Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mở rộng thị trường cơ điện tử tại việt nam...

Tài liệu Mở rộng thị trường cơ điện tử tại việt nam

.DOC
44
49
87

Mô tả:

THÔNG TIN THỰC TẬP Đơn vị: Viện máy và dụng cụ công nghiệp- Công ty cổ phần 3B Địa chỉ: 46 Láng Hạ- Đống Đa- Hà Nội Thời gian thực tập: 1/7/2011 – 7/8/2011 Người hướng dẫn tại nơi thực tập: Ms. Chí Mai HươngTrưởng phòng Kinh doanh 0 Lí do chọn đề tài “ Mở rộng thị trường cơ điện tử tại Việt Nam” Cơ điện tử “ Cơ hội vàng” cho nền công nghiệp của những nước chậm phát triển và đang phát triển Để hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang phải tìm lời giải cho bài toán cạnh tranh về giá cả lẫn chất lượng sản phẩm trên thị trường trong nước và nước ngoài. Theo các chuyên gia kinh tế một trong những điểm yếu mà sản phẩm của Việt Nam khó có thể cạnh tranh, thâm chí thua ngay trên sân nhà là những sản phẩm có tính “ thông minh”. Ví dụ trong hoàn cảnh hang hóa cơ khí xuất khẩu của Việt Nam hiện nay mới chủ yếu là phần cứng thô sơ, phi tiêu chuẩn có hàm lượng “ thông minh” thấp, giá cả thường tính trên khối lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, nền chông nghiệp Việt Nam còn tụt hậu đòi hỏi phải đầu tư nhiều nên đã làm tăng giá thành sản phẩm, do đó khó có khả năng cạnh tranh ngay tại Việt Nam cũng như trong khu vực. Để có khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại của thế giới, từng bước có thể tự thiết kế, chế tạo các thiết bị, máy móc điều khiển thông minh trong những năm đầu thế kỷ 21, Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII và kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khóa IX khẳng định: Việc ứng dụng và phát triển Cơ điện tử là một bước đi rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển của đất nước. Cơ điện tử cho phép những nước nghèo, chậm phát triển không nhất thiết phải đi theo trình tự phát triển của những nước công nghiệp đã đi quaphương pháp cổ điển và cách thức tiếp cận truyền thống- nữa mà có thể “ đi tắt đón đầu”. Đó là các nước chậm phát triển có thể tạo ra 1 những đột phá trong tư duy CÔNG NGHỆ TỔNG HỢP tạo ra những sản phẩm mới có tính cạnh tranh trên thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này, nếu chúng ta biết tận dụng truyền thống Thông minh- sáng tạo- cần cù của dân tộc. Điều này sẽ giúp cho hang hóa của Việt Nam đứng vững trên thị trường quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Để làm được việc này, theo tôi Việt Nam cần có đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có tính sáng tạo cao, có chiến lược phát triển đúng hướng kèm với chiến lược kinh doanh thích hợp tạo tiền đề phát triển cho nhiều ngành nghề khác. Mặt khác, với Cơ điện tử Việt Nam có thể bỏ qua một số giai đoạn đầu tư tốn kém trong phát triển công nghệ, để đi thẳng vào ứng dụng công nghệ cao tạo ra giá trị mới. Trong những năm vừa qua sự hội nhập và gia tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đi kèm với việc thâm nhập ồ ạt của các trang thiết bị nước ngoài, điều này đặt ra gánh nặng về kinh tế cho các doanh nghiệp cũng như đất nước. Nhất là với sản phầm từ nước ngoài, ta phải trả cho giá trị phần trí tuệ rất cao. Vì vậy, với khả năng sáng tạo , tiếp thu của người Việt Nam, tôi tin rằng chúng ta hoàn toàn có sức phát triển và cạnh tranh trong lĩnh vực này với nền tẳng cơ sở là nguồn nhân công giá rẻ, sự tiếp thu kỹ thuật có chọn lọc, tính sáng tạo đổi mới . Đây chính là “ cơ hội vàng” cho các nước chậm phát triển như Việt Nam có thể tìm được vị thế cho mình trong quá trình hội nhập toàn cầu sang hành cùng mục tiêu phấn đấu cho đất nước ngày một giàu mạnh hơn. Sau một thời gian tìm hiểu, tôi thấy rằng Viện máy và dụng cụ công nghiệp nói chung và Công ty cổ phần 3B nói riêng 2 là những đơn vị mũi nhọn trong xu hướng này, bằng chứng là sự mở rộng không ngừng trong nhiều lĩnh vực của công ty cổ phần 3B, doanh thu tăng liên tục theo các năm, đồng thời hàng năm công ty đã đạo tạo ra lượng lớn các cán bộ kỹ sư lành nghề trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó Công ty cổ phần 3B còn có thế mạnh trong gia công quốc tế và liên kết, liên doanh với các tập đoàn lớn về công nghiệp như tập đoàn oto Ford, Toyota, Tập đoàn thiết bị điện lực ABB của Thụy Sỹ, Tập đoàn thiết bị Hanaka… Điều này cho thấy triển vọng phát triển không ngừng trong tương lai của công ty cổ phần 3B. CHƯƠNG I Giới thiệu về Viện máy và dụng cụ Công nghiệp- Công ty cổ phần 3B- Lí do chọn đề tài “ Mở rộng thị trường cơ điện tử tại Việt Nam” 1. Viện máy và dụng cụ Công nghiệp Viện Máy và Dụng cụ Công nghiệp (IMI - Holding) - Công ty mẹ Nhà nước, Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ đầu ngành của Bộ Công Thương được thành lập ngày 23/05/1973. Hiện nay làm việc tại IMI Holding có khoảng 2000 Cán bộ Khoa học và Công 3 nhân viên, có trụ sở chính tại số 46 Láng Hạ, Đống Đa - Hà nội, chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh, và có các Công ty thành viên, đại diện tại nhiều thành phố lớn trên cả nước và ở nước ngoài. Viện Máy và Dụng cụ Công nghiệp được tổ chức và hoạt động theo mô hình Công ty Mẹ - Công ty Con, trong đó Công ty Mẹ là là Doanh nghiệp Khoa học công nghệ. Nhằm mục đích gắn nghiên cứu khoa học với Đào tạo và Sản xuất, theo định hướng phát triển thành tập đoàn Khoa học công nghệ, hoạt động của Viện IMI gồm 03 lính vực chủ yếu: 1.1. R&D - Nghiên cứu phát triển các ứng dụng khoa học công nghệ cơ điện tử trong các ngành công nghiệp, dân dụng, y tế và môi trường. - Nghiên cứu thiết kế các sản phẩm công nghệ cao mang tính đột phá và nghiên cứu phát triển các công nghệ đặc biệt. - Nghiên cứu phát triển công nghệ thiết kế và thử nghiệm CHIP công nghiệp, các phần mềm kỹ thuật và quản lý. - Tư vấn khoa học, kỹ thuật trong lĩnh vực công nghiệp và môi trường. 1. 2. Đào tạo - Đào tạo tiến sỹ kỹ thuật trong lĩnh vực Cơ khí chế tạo máy và Cơ điện tử. - Đào tạo kỹ sư ngành Cơ điện tử trên cơ sở phối hợp với Trường Đạo học Công nghệ. 1.3.Sản xuất kinh doanh 4 - Chuyển giao nhanh và đưa vào sản xuất công nghiệp các sản phẩm khoa học để tạo ra các sản phẩm mới có giá trị gia tăng lớn. - Sản xuất kinh doanh và lắp đặt các loại máy và thiết vị công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp, dân dụng, y tế và môi trương. - Cung cấp các hệ thống tự động hóa, các bộ tích hợp chip công nghệ, các phần mềm quản lý và kỹ thuật - Tư vấn đầu tư, kinh doanh du lịch, dịch vụ thuê văn phòng, nhà xưởng Bên cạnh đó, Viện máy và dụng cụ Công nghiệp đã nhận được các giải thưởng, khen tặng cho những nỗ lực không ngừng. Các sản phẩm đã đạt giải thưởng Hồ Chí Minh gồm: - Nhóm sản phẩm Cơ điện tử trong lĩnh vực đo lường Công nghiệp - Nhóm sản phẩm Cơ điện tử phục vụ ngành kỹ thuật điện và bảo vệ môi trường - Nhóm sản phẩm Cơ điện tử trong lĩnh vực máy công cụ - Nhóm sản phẩm cơ điện tử phục cụ ngành chế biến nông sản - Nhóm sản phẩm Cơ điện tử phục vụ ngành xây dựng Có thể nói, Viện máy và dụng cụ công nghiệp đã đóng góp lượng chất xám không nhỏ góp phần cho xây dựng đất nước thời kỳ xây dựng và đổi mới nói chung và cho sự nghiệp phát triển triển ngành Cơ điện tử của Việt Nam nói riêng. 5 2. Công ty cổ phần 3B Công ty cổ phần 3B là một trong những công ty con của Viện Máy và dụng cụ Công nghiệp thuộc Bộ Công Thương được thành lập ngày 7/12/2007 dựa trên cơ sở hợp nhất 3 trung tâm nghiên cứu của Viện bao gồm: Trung tâm thiết bị công nghiệp Trung tâm kỹ thuật cao Trung tâm gia công áp lưc Công ty cổ phần 3B chuyên hoạt động và sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực nghiên cứu, chế tạo, chuyển giao các thiết bị, công nghệ trong các lĩnh vực Máy công cụ CNC Dây chuyền thiết bị đồng bộ điều khiển tự động Thiết bị phục vị ngành lâm nghiệp, nông nghiệp Các sản phẩm cơ điện tử kỹ thuật cao Thiết bị phục vụ nhiều ngành nghề khác Với những nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao và phát triển công nghệ, công ty cổ phần 3B đã chiếm lĩnh thế mạnh trong các ngành: Chế tạo gá hàn, lắp ráp oto Dây chuyền sản xuất cáp, thiết bị điện Hệ thống thông gió nhà xưởng 6 Thiết bị công nghiệp, vỏ máy biến thế công suất lớn Khung vỏ thang máy, vỏ bơm xăng Ngày 8/7/2010 Công ty cổ phần 3B đã chính thức nhận chứng chỉ ISO 9001:2000 như một phần thưởng lớn cho những phấn đấu cho những thành tựu trong sản xuất kinh doanh của mình. Ngày nay, Công ty cổ phần 3B đang nỗ lực hướng đến mở rộng thị trường Cơ điện tử cả chiều sâu lẫn chiều rộng bằng cách nâng cao sản xuất kết hợp chiến lược kinh doanh thích hợp để vươn đến những thị trường xa hơn. CHƯƠNG II Cơ điện tử của Việt Nam trong quá trình hội nhập nói chung và của Công ty cổ phần 3B nói riêng 1. Xu thế phát triển cơ điện tử của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng những năm gần đây. Sự phát triển của CĐT đang chuyển dần từ các sản phẩm CĐT cao cấp (máy bay, tên lửa, rô bốt vũ trụ…) sang các sản phẩm CĐT công nghiệp (ô tô, camera, đầu DVD, rôbốt gia đình…). CĐT công nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường sản phẩm chế tạo hàng loạt, như chu kỳ đổi mới sản phẩm ngắn, giá cả phải có sức cạnh tranh và thời gian đưa ra thị trường phải nhanh. Do vậy, CĐT công nghiệp không chỉ đơn thuần có tư duy thiết kế hệ thống mà phải có cả tư duy thiết kế hướng sản phẩm. 7 Mặt khác, chúng ta cũng thấy sự chuyển dịch thay thế các chức năng, nguyên lý và thiết kế cơ khí sang các giải pháp phần mềm. Tỷ lệ phần mềm sẽ ngày càng lớn trong các sản phẩm CĐT. Phần lớn phần mềm được thể hiện trong các chíp phần cứng, do vậy ta hiểu thiết kế phần mềm ở đây là sự thiết kế phối hợp cứng/mềm (hardware/software co-design). Ngoài các sản phẩm và hệ thống CĐT thông thường, đã xuất hiện nhiều sản phẩm hệ thống vi cơ điện (MEMS - Micro Electro-mechanical Systems) và hiện nay chúng ta đang được nghe nhiều về hệ thống nano cơ điện tử (NEMS - Nano Electro-mechanical Systems). Trong khi CĐT thông thường và MEMS dựa trên cơ sở khoa học của cơ học và lý thuyết điện từ trường, thì NEMS dựa trên cơ sở khoa học của cơ lượng tử và đi sâu vào thế giới vi mô cấp nguyên tử. Công nghệ nano hứa hẹn nhiều kết quả và ứng dụng phi thường nhưng cũng còn rất nhiều thách thức, đòi hỏi thời gian và đầu tư lâu dài. Với bản chất gắn kết nhiều công nghệ cao trong một sản phẩm, CĐT ngày càng tích hợp trong nó những công nghệ mới. Trước tiên, phải nói đến lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, bao gồm cả lĩnh vực xử lý tiếng nói và hình ảnh, sẽ mang lại linh hồn và cảm xúc cho các sản phẩm CĐT trong tương lai. Việc tích hợp với công nghệ sinh học tạo nên các hệ thống bio-mechatronics đang mở ra những chân trời mới cho sự sáng tạo của loài người. Xu thế phát triển của cơ điện tử trên thế giới là tích hợp ngày càng nhiều công nghệ cao, sản phẩm ngày càng “thông minh” hơn và kích thước ngày càng nhỏ hơn. Một số công nghệ mới đóng vai 8 trò quan trọng trong các sản phẩm và hệ cơ điện tử trong thời gian tới là: Công nghệ mạng máy tính nhúng và công nghệ vật liệu mới. Với công nghệ mạng máy tính nhúng, các sản phẩm cơ điện tử sẽ có chức năng hội thoại và phối hợp thực hiện được nhiều nhiệm vụ có độ phức tạp cao hoặc đồng thời ở nhiều địa điểm trên diện rộng. Công nghệ vật liệu mới cho ta những vật liệu có đặc tính như điều khiển được hoặc có khả năng biến dạng để chế tạo các cơ cấu chấp hành hoặc cấu trúc cơ khí không gian 3 chiều cho sản phẩm cơ điện tử. Công nghệ micro/nano nhằm thu nhỏ các thiết bị máy móc xuống kích thước của phân tử cho các sản phẩm công nghệ trong tương lai. Với việc điều khiển chính xác các nguyên tử và phân tử, con người có thể chế tạo ra các cảm biến mới, các vật liệu nhân tạo “thông minh”, bộ nhớ có dung lượng terabyte (1012 byte), các rôbốt/máy kích thước micro, các hệ thống “thông minh” cực nhỏ... Tuy nhiên, công nghệ nano còn nhiều thách thức mà hiện nay con người chưa giải quyết được. Sự hiểu biết cơ chế hoạt động, điều khiển ở kích thước nano còn chưa hoàn hảo. Các nghiên cứu về vi/nano cơ điện tử mới đang ở giai đoạn đầu. Xu thế thông minh hoá các sản phẩm cơ điện tử được thể hiện ở việc phát triển “trí thông minh” cho các sản phẩm. Các nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo, mạng nơron, hệ chuyên gia, giải thuật gen, các phương pháp xử lý song song... đang là hướng nghiên cứu thời sự cho các hệ điều khiển thông minh áp dụng cho các sản phẩm cơ điện tử trong tương lai. Và với việc xử lý trong thời gian thực các tín hiệu của cảm biến âm thanh, hình ảnh, tiếng nói, các cảm 9 biến tiếp xúc như lực, mômen... sẽ tạo ra các sản phẩm cơ điện tử có khả năng đối thoại và tự suy diễn, ra quyết định, tự thích nghi với môi trường như những sinh vật sống Trong thời gian qua, lĩnh vực CĐT của nước ta đã có những chuyển biến vượt bậc. Hợp tác quốc tế về CĐT đã được thúc đẩy ở cả ba miền: Hội nghị Nhật - Mỹ - Việt Nam RESSCE ‘98 ở Hà Nội, RESSCE ’00 ở thành phố Hồ Chí Minh, trường hè về CĐT ở Đà Nẵng năm 2002 và Hội nghị quốc tế lần thứ 9 về công nghệ CĐT ICMT 2004 tại Hà Nội. Lĩnh vực đào tạo CĐT đã được hình thành tại nhiều trường đại học ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Các cuộc thi sáng tạo robot đã mang lại nhiều cơ hội cho giới trẻ trong việc tiếp cận các phương pháp và kỹ năng thiết kế, tích hợp các sản phẩm CĐT. Việc nghiên cứu về CĐT đang được triển khai tốt tại các viện nghiên cứu, trường đại học và nhiều cơ sở sản xuất. Chúng ta cũng đã tổ chức Hội nghị CĐT toàn quốc lần thứ nhất tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc năm 2002 và lần thứ 2 tại Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh năm 2004. Những gì mà các nhà khoa học đề cập tại các hội nghị đã chứng tỏ tiềm năng nghiên cứu sáng tạo của chúng ta trong lĩnh vực mới mẻ này. Mặc dù chưa có nền công nghiệp CĐT, song một số sản phẩm CĐT đã được nhiều cơ sở trong nước và các liên doanh tổ chức sản xuất tại Việt Nam như: Viện Máy và Dụng cụ Công nghiệp, Nhà máy sản xuất robot ở Khu công nghiệp Nomura Hải Phòng. Trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010, CĐT đã được xác định là một trong những lĩnh vực công nghệ trọng 10 điểm. Tuy nhiên sự phát triển của lĩnh vực này ở nước ta gặp không ít khó khăn do bản thân CĐT là một ngành khoa học công nghệ mới nên việc thâm nhập vào đời sống sản suất đòi hỏi phải có một quá trình thay đổi nhận thức và chính sách vĩ mô. Sự phát triển có được trong thời gian qua chủ yếu là tự phát, tuân theo quy luật cung cầu của thị trường, sự nỗ lực của các chuyên gia tâm huyết và sự phát triển do Internet mang lại. Có thể nói, CĐT ở Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội và thách thức. Về mặt cơ hội, thị trường CĐT là thị trường mới không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước đang phát triển và phát triển trên toàn cầu. Đây là thị trường chưa bị bão hoà nên mức độ cạnh tranh chưa khốc liệt. Mặt khác, nhu cầu sử dụng các sản phẩm CĐT ngày càng nhiều và chủng loại sản phẩm có thể nói là vô tận. Các sản phẩm CĐT được hình thành từ các ý tưởng thông minh hoá, bổ sung các chức năng mới cho các sản phẩm hiện hành và tạo ra các sản phẩm mới bằng sự tích hợp liên kết nhiều công nghệ cao trong sản phẩm từ đơn giản đến phức tạp. Như vậy ta có thể thông minh hoá, tạo linh hồn và cảm xúc cho các đồ dùng, thiết bị, máy móc xung quanh ta, sáng tạo nên các sản phẩm mới với các chức năng vượt trội. Với sức tưởng tượng phong phú của người Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào khả năng sáng tạo các sản phẩm mới kiểu này. Thị trường rộng lớn của CĐT sẽ tạo nên nhiều cơ hội việc làm mới cho các nhà nghiên cứu và các nhà sản xuất với nhiều ứng dụng trong mọi ngành nghề, từ nông nghiệp, y tế, năng lượng, 11 giao thông vận tải… tới các ngành dịch vụ giải trí, bưu chính viễn thông, an ninh quốc phòng... Ví dụ thị trường ô tô đang phát triển với tốc độ chóng mặt do tác động của công nghệ CĐT. Có đến 90% các cải tiến đổi mới ở ô tô nằm trong phần mềm và phần điện tử. CĐT cũng đang tạo ra nhiều cơ hội việc làm trong giáo dục và đào tạo. Các kỹ sư cơ khí, kỹ sư điện ở các nhà máy hiện nay cần được đào tạo, bổ túc các kiến thức và cách làm việc phối hợp của CĐT. Đây là một nhu cầu vô cùng lớn. Mặt khác, nhu cầu kỹ sư CĐT được đào tạo bài bản sẽ là một nhu cầu luôn tăng trưởng. Bên cạnh những cơ hội, ta cũng còn phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát triển CĐT như: Về đào tạo nguồn nhân lực: CĐT là một lĩnh vực liên ngành nên việc đào tạo ở các trường cũng rất đa dạng. Một giáo trình chuẩn về CĐT của các trường đại học lớn ở các nước còn chưa hình thành. Điều này cũng khó có thể có do tính đa dạng sản phẩm của lĩnh vực CĐT. Mặt khác, sự phối hợp giữa đào tạo và sản xuất trong lĩnh vực CĐT cũng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là việc kết hợp bài giảng với việc thực hành CĐT ở các nhà máy. Sự phát triển của CĐT đòi hỏi phải cập nhật thông tin của nhiều ngành công nghệ, trong đó, công nghệ vi điện tử và công nghệ thông tin có tốc độ phát triển rất nhanh. Do vậy, yêu cầu về các giảng viên cũng phải cập nhật được các kiến thức mới. Điều này không phải là dễ dàng đối với các nước nghèo như Việt Nam. CĐT là lĩnh vực có tính ứng dụng cao và đòi hỏi kỹ năng thực hành của nhiều công nghệ cao, nhất là công nghệ điều khiển thời gian thực, các hệ nhúng, vì vậy vấn đề thực hành cũng 12 là một thách thức không nhỏ. Ngoài ra, các phòng thí nghiệm CĐT cũng đòi hỏi không ít kinh phí và trí tuệ. Về nghiên cứu khoa học: CĐT, một mặt là công nghệ tạo nên sản phẩm mới, mặt khác lại là một lĩnh vực khoa học hóc búa, cần nhiều nghiên cứu tập trung vào các tác động tương hỗ giữa các lĩnh vực công nghệ khi chúng được tích hợp với nhau một cách hữu cơ. Thế nhưng chúng ta còn biết quá ít về các ảnh hưởng, về tác động qua lại này trong khi đây lại là bản chất của CĐT. Có nắm bắt được cơ sở khoa học của các tác động tương hỗ này thì mới phát huy được những tính năng vượt trội mà chỉ sự liên kết các công nghệ mới có được. Đây lại là một thách thức lớn cho nghiên cứu vì phải đối mặt với những vấn đề của hệ thống lớn, mang tính phi tuyến, nhiều bất định và thay đổi theo thời gian. Về thiết kế sản phẩm: việc thiết kế các sản phẩm CĐT theo phương pháp liên kết các hệ thống nhỏ đi từ dưới lên (bottom-up) như hiện nay sẽ dần dần không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, giá thành, thời gian. Việc thiết kế theo hệ thống lớn là một thách thức đối với CĐT. Điều này đòi hỏi các chương trình thiết kế CAD cho các sản phẩm CĐT phải được mở rộng ra nhiều lĩnh vực (CAD cho cơ + CAD cho điện tử + CAD cho điều khiển…) và xử lý được độ phức tạp của chương trình thiết kế tổng hợp, khả năng mô hình hoá và mô phỏng hệ thống lớn. Mặt khác, các chương trình thiết kế này còn phải đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của các ứng dụng CĐT. 13 Về độ tin cậy của sản phẩm: việc tích hợp nhiều công nghệ trong một sản phẩm đương nhiên sẽ làm giảm độ tin cậy của sản phẩm do độ phức tạp của hệ thống tăng. Việc đưa vào hàng trăm hệ vi điều khiển được kết nối thành mạng trong một ô tô liệu có làm hoạt động của ô tô kém tin cậy hơn so với ô tô cơ khí truyền thống? Thực tế là độ tin cậy của sản phẩm CĐT lại là một vấn đề ít được mổ xẻ tại các cơ sở sản xuất. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của CĐT trong tương lai. Thách thức đối với sản xuất: sản xuất các sản phẩm CĐT đòi hỏi những năng lực thiết kế và chế tạo, kể cả các điều kiện lắp ráp mà không phải luôn có trong một cơ sở sản xuất. Đối với những cơ sở vừa và nhỏ, việc có đủ các điều kiện này không phải dễ dàng. Mức độ hợp tác giữa các chuyên gia CĐT, tự động hoá đòi hỏi có sự gắn kết cao. Cách làm việc chuyển dịch từ các chuyên gia độc lập sang làm việc theo nhóm chuyên gia phối hợp đa ngành cũng không phải dễ vì phải thay đổi nếp làm việc đã hình thành từ lâu ở Việt Nam. Ngay cả khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm cũng đòi hỏi nhiều trang thiết bị hơn để có thể đánh giá được chất lượng sản phẩm ở từng công nghệ khác nhau. Trong thời gian qua, lĩnh vực CÐT của nước ta đã có những chuyển biến vượt bậc. Hợp tác quốc tế về CÐT đã được thúc đẩy ở cả ba miền. Việc nghiên cứu về CÐT đang được triển khai tốt tại các viện nghiên cứu, trường đại học và nhiều cơ sở sản xuất. Chúng ta cũng đã tổ chức Hội nghị CÐT toàn quốc lần thứ nhất tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc năm 2002 và lần thứ hai tại Ðại học Bách 14 khoa thành phố Hồ Chí Minh năm 2004. Những gì mà các nhà khoa học đề cập tại các hội nghị đã chứng tỏ tiềm năng nghiên cứu sáng tạo của chúng ta trong lĩnh vực mới mẻ này. Mặc dù chưa có nền công nghiệp CÐT, song một số sản phẩm CÐT đã được nhiều cơ sở trong nước và các liên doanh tổ chức sản xuất tại Việt Nam như: Viện Máy và Dụng cụ Công nghiệp, Nhà máy sản xuất robot ở Khu công nghiệp Nomura Hải Phòng. Trong chiến lược phát triển KH và CN Việt Nam đến năm 2010, CÐT đã được xác định là một trong những lĩnh vực công nghệ trọng điểm. Tuy nhiên sự phát triển của lĩnh vực này ở nước ta gặp không ít khó khăn do bản thân CÐT là một ngành khoa học công nghệ mới, cho nên việc thâm nhập vào đời sống sản xuất đòi hỏi phải có một quá trình thay đổi nhận thức và chính sách vĩ mô. Sự phát triển có được trong thời gian qua chủ yếu là tự phát, tuân theo quy luật cung - cầu của thị trường, sự nỗ lực của các chuyên gia tâm huyết và sự phát triển do internet mang lại. Có thể nói, CÐT ở Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội và thách thức. Về mặt cơ hội, thị trường CÐT là thị trường mới không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước đang phát triển và phát triển trên toàn cầu. Ðây là thị trường chưa bị bão hòa, cho nên mức độ cạnh tranh chưa khốc liệt. Mặt khác, nhu cầu sử dụng các sản phẩm CÐT ngày càng nhiều và chủng loại sản phẩm có thể nói là vô tận. Các sản phẩm CÐT được hình thành từ các ý tưởng thông minh hóa, bổ sung các chức năng mới cho các sản phẩm hiện hành và tạo ra các sản phẩm mới bằng sự tích hợp liên kết nhiều công nghệ cao trong sản 15 phẩm từ đơn giản đến phức tạp. Như vậy, ta có thể thông minh hóa, tạo linh hồn và cảm xúc cho các đồ dùng, thiết bị máy móc chung quanh ta, sáng tạo nên các sản phẩm mới với các chức năng vượt trội. Với sức tưởng tượng phong phú của người Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào khả năng sáng tạo các sản phẩm mới kiểu này. Bên cạnh những cơ hội, ta cũng còn phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát triển CÐT. Về đào tạo nguồn nhân lực: CÐT là một lĩnh vực liên ngành, việc đào tạo ở các trường cũng rất đa dạng. Chưa có một giáo trình chuẩn về CÐT, do tính đa dạng sản phẩm của lĩnh vực CÐT. Mặt khác, sự phối hợp giữa đào tạo và sản xuất trong lĩnh vực CÐT cũng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là việc kết hợp bài giảng với việc thực hành CÐT ở các nhà máy. CÐT là lĩnh vực có tính ứng dụng cao và đòi hỏi kỹ năng thực hành của nhiều công nghệ cao, nhất là công nghệ điều khiển thời gian thực, các hệ thống nhúng, vì vậy vấn đề thực hành cũng là một thách thức không nhỏ. Về nghiên cứu khoa học: CÐT một mặt là công nghệ tạo nên sản phẩm mới, mặt khác lại là một lĩnh vực khoa học hóc búa, cần nhiều nghiên cứu tập trung vào các tác động tương hỗ giữa các lĩnh vực công nghệ khi chúng được tích hợp với nhau một cách hữu cơ. Về thiết kế sản phẩm: việc thiết kế các sản phẩm CÐT theo phương pháp liên kết các hệ thống nhỏ đi từ dưới lên như hiện nay sẽ dần dần không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, giá thành, thời gian. Việc thiết kế theo hệ thống lớn là một thách thức 16 đối với CÐT. Ðiều này đòi hỏi các chương trình thiết kế CAD cho các sản phẩm CÐT phải được mở rộng ra nhiều lĩnh vực (CAD cho cơ + CAD cho điện tử + CAD cho điều khiển...) và xử lý được độ phức tạp của chương trình thiết kế tổng hợp, khả năng mô hình hóa và mô phỏng hệ thống lớn. Mặt khác, các chương trình thiết kế này còn phải đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của các ứng dụng CÐT. Thách thức đối với sản xuất: sản xuất các sản phẩm CÐT đòi hỏi những năng lực thiết kế và chế tạo, kể cả các điều kiện lắp ráp mà không phải luôn có trong một cơ sở sản xuất. Ðối với những cơ sở vừa và nhỏ, việc có đủ các điều kiện này không phải dễ dàng. Ngay cả khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm cũng đòi hỏi nhiều trang thiết bị hơn để có thể đánh giá được chất lượng sản phẩm ở từng công nghệ khác nhau. Nước ta nằm trong khu vực châu Á, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Với thị trường to lớn và các cơ hội riêng, CÐT sẽ đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển và tăng trưởng bền vững của Việt Nam. Do vậy, chúng ta cần có một chính sách vĩ mô, khuyến khích đầu tư cho đào tạo, nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm CÐT. Trong sự phát triển ngành công nghiệp CÐT, theo chúng tôi các cơ quan chức năng tập trung đầu tư để trong một thời gian ngắn có được một số sản phẩm chủ chốt trong một số lĩnh vực như thiết bị gia dụng, thiết bị y tế, phương tiện giao thông, máy gia công, chế biến nông sản... Việc đào tạo nguồn nhân lực cũng đặc biệt quan 17 trọng. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cũng cần được đẩy mạnh, nhất là đối với lớp trẻ. Có thể nói, CÐT tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển, phồn thịnh của đất nước, đồng thời đòi hỏi nhiều sự thay đổi ở nhiều lĩnh vực. Nhiệm vụ của chúng ta là tạo được sự phát triển hài hòa và bền vững trong quá trình chuyển đổi từ tư duy chuyên môn hóa sang tư duy cộng năng đa ngành. Tuy nhiên, lại cần phải nhận định rằng hiện nay điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam là chưa có khả năng thiết kế tổng hợp có hiệu quả và kinh tế những sản phẩm mới trong thời gian ngắn nhất, nên khả năn bám sát thị trường chưa cao. Nếu ngành chế tạo máy của Việt Nam chỉ tạo ra những sản phẩm cơ khí đơn thuần thì rất khó cạnh tranh tỏng xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Ứng dụng cơ điện tử để chế tạo ra các máy công cụ thông minh, thiết bị thông minh là giải pháp đột phá tạo ra sức cạnh tranh cho ngành chế tạo máy. Do vậy Việt Nam cần tập trung vào phần cứng đặc thì và phần mềm “ TRÍ TUỆ” bởi ngày nay trí tuệ cũng là một trong những nguồn lực kinh tế cao. 2. Thực trạng hoạt động mở rộng thị trường của viện IMI và Công ty cổ phần 3B những năm gần đây Phải công nhận một điều rằng những năm gần đây Viện IMI nói chung và công ty cổ phần 3B nói riêng đã có những phát triển vượt bậc trong lĩnh vực kinh doanh ngành hàng Cơ điện tử, Báo cáo tài chính quý và năm cho thấy mức tăng trưởng Vốn lên tục từ 2007 đến 2010: 18 Biểu đồ 1: Biểu đồ Nguồn vốn Điều đồ cho thấy từ năm 2008 nguồn Vốn tăng đáng kể từ 25 tỷ lên 55 tỷ và đang có dấu hiệu tăng trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế này. Bên cạnh mức tăng về nguồn vốn, công ty liên tục gia tăng giá trị về tài sản nắm giữ như nhà xưởng, kho bãi, mác móc công cụ có tính chất khoa học công nghệ cao 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan