợp lý biểu thuế xuất nhập khẩu. Thực hiện các chính sách khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu, đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Đồng thời chủ yếu nhập khẩu máy móc, nguyên nhiên vật liệu (chiếm 91%) và hàng năm tăng bình quân 25%, hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 9%. ( Tự do hoá tỷ giá hối đoái: thay thế việc nhà nước ấn định cứng nhắc nhiều tỷ giá hối đoái bằng việc thực hiện tỷ giá thả nổi (được chính thức thực hiện vào tháng 3/ 1989) đồng thời với việc mở hai trung tâm giao dịch ngoại tệ ở hà nội và thành phố hồ chí minh tạo điều kiện cho tự do hoá tỷ giá hối đoái, cho phép tất cả các lực lượng thị trường tham gia xác định tỷ giá. Lãi suất ngân hàng cũng được đẩy lên cao nhằm chống lạm phát. Nhờ đó tỷ lệ lạm phát đã giảm từ 400% thời kỳ 1986-1988 xuống còn 5,2% năm 1993(thấp nhất). Định hướng trong chiến lược ngoại thương của Việt Nam là: Thứ nhất:chúng ta xác định phát triển nền kinh tế hàng hoá khắc phục tính chất tự cung tự cấp, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu trong nước, thay thế nhập khẩu những mặt hàng đã được sản xuất có hiệu quả ở Việt Nam , hướng mạnh về xuất khẩu. Thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu có chọn lọc. Đây là giải pháp mở
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan