Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Mối quan hệ giữa thanh điệu trong ca từ với giai điệu của hát ví nghệ tĩnh...

Tài liệu Mối quan hệ giữa thanh điệu trong ca từ với giai điệu của hát ví nghệ tĩnh

.PDF
259
463
66

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN ANH TƯ MỐI QUAN HỆ GIỮA THANH ĐIỆU TRONG CA TỪ VỚI GIAI ĐIỆU CỦA HÁT VÍ NGHỆ TĨNH LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN ANH TƯ MỐI QUAN HỆ GIỮA THANH ĐIỆU TRONG CA TỪ VỚI GIAI ĐIỆU CỦA HÁT VÍ NGHỆ TĨNH Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9 22 90 20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ KIM BẢNG HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Trần Anh Tư LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài “Mối quan hệ giữa thanh điệu trong ca từ với giai điệu của Hát ví Nghệ Tĩnh”, tôi đã nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của Ban Giám đốc, lãnh đạo và chuyên viên các phòng, ban chức năng của Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành về sự giúp đỡ quý báu đó. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Vũ Kim Bảng, người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình chỉ bảo và tạo cho chúng tôi niềm hứng thú trong công việc rất nhiều khó khăn, thách thức này. Tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo và các giảng viên Khoa Ngôn ngữ học của Học viện KHXH, Viện Ngôn ngữ học, những người đã dành cho tôi nhiều chỉ dẫn khoa học quý báu. Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp, những người đã luôn động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Tác giả luận án Trần Anh Tư DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Tổng hợp kết quả khảo sát thanh điệu trong ca từ Hát ví Nghệ Tĩnh theo tiêu chí âm vực Bảng 3.2. So sánh tỉ lệ thanh điệu theo tiêu chí âm vực trong Hát ví Nghệ Tĩnh với từ điển tiếng Việt Bảng 3.3. Số lượng thanh điệu trong ca từ Hát ví Nghệ Tĩnh theo âm vực cao - thấp Bảng 3.4. Khu vực cao độ của thanh ngang trong Hát ví Nghệ Tĩnh Bảng 3.5. Khu vực cao độ của thanh huyền trong Hát ví Nghệ Tĩnh Bảng 3.6. Khu vực cao độ của thanh sắc trong Hát ví Nghệ Tĩnh Bảng 3.7. Khu vực cao độ của thanh nặng trong Hát ví Nghệ Tĩnh Bảng 3.8. Khu vực cao độ của thanh ngã trong Hát ví Nghệ Tĩnh Bảng 3.9. Khu vực cao độ của thanh hỏi trong Hát ví Nghệ Tĩnh Bảng 3.10. Tần suất xuất hiện của các thanh điệu tương ứng với cao độ của các nốt nhạc trong Hát ví Nghệ Tĩnh Bảng 4.1. Tổng hợp kết quả khảo sát thanh điệu trong ca từ Hát ví Nghệ Tĩnh theo tiêu chí đường nét Bảng 4.2. So sánh tỉ lệ thanh điệu theo tiêu chí đường nét trong Hát ví Nghệ Tĩnh với từ điển tiếng Việt Bảng 4.3. Số lượng thanh điệu trong ca từ Hát ví Nghệ Tĩnh theo âm điệu bằng - trắc Bảng 4.4. Tổng hợp mô hình âm điệu tương ứng với thanh ngang Bảng 4.5. Tổng hợp mô hình âm điệu tương ứng với thanh huyền Bảng 4.6. Tổng hợp mô hình âm điệu tương ứng với thanh sắc Bảng 4.7. Tổng hợp mô hình âm điệu tương ứng với thanh nặng Bảng 4.8. Tổng hợp mô hình âm điệu tương ứng với thanh hỏi Bảng 4.9. Tổng hợp mô hình âm điệu tương ứng với thanh ngã MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Đóng góp mới của luận án 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 7. Cơ cấu của luận án Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những nghiên cứu về âm tiết tiếng Việt, thanh điệu tiếng Việt và thanh điệu tiếng địa phương Nghệ Tĩnh 1.1.1. Về âm tiết tiếng Việt 1.1.2. Về thanh điệu tiếng Việt 1.1.3. Thanh điệu tiếng địa phương Nghệ Tĩnh 1.2. Tình hình nghiên cứu về Hát ví Nghệ Tĩnh 1.3. Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa thanh điệu và giai điệu của dân ca 1.4. Tiểu kết Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Khái niệm thanh điệu và thanh điệu trong tiếng Việt 2.1.1. Khái niệm thanh điệu 2.1.2. Thanh điệu tiếng Việt 2.2. Vai trò của thanh điệu tiếng Việt trong âm nhạc dân gian Việt Nam 2.2.1. Quan hệ giữa thanh điệu tiếng Việt với thơ ca 2.2.2. Mối quan hệ giữa âm và thanh 2.3. Giai điệu trong âm nhạc và âm điệu - ngữ điệu trong tiếng Việt 2.3.1. Âm vực của thanh điệu tiếng Việt theo quan điểm của Âm nhạc học 2.3.2. Ngữ điệu và giai điệu trong dân ca Nghệ Tĩnh 2.4. Vài nét về Hát ví Nghệ Tĩnh Trang 1 1 4 5 6 7 7 8 9 9 9 11 15 17 20 24 25 25 25 28 39 40 41 43 47 47 50 2.4.1. Về tên gọi Xứ Nghệ 2.4.2. Về Hát ví Nghệ Tĩnh 2.5. Tiểu kết Chương 3. SỰ TƯƠNG ỨNG GIỮA ÂM VỰC CỦA THANH ĐIỆU TRONG CA TỪ VỚI CAO ĐỘ CỦA NỐT NHẠC TRONG HÁT VÍ NGHỆ TĨNH 3.1. Định hướng nghiên cứu 3.2. Kết quả khảo sát chung 3.2.1. Thanh điệu trong Hát ví Nghệ Tĩnh theo tiêu chí âm vực 3.2.2. Số lượng thanh điệu trong Hát ví Nghệ Tĩnh theo tiêu chí âm vực 3.3. Sự thể hiện âm vực của thanh điệu trong ca từ với cao độ nốt nhạc trong Hát ví Nghệ Tĩnh 3.3.1. Thanh ngang 3.3.2. Thanh huyền 3.3.3. Thanh sắc 3.3.4. Thanh nặng 3.3.5. Thanh ngã 3.3.6. Thanh hỏi 3.4. Vai trò của âm vực thanh điệu trong ca từ với việc hình thành giá trị cao độ của giai điệu Hát ví Nghệ Tĩnh 3.4.1. Âm vực thanh điệu là cơ sở cho việc hình thành giá trị cao độ của giai điệu Hát ví Nghệ Tĩnh 3.4.2. Âm vực thanh điệu tạo nên “màu sắc riêng” của giai điệu Hát ví Nghệ Tĩnh 3.4.3. Âm vực thanh điệu tạo nên âm hưởng trầm - lắng của giai điệu Hát ví Nghệ Tĩnh 3.5. Tiểu kết Chương 4. SỰ TƯƠNG ỨNG GIỮA DIỄN TIẾN CAO ĐỘ CỦA THANH ĐIỆU TRONG CA TỪ VỚI SỰ BIẾN ĐIỆU CỦA CÁC NỐT NHẠC TRONG HÁT VÍ NGHỆ TĨNH 4.1. Định hướng nghiên cứu 4.2. Kết quả khảo sát chung 50 51 54 56 56 57 57 59 62 62 67 71 74 78 81 83 83 87 93 95 98 98 98 4.2.1. Thanh điệu trong ca từ Hát ví Nghệ Tĩnh theo tiêu chí âm điệu 4.2.2. Số lượng thanh điệu trong ca từ Hát ví Nghệ Tĩnh theo tiêu chí âm điệu 4.3. Sự tương ứng giữa diễn tiến cao độ của thanh điệu với các nốt nhạc tương ứng trong Hát ví Nghệ Tĩnh 4.3.1. Thanh ngang 4.3.2. Thanh huyền 4.3.3. Thanh sắc 4.3.4. Thanh nặng 4.3.5. Thanh hỏi 4.3.6. Thanh ngã 4.4. Vai trò của đường nét thanh điệu với giai điệu của Hát ví Nghệ Tĩnh 4.4.1. Sự tương đồng của đường nét thanh điệu với mô hình âm điệu trong giai điệu Hát ví Nghệ Tĩnh 4.4.2. Âm điệu của một số thanh điệu đặc thù làm nên nét đặc trưng của giai điệu Hát ví Nghệ Tĩnh 4.4.3. Âm điệu tiếng nói và cấu trúc lời thơ tạo nên cấu trúc âm nhạc Hát ví Nghệ Tĩnh 4.5. Những đặc trưng ngữ âm trong dân ca Nghệ Tĩnh được ứng dụng vào sáng tác mới 4.6. Tiểu kết KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 98 101 104 104 108 112 116 118 120 121 122 125 130 134 144 146 151 152 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Xét về mặt loại hình, đặc điểm quan trọng nhất của tiếng Việt là ngôn ngữ âm tiết tính, mang thanh điệu. Điều này có nghĩa là âm tiết trong tiếng Việt được xem là đơn vị cơ bản xét từ góc độ ngữ âm, đồng thời nó là từ cơ bản và là hình vị xét từ góc độ từ vựng và ngữ pháp. Mỗi âm tiết tiếng Việt đều mang một trong sáu thanh điệu: trừ thanh ngang không có dấu biểu thị trên văn tự, 5 thanh còn lại đều mang tên của dấu ghi thanh ấy. Thanh điệu tiếng Việt được thể hiện bằng hai đặc trưng ngữ âm cơ bản: âm vực (cao/ thấp) và âm điệu (bằng/trắc). Với tư cách là “viên gạch” xây nên những đơn vị ở bậc cao hơn, âm tiết tiếng Việt mang thanh điệu góp phần tạo nên sự uyển chuyển, mềm mại của lời nói và đặc biệt đã chi phối những qui tắc làm thơ truyền thống. Hơn thế, trong âm nhạc dân gian, người sáng tạo cũng dựa vào những đặc điểm thanh điệu vốn có trong âm tiết (âm vực và âm điệu) để tạo nên những giai điệu của các bài dân ca. Vì vậy, việc khảo sát tìm hiểu hoạt động hành chức của thanh điệu tiếng Việt trong “địa hạt” âm nhạc không chỉ giúp chúng ta thấy rõ vai trò đặc biệt của nó trong việc tạo nên vẻ đẹp cho thi ca mà còn thấy được sự hiện thực hóa hệ thống thanh điệu trong tiếng Việt phổ thông nói chung cũng như của các phương ngữ nói riêng. 1.2. Dân ca là một trong những hợp phần của âm nhạc dân gian. Với người Việt, cũng như các loại hình dân gian khác, âm nhạc dân gian là bộ phận ra đời sớm và có sức sống lâu bền, tồn tại từ thế hệ này qua thế hệ khác, không ngừng phát triển, ngày một phong phú, đa dạng. Dân ca là những tác phẩm thanh nhạc có lời ca, được tập thể quần chúng nhân dân lao động sáng tạo ra để phục vụ nhu cầu giải trí, nhu cầu tinh thần của chính họ về mọi mặt 1 trong đời sống, sinh hoạt, lao động… Các bài dân ca được ứng tác tại chỗ khi người dân vui chơi, lao động, sinh hoạt, hay những tâm sự, những nỗi niềm thầm kín… được lưu truyền bằng phương thức truyền khẩu. Do đặc tính truyền khẩu, nên các bài dân ca của mỗi địa phương, mỗi vùng, miền, mỗi thế hệ, và ngay cả của mỗi nghệ nhân… luôn được gọt giũa, sửa sang để thành những sáng tạo mang tính tập thể, khuyết danh, và tính dị bản cao. Nhờ vào sự chắt lọc, gọt giũa qua nhiều thế hệ, những bài dân ca ấy trở thành những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao về âm nhạc cũng như lời ca, đại diện cho những ước vọng chân chính của con người trong cuộc sống, thể hiện sự thông minh, sắc sảo của quần chúng lao động. Có thể dễ dàng nhận thấy, trong các hình thái văn hoá dân gian Việt Nam, ca dao và dân ca gắn bó với nhau rất khăng khít. Sự gắn bó giữa thơ và nhạc dân gian Việt Nam đã tồn tại cùng với quá trình lịch sử dân tộc. Những bài thơ xưa được sáng tác không phải để đọc hay in (bằng chữ), mà gắn liền với ngâm, hát (bằng lời). Các bài ca dao và dân ca là do nhân dân, đa phần là nông dân không biết nhiều chữ nghĩa, sáng tạo tùy hứng và tập thể, truyền miệng người này qua người khác. Sự hoàn chỉnh và phát triển của bài hát dân ca là quá trình được “bẻ làn nắn điệu”, tức là một điệu hát khi được hát lên thấy còn chưa hay có thể sửa chữa thêm bớt, hoặc luyến láy thêm vào cho đến khi định hình (tương đối) để thành những làn điệu dân ca. Có thể khẳng định, nhiều làn điệu dân ca Việt Nam như Trống quân, Cò lả, Quan họ, Ru con, Hát ví... được phát triển từ những câu ca dao được sáng tác theo những thể thơ truyền thống của dân tộc. Đa phần âm điệu của lời thơ là cơ sở cho sự hình thành giai điệu của âm nhạc dân ca. Với bước khởi đầu của sự hình thành và phát triển, âm điệu dân ca hầu như không tách khỏi âm điệu tiếng nói, cụ thể ở đây là âm điệu lời thơ. Tìm hiểu mối quan hệ này chúng ta sẽ thấy được sự tương đồng giữa thanh điệu tiếng nói với giai điệu của dân ca trên từng vùng miền khác nhau với những đặc trưng nổi bật. 2 1.3. Nghệ Tĩnh, gồm hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, có một kho tàng thơ ca dân gian đặc sắc, trong đó Ví, Giặm là bộ phận chủ đạo, là hai thể loại diễn xướng dân gian độc đáo hơn cả do cộng đồng người Việt nơi đây sáng tạo nên trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng. Dân ca Ví, Giặm được xem là “đặc sản” của văn hóa xứ Nghệ, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần, hình thành và nuôi dưỡng nên cốt cách, tâm hồn của người dân nơi đây. Năm 2012 dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh đã được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và cuối năm 2014 được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trên con đường trở thành di sản văn hóa Quốc gia và nhân loại, trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, các làn điệu dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh vẫn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay và mỗi loại hình mang những đặc trưng riêng. Với lịch sử tồn tại và phát triển hàng trăm năm, dân ca Ví, Giặm đã hình thành nên các dạng bài ca tiêu biểu như: gắn với nghề nghiệp lao động sản xuất, chủ yếu được sáng tạo và lưu truyền ở các làng nghề (nghề dệt vải, nghề làm nón, nghề làm bánh, nghề đan lát, nghề làm hàng xáo, nghề đóng thuyền, nghề mộc, nghề đúc đồng, nghề gốm, nghề rèn…); gắn với nhu cầu quan hệ giao duyên, hôn nhân; gắn với quan hệ gia đình, dòng họ, mang tính khuyên răn, giáo dục giữa các thế hệ; ca ngợi quê hương, đất nước và các bậc tài danh của Nghệ - Tĩnh; mang tính tự sự, kể về sự tích lập làng, các sự kiện, hiện tượng lịch sử và các nhân vật đặc biệt của một làng quê nhất định. Bởi thế dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là di sản tinh thần vô giá, đã thấm sâu vào tâm hồn, trí tuệ, đời sống người dân của hai tỉnh miền Trung này. Tuy nhiên, khác với Hát giặm vốn dựa trên nền của các bài thơ năm chữ, Hát ví được hình thành và phát triển cơ bản trên cơ sở của các câu thơ lục bát, song thất lục bát và lục bát biến thể. Tìm hiểu về loại hình dân ca Ví, Giặm với những đặc điểm ngôn ngữ của ca từ nói chung cũng như mối quan hệ giữa các yếu tố ngữ âm địa phương với giai điệu của Hát ví Nghệ Tĩnh nói riêng là tìm hiểu tính thống nhất, đặc biệt là những nét riêng của dân 3 ca xứ Nghệ so với dân ca của các vùng miền khác trên đất nước. Cũng là tìm hiểu những đặc trưng về ngôn ngữ và văn hóa của con người xứ Nghệ, giúp chúng ta cảm nhận được cái tinh túy của âm nhạc dân gian thể hiện qua sức mạnh biểu đạt của ngôn từ mà người xưa đã sử dụng chất liệu ca dao, tục ngữ để sáng tạo nên các làn điệu này bằng cả tâm hồn và nhiệt huyết dân tộc. 1.4. Trong thực tiễn đời sống âm nhạc đương đại, việc sáng tác các ca khúc mới có sử dụng chất liệu dân ca nói chung, Ví, Giặm nói riêng cũng là một cách thức để khơi nguồn và tiếp nối sức sống của dân ca cổ truyền trong bối cảnh mới. Những đặc trưng, đặc điểm riêng có của tiếng địa phương Nghệ Tĩnh được sử dụng tinh tế, uyển chuyển sẽ tạo cho nền âm nhạc Việt Nam những tác phẩm mới có giá trị trường tồn. Nghiên cứu của luận án sẽ đóng góp về mặt thực tiễn cho việc sáng tác ca khúc mới dựa trên chất liệu Ví, hoặc làm mới dân ca theo kiểu lồng ghép làn điệu, cũng có thể biến đổi và làm mới giai điệu cho có nhịp, có cao trào để âm hưởng Hát ví không còn trầm buồn mà trong sáng, vui tươi… Đây là việc làm thiết thực, có ý nghĩa góp phần lưu giữ, bảo tồn và phát triển vốn văn hóa dân gian, bản sắc của Đất - Người xứ Nghệ, những viên ngọc quý dễ bị lãng quên trước sự tác động của nhiều yếu tố xã hội và quy luật của sự hội nhập, phát triển kinh tế, văn hóa. Với những lí do đã trình bày ở trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Mối quan hệ giữa thanh điệu trong ca từ với giai điệu của Hát ví Nghệ Tĩnh” làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là: khảo sát, phân tích nguồn ngữ liệu để làm rõ đặc điểm sử dụng thanh điệu tiếng địa phương Nghệ Tĩnh trong ca từ để tạo nên giai điệu của Hát ví Nghệ Tĩnh ở những nét cơ bản và nổi bật nhất. Qua đó, đưa ra những nhận xét về vai trò, sự ảnh hưởng của thanh điệu tiếng địa phương đối với việc hình thành giá trị cao độ của giai điệu trong dân 4 ca Hát ví Nghệ Tĩnh - một “địa chỉ” của sự hiện thực hóa hoạt động hành chức của thanh điệu tiếng Việt. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án đặt vấn đề khảo sát sự tương ứng và mối quan hệ giữa thanh điệu của ca từ với giá trị cao độ của giai điệu trong Hát ví Nghệ Tĩnh. Cụ thể hơn, đề tài của luận án muốn có cái nhìn tổng quan về cách thức chuyển hóa một bài thơ thành một giai điệu của Hát ví Nghệ Tĩnh, góp phần làm rõ thêm cách thức chuyển hóa thanh điệu trong âm tiết tiếng Việt trở thành sự cao thấp, lên bổng xuống trầm của các nốt nhạc trong âm nhạc cổ truyền và âm nhạc hiện đại Việt Nam. Từ định hướng trên, chúng tôi tập trung nghiên cứu các vấn đề: Thứ nhất, tổng hợp những vấn đề lý luận chung liên quan đến đề tài, như: thanh điệu tiếng Việt và thanh điệu tiếng địa phương Nghệ Tĩnh; mối quan hệ giữa ca từ, thanh điệu và giai điệu của dân ca; Hát ví Nghệ Tĩnh và các vấn đề liên quan khác. Thứ hai, phân loại, thống kê, xác định sự tương ứng giữa âm vực của thanh điệu gắn liền với âm tiết trong ca từ và (các) nốt nhạc của Hát ví Nghệ Tĩnh. Thứ ba, phân loại, thống kê, xác định sự tương ứng giữa đường nét của thanh điệu gắn liền với âm tiết trong ca từ và (các) nốt nhạc của Hát ví Nghệ Tĩnh. Thứ tư, thông qua các kết quả thống kê, chỉ ra vai trò, mối quan hệ tương ứng giữa âm vực và đường nét của thanh điệu trong ca từ với giá trị cao độ của giai điệu trong hát Ví Nghệ Tĩnh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ tương ứng giữa thanh điệu trong ca từ và cao độ của các nốt nhạc trong các bài dân ca Hát ví Nghệ Tĩnh để làm rõ vai trò của thanh điệu tiếng địa phương với giai điệu của Hát 5 ví Nghệ Tĩnh thông qua khảo sát 1.732 âm tiết mang thanh điệu của 68 bài dân ca Hát ví phổ biến do các nghệ nhân hát và được các nhạc sĩ kí âm, in trong các tài liệu sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu liên quan đến các làn điệu Hát ví Nghệ Tĩnh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu, nguồn ngữ liệu 3.2.1. Phạm vi nội dung Luận án nghiên cứu đặc điểm sử dụng thanh điệu tiếng địa phương Nghệ Tĩnh (âm vực và âm điệu) thuộc phần lời thơ (chủ yếu là lục bát, lục bát biến thể…), không bao gồm tiếng đệm, tiếng phụ nghĩa, tiếng lấy hơi… để tạo nên giai điệu của Hát ví Nghệ Tĩnh. 3.2.2. Nguồn ngữ liệu Nguồn ngữ liệu của chúng tôi là 68 bài dân ca Hát ví được lấy từ 3 tài liệu tiêu biểu, được tuyển chọn, giới thiệu và phổ biến rộng rãi sau đây: 1. Tuyển tập dân ca xứ Nghệ [152]: bài 1 – 19 2. Hát ví Nghệ Tĩnh [93]: bài 20 – 63 3. Phim tư liệu “Hát phường Vải xứ Nghệ” [180]: bài 64 – 68 Với nguồn ngữ liệu này, chúng tôi chỉ khảo sát ca từ (phụ lục 2) của các bản phổ do các nghệ nhân hát và được các nhạc sĩ ký âm, trên văn bản in theo chính tả tiếng Việt (phụ lục 1). Các bài dân ca Hát ví trên được chúng tôi đánh số theo thứ tự xuất hiện và quy định viết tắt ứng với số thứ tự của chúng khi trích dẫn ví dụ trong luận án. 4. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận án sử dụng các phương pháp chính: thống kê - phân loại, quan sát - miêu tả, so sánh - đối chiếu, điền dã ngôn ngữ học. 4.1. Phương pháp thống kê – phân loại được sử dụng để thống kê nguồn tư liệu trên cơ sở tập hợp, phân loại các âm tiết mang thanh điệu trong ca từ Hát ví Nghệ Tĩnh. Với kết quả thống kê mang tính định lượng cụ thể, 6 đây là phương pháp đóng vai trò quan trọng, tạo ra một số căn cứ thực tiễn để có được những đánh giá định tính bảo đảm tính thuyết phục hơn. 4.2. Phương pháp quan sát - miêu tả được sử dụng kết hợp phương pháp định lượng để chỉ ra mối quan hệ tương ứng giữa âm vực và âm điệu của thanh điệu trong lời ca với giá trị cao độ của giai điệu trong các bài Hát ví Nghệ Tĩnh. 4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng trong hầu hết các công đoạn của luận án, từ khâu khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, miêu tả, kết luận… nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa thanh điệu tiếng Việt và thanh điệu tiếng địa phương Nghệ Tĩnh trong các bài Hát ví Nghệ Tĩnh. 4.4. Phương pháp điền dã ngôn ngữ học được sử dụng khi cần thiết phải kiểm tra nguồn gốc, độ chính xác của tư liệu trên văn bản. 5. Đóng góp mới của luận án Đề tài góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu ở bình diện ngữ âm trong Hát ví Nghệ Tĩnh, cụ thể là về mối quan hệ cũng như vai trò của thanh điệu tiếng địa phương Nghệ Tĩnh đối với giai điệu của Hát ví Nghệ Tĩnh. Vận dụng những kiến thức cơ bản của ngữ âm học, phương ngữ học, lý thuyết âm nhạc cơ bản để khảo sát, phân tích về sự tương ứng giữa âm vực và đường nét của thanh điệu đối với việc hình thành giá trị cao độ của giai điệu trong Hát ví Nghệ Tĩnh, qua đó nhằm làm rõ sự hành chức của thanh điệu tiếng Việt trong âm nhạc. Đồng thời đề tài cũng góp phần làm rõ vai trò của thanh điệu tiếng địa phương đối với việc hình thành nên những giá trị âm nhạc đặc trưng vùng miền của các làn điệu dân ca Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần: 7 - Làm rõ một số khía cạnh lý thuyết về thanh điệu tiếng Việt nói chung và thanh điệu tiếng địa phương Nghệ Tĩnh nói riêng. - Bổ sung, làm rõ thêm vai trò đặc biệt của thanh điệu tiếng Việt không chỉ trong việc sáng tác thơ ca mà còn tạo nên vẻ đẹp của giai điệu âm nhạc thông qua hoạt động hành chức của nó. - Miêu tả, làm rõ sự tương ứng giữa âm vực, âm điệu của thanh điệu trong ca từ với giai điệu trong Hát ví Nghệ Tĩnh, mối quan hệ tương tác và vai trò của thanh điệu với giai điệu của dân ca. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án có thể ứng dụng vào việc nghiên cứu, giảng dạy, bảo tồn và sáng tác mới các ca khúc có âm hưởng dân ca xứ Nghệ. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Cơ sở lí luận Chương 3. Sự tương ứng giữa âm vực của thanh điệu trong ca từ với âm vực của nốt nhạc trong Hát ví Nghệ Tĩnh Chương 4. Sự tương ứng giữa diễn tiến cao độ của thanh điệu trong ca từ với sự biến điệu của các nốt nhạc trong Hát ví Nghệ Tĩnh. 8 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Liên quan đến đề tài luận án của chúng tôi đã có các công trình nghiên cứu của những người đi trước thuộc các lĩnh vực: âm tiết và thanh điệu tiếng Việt; thanh điệu tiếng địa phương Nghệ Tĩnh; đặc điểm Hát ví Nghệ Tĩnh và mối quan hệ giữa thanh điệu và giai điệu của dân ca Việt Nam từ góc độ nghiên cứu của ngôn ngữ học và âm nhạc. 1.1. Những nghiên cứu về âm tiết tiếng Việt, thanh điệu tiếng Việt và thanh điệu tiếng địa phương Nghệ Tĩnh 1.1.1. Về âm tiết tiếng Việt Đặc điểm cơ bản và quan trọng nhất của tiếng Việt là ngôn ngữ đơn tiết (monosyllabism) mang thanh điệu. Nói cách khác, âm tiết với tư cách là đơn vị ngữ âm, có vai trò đặc biệt, chi phối tất cả các đặc điểm khác về từ vựng, ngữ pháp... của tiếng Việt. Đề cập đến nội dung này, theo trình tự thời gian, phải kể đến các tác giả tiêu biểu như Nguyễn Hàm Dương (1966), Nguyễn Tài Cẩn (1975), Vũ Bá Hùng (1976), Đoàn Thiện Thuật (1977), Cao Xuân Hạo (1985, 2001), Hồ Lê (1985), Nguyễn Quang Hồng (1976, 2012, 2014, 2017)... Nhìn vào lịch trình thời gian có thể nhận ra rằng, trước những năm 60 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu tiếng Việt không quan tâm đến vai trò của âm tiết. Chỉ sau những năm sáu mươi, những người học tập ở Liên Xô cũ đã tiếp thu những tư tưởng của E.D. Polivanop và A. A. Dragunop về đơn vị được gọi là xilabem - hình tiết tương đương với tiếng hay âm tiết trong tiếng Việt, thì việc xác định vai trò âm tiết mới được quan tâm thỏa đáng. Vào năm 1985, Tạp chí Ngôn ngữ, cơ quan ngôn luận duy nhất thời kỳ này đã tổ chức thảo luận chuyên đề “Tiếng, hình vị và từ” theo hình thức các bài trình bày, thảo luận công khai trên Tạp chí trong nhiều số và đã thu được những kết quả thú vị. Các tác giả tiêu biểu chúng tôi đã nêu trên đều nhất trí và xác nhận vai trò của âm tiết: cho dù là đơn vị ngữ âm, nhưng nó là đơn vị cơ bản nhất và quan trọng nhất tạo nên đặc điểm loại hình đơn lập tiếng Việt. Sự khác biệt giữa các tác giả chỉ là quan niệm về cấu trúc của âm tiết. Nguyễn Hàm 9 Dương là tác giả đầu tiên nêu lên vai trò của âm tiết tiếng Việt qua bài “Âm tiết tiếng Việt, một đơn vị tín hiệu cơ bản” (1966). Trong bài viết, tác giả chứng minh âm tiết trong tiếng Việt là đơn vị phát âm tự nhiên nhất và có chức năng không chỉ đối với ngữ âm mà còn đối với cả từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt. Tiếp tục tư tưởng này, trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt. Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ” (1975), Nguyễn Tài Cẩn khi bàn về đơn vị cơ bản của ngữ pháp tiếng Việt, đã chỉ ra đầy đủ vai trò của âm tiết mà ông gọi là tiếng với tư cách là một thể nhưng thống nhất ba ngôi: tiếng đồng thời là âm tiết (ngữ âm), là từ cơ bản (từ vựng) và là hình vị (ngữ pháp). Rõ ràng, đặc trưng đơn tiết thể hiện ở tất cả các cấp độ của tiếng Việt và là đặc trưng không thể phủ nhận. Cao Xuân Hạo, ngay từ bài viết “Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng” (1985) đã chứng minh cho luận điểm “trong tiếng Việt, tiếng vừa là âm vị, vừa là hình vị vừa là từ” và “tôi có chứng minh rằng trong tiếng Việt đơn vị có cương vị ngôn ngữ học của âm vị là tiếng chứ không phải là âm tố như các ngôn ngữ châu Âu” [72, 51]. Tác giả duy trì quan điểm của mình về việc tiếng không thể phân xuất thành những thành phần nhỏ hơn trong công trình “Âm vị học và tuyến tính” (2001): Nói cách khác tiếng là một khối, không có cấu trúc ngữ âm nội tại. Đây là quan điểm độc đáo về cấu trúc âm tiết tiếng Việt khác với tất cả các tác giả khác khi bàn về đơn vị này. Nguyễn Quang Hồng là người có nhiều bài viết sâu sắc về âm tiết tiếng Việt, đặc biệt là vai trò của nó trong thi ca Việt Nam. Có thể kể đến các khảo sát “Âm tiết tiếng Việt, chức năng và cấu trúc của nó” (1976); “Âm tiết và loại hình ngôn ngữ” (2012); “Âm tiết tiếng Việt và sự thể hiện chức năng thi ca” (2014) và mới nhất là cuốn sách “Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca” (2017). Ông cho rằng âm tiết được người Việt gọi theo cách gọi truyền thống là tiếng tức là xét về mặt âm thanh hoặc là chữ xét về mặt chữ viết (theo quan niệm chữ tượng hình truyền thống). Âm tiết, xét từ góc độ ngữ âm, là một chỉnh thể âm thanh trọn vẹn, không biến đổi trong quá trình giao tiếp và do vậy nó thỏa mãn đặc điểm loại hình đơn tiết: đơn lập về cơ cấu hình thái và âm tiết tính về cơ cấu ngữ âm. Về mặt chức năng, tác giả cho rằng: “Sự tương đương nhất định về mặt chức năng (tạo lập vỏ tiếng các đơn vị mang nghĩa) giữa âm tiết tiếng Việt, tiếng Hán... với âm vị trong các ngôn ngữ biến hình 10 đã dẫn ta đến chỗ thừa nhận âm tiết hay đúng hơn - tiết vị (xi-la-bem - thuật ngữ của E.D. Pô-li-va-nốp) là đơn vị ngữ âm cơ bản trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt, tiếng Hán và các ngôn ngữ cùng loại hình” [84, 31]. Về mặt cấu trúc, tuy là một đơn vị trọn vẹn về ngữ âm nhưng âm tiết vận có thể được phân thành những đại lượng ngữ âm nhỏ hơn: âm đầu, vần và thanh bằng các qui tắc hình thái học của tiếng Việt theo quan điểm âm vận học truyền thống. Các tác giả Vũ Bá Hùng, Hồ Lê và Đoàn Thiện Thuật ít bàn về chức năng mà chủ yếu bàn về cấu trúc của âm tiết tiếng Việt. Các tác giả này đều chia âm tiết thành bốn thành phần chiết đoạn: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và một thành phần siêu đoạn: thanh điệu. 1.1.2. Về thanh điệu tiếng Việt Hệ thống thanh điệu tiếng Việt, từ rất lâu đã được các tác giả cả trong nước và và đặc biệt là các tác giả nước ngoài quan tâm, nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Các công trình của các tác giả trong nước viết về thanh điệu tiếng Việt bằng tiếng Việt phải kể đến: Đoàn Thiện Thuật (1977), Bùi Văn Nguyên (1977), Hoàng Cao Cương (1986), Vũ Kim Bảng (1986), Hoàng Thị Châu (1989), Võ Xuân Quế (1993), Vũ Bá Hùng (1978, 1988, 1990, 1999), Huỳnh Công Tín (1999), Nguyễn Văn Tài (1980), Trần Trí Dõi (1991, 2002), Nguyễn Hoài Nguyên (2002), Nguyễn Văn Lợi (1991, 1997, 2002, 2009, 2012), Nguyễn Tài Thái (2015)… Các công trình của các tác giả ở ngoài nước viết về thanh điệu tiếng Việt bằng tiếng nước ngoài là rất đa dạng và phong phú. Có thể kể đến các tác giả: Lê Văn Lý (1948), Andreev, N.D. & Gordina, M.V. (1957), Nguyen Ham Duong (1966), L. Thompson (1965), Nguyễn Đăng Liêm (1970), Earle (1975), Han và Kim (1974), Gordina M.V. và Bystrov, I.X. (1984), Vu Thanh Phuong (1982), Đỗ Thế Dũng (1986), Haudricourt A.G. (1991), Efimov. A.J. (1991), Ferlus Michel (1997), Andrea Hoa Pham (2001, 2003, 2005), Koichi Honda (2006)... Những nghiên cứu về thanh điệu tiếng Việt có nội dung được đề cập đến rất phong phú: nguồn gốc; miêu tả đặc trưng; các biến thể địa phương và các vấn đề khác liên quan. Về phương pháp, các tác giả dùng cả phương pháp cảm thụ thính giác và phương pháp ngữ âm học thực nghiệm. Sau đây là một 11 số nội dung cơ bản về thanh điệu tiếng Việt qua các nghiên cứu của một số tác giả tiêu biểu. a) Nguồn gốc thanh điệu tiếng Việt Về nguồn gốc các thanh điệu tiếng Việt, phải kể đến các tác giả nước ngoài như Haudricourt A.G. (1991), Efimov.A.J. (1991), Ferlus Michel (1997)… và tác giả trong nước như Nguyễn Văn Tài (1980), Trần Trí Dõi (1991), Nguyễn Văn Lợi (1991)… A.G. Haudricourt (1991) trong bài viết “Về nguồn gốc các thanh điệu tiếng Việt”, trên Tạp chí Ngôn ngữ, số 1 được xem là người đề cập căn bản nhất về vấn đề nguồn gốc thanh điệu Việt. Tác giả đã chứng minh tiếng Việt (nói đúng ra là tiếng Việt Mường chung) ở giai đoạn đầu Công nguyên còn chưa có thanh điệu, trong từ còn có phụ tố và các nhóm phụ âm đầu, các âm cuối họng, hầu và xát. Việc hình thành thanh điệu do hai quá trình tạo ra: sự rụng dần hoặc bị thay thế các âm cuối [r], [l], [h], [s], [?] và nhu cầu phải phân biệt các âm đầu vô thanh tiếng Hán (do sự vay mượn tiếng Hán Việt) với các âm hữu thanh đã được vô thanh hóa trong tiếng Việt Mường giai đoạn muộn hơn. Các tác giả khác dựa trên cách đặt vấn đề của A.G. Haudricourt để triển khai nghiên cứu sâu hơn ở các khía cạnh khác nhau về nguồn gốc thanh điệu tiếng Việt. b) Đặc trưng hệ thống thanh điệu tiếng Việt Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các đặc trưng của hệ thống thanh điệu tiếng Việt. Tuy nhiên, các nghiên cứu này phần lớn chỉ nghiên cứu thanh điệu trong bối cảnh độc lập mà chưa có nhiều nghiên cứu xem xét sự biến đổi của thanh điệu trong ngữ lưu. Sở dĩ như vậy, theo chúng tôi, không phải là vì vấn đề này chưa được nghĩ đến mà là do hạn chế của phương pháp nghiên cứu (đa số dùng phương pháp cảm thụ thính giác), hạn chế của các phương tiện phân tích hoặc người sử dụng chưa phát huy hết hiệu quả của các máy móc thực nghiệm. Một cách khái quát nhất có thể nói nghiên cứu về thanh điệu tiếng Việt một cách toàn diện ở diện đồng đại, trước tiên phải kể đến hai công trình “Hệ thống thanh điệu tiếng Việt” của Andreev N.D. & Gordina V. (1957) và “Ngữ âm tiếng Việt” của Đoàn Thiện Thuật (1977). Cả hai công trình này trước tiên 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan