CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỞ RỘNG CHO VAY TIÊU
DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Ngân hàng Thương mại
1.1.1. Khái niệm
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương mại đã có tác động rất lớn
và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng
hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM
cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu
được. Cùng với sự phát triển đó có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về
Ngân hàng, chẳng hạn:
Luật Ngân hàng của Pháp (năm 1 41) đã đưa ra định nghĩa: “Ngân hàng là
những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình
thức kí thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Trong khi đó, theo Peter S.Rose thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm và dịch vụ thanh toán. Và cũng thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Theo quy định tại điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá 12 thông qua thì “Ngân hàng thương mại là
loại hình ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Trong đó, hoạt
động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên các nghiệp vụ sau đây:
nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Từ những cách định nghĩa khác nhau trên về NHTM, có thể rút ra:
NHTM là một tổ chức trung gian tài chính làm cầu nối giữa khu vực tiết kiệm
với khu vực đầu tư của nền kinh tế với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay.
NHTM là một loại hình doanh nghiệp cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM
còn cung cấp nhiều dịch vụ tài chính khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm
dịch vụ tài chính của xã hội.
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng Thương mại
Hiện nay khi mà kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì NHTM là một yếu tố
không thể thiếu bởi các chức năng cơ bản của nó:
1
Thang Long University Library
1.1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
NHTM là cầu nối giữa những người có nguồn vốn dư thừa với những người có
nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Với chức năng này, N TM vừa đóng vai là người đi
vay, vừa đóng vai tr là người cho vay và sẽ hưởng lợi nhuận từ khoản chênh lệch
giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho, góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên.
Sơ đồ 1.1. Chức năng trung gian tài chính của NHTM
Người có vốn
Gửi tiền
Ngân hàng
Thương mại
Cho vay
Người cần vốn
(Nguồn: Giáo trình Ngân hàng Thương mại)
Là trung gian tín dụng nên hoạt động của hệ thống NHTM có ảnh hưởng lan tỏa
đối với nền kinh tế, xã hội. Một khi cấu trúc của hệ thống ngân hàng có bất ổn sẽ làm
suy yếu hệ thống ngân hàng, nguy cơ mất an toàn của hệ thống ngân hàng sẽ có ảnh
hưởng lan truyền, đe dọa sự ổn định của nền kinh tế.
Ngân hàng huy động được nguồn vốn từ các chủ thể tiết kiệm có vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế: nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm cá nhân hoặc tổ
chức... Bên cạnh đó cũng cấp tín dụng đầu tư, đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể
trong nền kinh tế.
Chức năng trung gian tín dụng của NHTM góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên
tham gia: người gửi tiền, ngân hàng, người vay tiền và đồng thời thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế. Chức năng trung gian tín dụng được coi là chức năng quan trọng nhất
của NHTM vì nó phản ánh đúng nhất bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay, nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời là cơ sở để thực hiện các
chức năng khác.
1.1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Với chức năng này, N TM đóng vai tr là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá
nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản
tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi
của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như
séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Nhờ đó mà
các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp
người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó
để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất
nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung
2
đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn,
từ đó góp phần phát triển kinh tế.
1.1.2.3. Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền được thực hiện trên cơ sở của hai chức năng đó là trung gian
tín dụng và trung gian thanh toán. Thông qua trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng
vốn huy động được để cho vay, số tiền vay ra lại được khách hàng sử dụng để sản
xuất, tiêu dùng, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán
của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch. Với chức năng này,
N TM làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh
toán, chi trả của xã hội. Chức năng này chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và
lưu thông tiền tệ. Một khối lượng lớn tín dụng mà N TM cho vay ra đã làm tăng khả
năng tạo tiền của ngân hàng, làm tăng lượng tiền cung ứng. Bên cạnh đó, quá trình tạo
tiền của ngân hàng còn chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ
vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng.
Ngoài chức năng chính nêu trên, các N TM c n cung ứng các dịch vụ tài chính
đa dạng cho nền kinh tế xã hội như tư vấn tài chính, quản lý tài chính cá nhân, kinh
doanh ngoại hối, bảo lãnh... Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là cơ bản nhất
tạo cơ sở để thực hiện các chức năng tiếp sau. Đồng thời, khi thực hiện tốt các chức
năng sẽ làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng thêm hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.1.3. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn thông qua
nhiều hình thức khác nhau, sử dụng vốn đó cho vay lại những người thiếu vốn trong nền
kinh tế và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản ngân hàng cũng như những dịch vụ
tài chính khác, hoạt động kinh doanh của N TM hoàn toàn là vì mục tiêu lợi nhuận.
Nhận tiền gửi: là hoạt động nhận tiền của cá nhân, tổ chức dưới hình thức tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi,
kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
Cấp tín dụng: là việc thỏa thuận để cá nhân, tổ chức sử dụng một khoản tiền hoặc
cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền thoe nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp
vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản: là việc cung ứng phương tiện thanh
toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm
3
Thang Long University Library
thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông
qua tài khoản của khách hàng.
Bên cạnh đó, trong môi trường kinh doanh hiện đại ngày nay,các ngân hàng còn
cung cấp nhiều dịch vụ khác như môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ
bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý, dịch vụ ủy thác và tư vấn, cho thuê các thiết bị
trung và dài hạn, quản lý ngân quỹ, bảo quản vật có giá…
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Thương mại
1.2.1. Khái niệm về cho vay tiêu dùng
Theo Điều 4 – Chương I của Luật các tổ chức tín dụng 2010: “Cho vay là hình
thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết cho khách hàng một khoản
tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận
với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”
Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 59/2010/QH12: “Người tiêu
dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của
cá nhân, gia đình, tổ chức như mua: xe máy, ô tô, nhà cửa, các vật dụng gia đình, giáo
dục…”
CVTD là một mối quan hệ kinh tế giữa ngân hàng và cá nhân, người tiêu dùng.
Ngân hàng sẽ tài trợ cho sự tiêu dùng của cá nhân, người tiêu dùng bằng cách chuyển
giao tiền cho khách hàng với nguyên tắc khách hàng sẽ trả lại toàn bộ cả gốc và lãi vào
khoảng thời gian nhất định trong tương lai, nhằm giúp khách hàng có thể sử dụng các
hàng hóa, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện thuận lợi cho khách
hàng có cuộc sống tốt hơn. Nhìn dưới khía cạnh kinh tế thì CVTD là một sản phẩm tín
dụng rất cần thiết trong cuộc sống, nó giúp cho người tiêu dùng có thể chi trả cho các
khoản sinh hoạt, sử dụng các dịch vụ hàng hóa, mua sắm đồ dùng cho cá nhân và gia
đình…ngay cả khi mà khả năng tài chính không cho phép.
Như vậy, CVT ra đời cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Đây là
hình thức cấp tín dụng khá phổ biến ở các quốc gia phát triển. CVTD của NHTM là
hình thức cung cấp tín dụng của N TM trong đó ngân hàng thỏa thuận để khách hàng
là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng theo nguyên
tắc có hoàn trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Từ đó, hình thức cho vay này sẽ
giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hóa, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi
trả, tạo điều kiện cho họ hưởng một mức sống cao hơn.
1.2.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Ngoài những đặc trưng chung của tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn dựa
trên cơ sở niềm tin, có thời hạn, có hoàn trả và tiền vay được cấp dựa trên cơ sở hoàn
trả vô điều kiện, CVTD có những đặc điểm riêng như sau:
4
Đối tượng vay tiêu dùng là các cá nhân và hộ gia đình. Thu nhập và tiêu dùng có
mối quan hệ thuận chiều với nhau nên những người có thu nhập cao thường có xu
hướng vay tiền nhiều hơn những người có thu nhập thấp và thường có nhu cầu vay
nhiều hơn so với thu nhập hàng năm của mình. Tương tự như vậy, những gia đình mà
chủ gia đình hay người tạo ra thu nhập chính có học vấn cao cũng thường có nhu cầu
sử dụng những hàng hóa hiện đại và đắt tiền hơn, do đó mà nhu cầu tiêu dùng cũng
cao hơn. Tuy nhiên, đối tượng vay tiêu dùng không cố định là người có thu nhập cao,
người có thu nhập thấp cũng có thể đi vay để phục vụ mục đích tiêu dùng.
Mục đích vay tiêu dùng thường là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân chứ
không phải mục đích kinh doanh. Các nhu cầu đó có thể liệt kê như mua nhà, xây
dựng nhà cửa, mua sắm vật dụng gia đình, chữa bệnh, đi học…
Nguồn trả nợ vay tiêu dùng thường được lấy từ lương hoặc thu nhập từ các hoạt
động khác doviệc sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay của người tiêu dùng thường
không đem lại thu nhập. Vì vậy, việc sử dụng vốn vay của ngân hàng sẽ tạo cho người
vay một tâm lý tích lũy, tăng động lực làm việc của khách hàng.
Quy mô khoản vay ngoại trừ khoản vay bất động sản, hầu hết các khoản vay tiêu
dùng đều có giá trị nhỏ. Tuy nhiên đối tượng của tín dụng tiêu dùng là mọi tâng lớp
dân cư trong xã hội nên số lượng các khoản vay lại lớn. Khi khách hàng định mua bất
cứ vật dụng gì, họ đều đã có một khoản tích lũy từ trước bởi vì ngân hàng không bao
giờ cho vay 100% nhu cầu vốn. Vì thế, nhu cầu vốn của người tiêu dùng thường không
quá lớn đối với ngân hàng ngay cả khi vay để mua nhà, xây nhà,…
Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế.
Thật vậy, đối với người tiêu dùng, nhờ vay tiêu dùng họ được hưởng các tiện ích trước
khi tích luỹ đủ tiền. Chính vì vậy khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh, thu nhập của
người dân cũng tăng lên, họ cảm thấy lạc quan về tương lai, do đó họ có nhu cầu mua
sám nhiều, vì vậy nhu cầu về vay tiêu dùng có xu hướng tăng mạnh. Ngược lại khi nền
kinh tế suy thoái, thu nhập của người dân có xu hướng giảm, do giá cả tăng cao nên
người dân có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn là chi tiêu, do đó nhu cầu vay tiêu dùng giảm
CVTD là khoản mục có rủi ro cao nhất do các nguyên nhân: nguồn trả nợ chủ
yếu từ thu nhập của người đi vay, mà tình hình tài chính của các cá nhân và hộ gia
đình có thể thay đổi nhanh chóng tùy theo tình trạng công việc hay sức khỏe của họ
nên họ không dễ dàng vượt qua khó khăn về tài chính so với một hãng kinh doanh;
việc thẩm định và quyết định cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng thường gặp khó
khăn do vấn đề thông tin không đầy đủ. Các thông tin cá nhân đưa ra thường không rõ
rang và minh bạch như các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong khi các doanh
5
Thang Long University Library
nghiệp có báo cáo kiểm toán thì các cá nhân lại dễ dàng giữ kín thông tin về triển vọng
công việc cũng như sức khỏe của mình.
Chi phí quản lý khoản vay tiêu dùng lớn do các ngân hàng thường mất nhiều
thời gian và nhân lực để điều tra, thu thập các thông tin cá nhân, hộ gia đình trước khi
phát tiền vay. Trong khi đó, số lượng các khoản CVTD lại lớn khiến chi phí để quản lý
các khoản tín dụng này của ngân hàng là rất lớn, không những vậy ngân hàng còn phải
chịu những chi phí khác như chi phí quản lý khoản vay, theo dõi với khách hàng
thường xuyên.
Lợi nhuận từ CVTD cao do rủi ro và chi phí cao nên ngân hàng thường đặt mức
lãi suất cao đối với các khoản CVTD. Lãi suất CVTD phải đáp ứng được phần lợi
nhuận mong đợi và phần bù rủi ro.
Chất lượng thông tin tài chính của khách hàng thường không cao: đối với
những khách hàng là cá nhân, hộ gia đình thì thông tin làm cơ sở phân tích để ngân
hàng ra quyết định cho vay là tên, tuổi, nghề nghiệp, thu nhập, nơi cư trú..những thông
tin này là thông tin chủ quan do khách hàng cung cấp, một chiều, không có sự kiểm
soát như đối với các doanh nghiệp. ó đó, thông tin này có thể không chính xác, tiềm
ẩn rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng không thể hoàn toàn kiểm tra được độ chính xác
của thông tin lúc lập hồ sơ cho vay.
Thêm một đặc điểm khác của CVT đó là người vay thường chỉ vay một lần, ít
khi có nhu cầu vay lại. o đó nếu không có các giải pháp mở rộng CVTD thì ngân
hàng sẽ dần mất đi nguồn khách hàng tiềm năng này.
1.2.3. Phân loại cho vay tiêu dùng
Sự phát triển các hình thức tín dụng, nhất là tín dụng ngân hàng cho đến nay
đã có nhiều thay đổi và phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Tác động như vũ bão
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, toàn cầu hoá và khu vực hoá thông qua các
tổ chức tiền tệ quốc tế và khu vực đã tạo điều kiện cho tín dụng ngân hàng phát triển ở
trình độ cao. Thêm vào đó, mảng cho vay tiêu dùng ngày càng được chú trọng và xem là
một trong những mục tiêu phát triển hàng đầu của các NHTM. Do vậy, trên cơ sở những
đặc điểm riêng của cho vay tiêu dùng và sự phối hợp những hình thức tín dụng ngân
hàng nói chung ngày càng nhiều loại hình sản phẩm cho vay tiêu dùngra đời với nhiều
tên gọi khác nhau. Tựu trung lại thì cho vay tiêu dùng có thể phân loại theo một số tiêu
thức như sau:
1.2.3.1. Căn cứ vào mục đích vay
Có thể phân loại tín dụng tiêu dùng thành 2 loại:
6
Cho vay tiêu dùng cư trú (Residential Mortgage Loan): Là các khoản cho vay
nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc/và cải tạo nhà ở của khách hàng là
cá nhân hoặc hộ gia đình.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú (Nonresidential Loan): Là các khoản cho vay tài trợ
cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải
trí và du lịch…
1.2.3.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Hoạt động cho vay tiêu dùng căn cứ theo phương thức hoàn trả có thể chia thành
3 loại như sau:
Cho vay tiêu dùng phi trả góp (Noninstallment Consumer Loan): Tiền vay được
khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường khoản cho vay
tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay giá trị nhỏ với thời hạn vay
không dài (thường dưới 1 năm) và dành cho đối tượng khách hàng thu nhập khá cao.
Cho vay tiêu dùng trả góp (Installment Consumer Loan): Là hình thức vay mà
người đi vay trả nợ gốc hoặc nợ gốc và lãi cho ngân hàng với một số tiền bằng nhau
nhất định trên mỗi phân kỳ trả nợ (hàng tháng, quý hoặc tháng).Phương thức này
thường áp dụng cho những khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập định kỳ của người
vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Đây là hình thức cho vay
chủ yếu của các ngân hàng thương mại, loại hình vay này giúp cho khách hàng vay
không bị áp lực trả nợ vào cuối kỳ cao.
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn (Revolving Consumer Credit): Là khoản vay mà
ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng được duy trì trong một
khoảng thời gian nhất định, khách hàng có quyền vay và trả nhiều lần mà không vượt
quá hạn mức tín dụng của mình. Loại vay tuần hoàn dễ áp dụng, thuận tiện cho khách
hàng trong việc chủ động sử dụng nguồn tiền linh hoạt. Thông thường đây là những
khoản vay nhỏ, khách hàng có tiền ra - vào thường xuyên. Theo phương thức này,
trong thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập
kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ
nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
1.2.3.3. Căn cứ theo hình thức đảm bảo tiền vay
Cho vay không có đảm bảo: Là loại tín dụng mà người vay không buộc phải sử
dụng tới tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay
chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
Cho vay có đảm bảo: Là loại tín dụng mà người cho vay đ i hỏi người vay vốn
phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
7
Thang Long University Library
1.2.3.4. Cho vay theo nguồn gốc của khoản nợ
Theo cách phân loại này, cho vay tiêu dùng có thể được phân thành 2 loại:
Cho vay tiêu dùng trực tiếp (Direct Consumer Loan): Đây là hình thức mà theo
đó ngân hàng và khách hàng sẽ trực tiếp gặp nhau để tiến hành đàm phán, ký kết hợp
đồng tín dụng. Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng, khách hàng sẽ nhận tiền vay từ ngân
hàng hoặc chuyển vào tài khoản của doanh nghiệp mà họ sẽ mua hàng hóa, dịch vụ,
hoặc các chủ nợ của họ…
Cho vay tiêu dùng gián tiếp (Indirect Consumer Loan): Là hình thức cho vay
trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu
hàng hóa hay dịch vụ cho người tiêu dùng. Theo hình thức này, ngân hàng cho vay
thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp
xúc với khách hàng.
1.2.4. Quy trình cho vay tiêu dùng
Quy trình thực hiện một khoản CVTD cũng không khác gì với những món vay
thông thường khác của ngân hàng. Tuy nhiên, CVTD có lượng khách khá lớn, quy mô
của mỗi khoản vay lại nhỏ lẻ và tiềm ẩn nhiều rủi ro nên ngân hàng đã có những biện
pháp thẩm định khác nhau đối với từng nhóm khách hàng.
Sơ đồ 1.2. Quy trình cho vay tiêu dùng
1. Tiếp nhận và thiết lập hồ sơ tín dụng
2. Thu thập thông tin
3. Thẩm định tín dụng
4. Ra quyết định cấp tín dụng
5. Ký kết hợp đồng cho vay
6. Giải ngân
7. Kiểm tra, giám sát
8. Thanh lý hợp đồng tín dụng
(Nguồn: Giáo trình Ngân hàng Thương mại)
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ xin vay mượn vốn và thiết lập hồ sơ tín dụng
8
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng, họ sẽ đến ngân hàng để xin
vay vốn. Ngân hàng sẽ giao cho CBTD tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng và
hướng dẫn khách hàng thiết lập hồ sơ vay vốn.
Hồ sơ do khách hàng chuẩn bị gồm tài liệu chứng minh năng lực pháp luật, năng
lực hành vi dân sự, tài liệu phản ánh tình hình tài chính của khách hàng, mục đích vay
vốn kèm theo đó là những giấy tờ pháp lý chứng minh quyền sở hữu tài sản mà khách
hàng dự định sẽ cầm cố, thế chấp tại ngân hàng.
Hồ sơ pháp lý: đơn xin vay do khách hàng lập. bản sao CMND cùng với hộ khẩu
gia đình, các giấy tờ liên quan khác như: giấy chứng minh nghề nghiệp, tình trạng sức
khỏe, học vấn, tình trạng gia đình….
Hồ sơ kinh tế: khách hàng sẽ phải chứng minh cho ngân hàng thu nhập hiện tại,
và mục đích vay vốn của mình. Bên cạnh đó, khách hàng c n phải lập ra các tài liệu
thuyết minh khoản vay: mức vốn tự có, nhu cầu chi phí…
Hồ sơ tài sản đảm bảo: khách hàng cần phải cung cấp cho ngân hàng giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hay giấy tờ chứng minh sở hữu tài sản mà khách hàng mang
ra bảo đảm khi ngân hàng thấy cần thiết phải có tài sản đảm bảo cho khoản vay của
khách hàng.
Bước 2: Thu thập thông tin
CBTD của ngân hàng sau khi tiếp nhận hồ sơ đề nghị vay vốn tiêu dùng của
khách hàng sẽ thu thập thông tin về khách hàng thông qua các thông tin đã được lưu
trữ tại ngân hàng với trường hợp khách hàng đã từng vay vốn trước đó hay đi điều tra,
phỏng vấn ở các nguồn khác như trung tâm thông tin tín dụng của nhà nước và đơn vị,
tổ chức mà khách hàng hiện đang công tác.
Bước 3: Thẩm định cho vay tiêu dùng
Đây là khâu quan trọng trong quy trình CVTD, quyết định đến chất lượng cho
vay. Nếu CBTD thẩm định sai sẽ đưa ra quyết định sai, ảnh hưởng đến ngân hàng.
Trong quá trình thẩm định này, có rất nhiều mục cần phải được thẩm định kỹ càng:
Thẩm định mục đích sử dụng vốn: mục đích vay tiền của khách hàng phải rõ ràng
và phù hợp với quy định của ngân hàng. Ngân hàng sẽ đánh giá và kiểm tra xem khách
hàng có dấu hiệu đảo nợ không.
Thẩm định uy tín của khách hàng: đối với khách hàng vay vốn nhằm mục đích
tiêu dùng cá nhân sẽ dựa vào những tài liệu sau: hợp đồng lao động, bảng lương, sao
kê tài khoản, phương án sử dung vốn vay và trả nợ, phương thức trả nợ,… oạt động
đánh giá khách hàng CVTD cá nhân này đa dạng hơn so với CVTD kinh doanh, thể
hiện qua cách CBTD tiếp xúc với khách hàng, cách đối thoại, loại hình công việc, lĩnh
vực hoạt động của khách hàng.
9
Thang Long University Library
Thẩm định tình hình tài chính và khả năng thanh toán của khách hàng: bao gồm
thẩm định mức thu nhập, việc làm, số dư tài khoản tiền gửi và nơi cư trú. Trong đó
việc khách hàng có nguồn thu nhập ổn định là một thuận lợi trong việc đi vay, nếu
nguồn thu nhập càng cao thì càng được ngân hàng đánh giá cao. CBTD sẽ phối hợp
với cơ quan nơi khách hàng làm việc để đánh giá chính xác thu nhập của khách hàng.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng sẽ kiểm tra số dư tài khoản của khách hàng qua các ngân
hàng liên quan. Những khách hàng có sự ổn định trong công việc hay nơi cư trú sẽ
được đánh giá cao, sẽ thuận lợi hơn trong việc vay vốn so với những khách hàng chỉ
mới đi làm ở chỗ làm hiện tại trong thời gian ngắn hay như thay đổi chỗ ở liên tục.
Cuối cùng, năng lực hoàn trả của khách hàng c n được đánh giá trên tiêu chí: tuổi đời
nghề nghiệp, sức khỏe, năng lực làm việc…
Thẩm định tài sản đảm bảo: tài sản đảm bảo của khách thường được lấy từ nhiều
nguồn khác nhau như bất động sản hay tài sản có giá trị lớn… CBTD sẽ kiểm tra
quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp tài sản của khách hàng, khả năng chuyển nhượng
để ph ng trường hợp không trả được nợ ngân hàng thì tài sản đảm bảo đem thanh lý
lại không mang lại nguồn bù lỗ tối thiểu cho ngân hàng.
Sau khi tiến hành hết các khâu thẩm định, CBTD sẽ lập tờ trình khái quát chung
về khách hàng và đưa ra những đánh giá có nên cho vay hay không. Nếu đồng ý cho
vay, CBTD sẽ ghi đầy đủ các thông tin: số tiền cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất, các
điều kiện kèm theo..
Bước 4: Quyết định cấp tín dụng
Sau khi lập tờ trình, CBTD sẽ đưa lên Trưởng phòng tín dụng, Trưởng phòng sẽ
xem xét lại và yêu cầu CBTD giải thích và bổ sung nếu thiếu sót. Sau đó báo cáo sẽ
được trình lên Hội đồng tín dụng xét duyệt. Nếu từ chối cho khách hàng vay tiền, ngân
hàng cần thông báo bằng văn bản ghi rõ lý do từ chối đề nghị vay vốn để khách hàng
tránh thắc mắc. Nếu đồng ý cho khách hàng vay vốn, ngân hàng sẽ cùng khách hàng
ký kết hợp đồng cho vay và hợp đồng đảm bảo tiền vay.
Bước 5: Ký kết hợp đồng cho vay
Nếu yêu cầu vay vốn của khách hàng được chấp nhận, đại diện ngân hàng và
khách hàng sẽ ký kết hợp đồng tín dụng cho vay tiêu dùng và hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Bước 6: Giải ngân
Ngân hàng chỉ giải ngân sau khi khách hàng hoàn thành thủ tục đảm bảo tiền vay
và chứng từ giải ngân. Ngân háng sẽ cấp tiền cho khách hàng trên cơ sở tiền cho vay
đã ký kết trong hợp đồng tín dụng. Quá trình giải ngân phải đảm bảo nguyên tắc vận
động của tín dụng phải gắn với vận động của hàng hoá hoặc dịch vụ liên quan.
10
Ngân hàng có thể giải ngân trực tiếp cho khách hàng hoặc trả tiền cho các nhà
cung cấp các mặt hàng tiêu dùng của khách hàng.
Bước 7: Kiểm tra, giám sát
Giám sát và quản lý vốn vay được thực hiện từ khi tiền vay phát ra cho đến khi
khoản vay được hoàn trả, nhằm đôn đốc khách hàng thực hiện đúng và đầy đủ những
cam kết thỏa thuận trong hợp đồng cho vay, phù hợp với đặc điểm hoạt động của ngân
hàng và mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Định kỳ cán bộ phải kiểm tra và phân
tích tình hình cụ thể của khách hàng để phát hiện nợ quá hạn, nợ khỏ đ i để đưa ra
những biện pháp xử lý thích hợp. Để đảm bảo an toàn, tránh rủi ro, ngân hàng nên chú
ý kiểm tra tài sản đảm bảo tiền vay như tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay vốn.
Bước 8: Thanh lý hợp đồng tín dụng
CBTD của ngân hàng sẽ tiến hành xử lý những tình huống khác nhau của khoản
vay gồm trả nợ trước hạn, thu nợ trước hạn, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn, khoanh
nợ… theo quy định cho vay cụ thể của ngân hàng trước khi tiến hành hành thanh lý
hợp đồng tín dụng. Khi khách hàng trả hết nợ, CBTD sẽ tiến hành phối hợp với bộ
phận kế toán đối chiếu, kiểm tra về số tiền nợ gốc, lãi và phí để tất toán khoản vay.
Sau khi kiểm tra và xác minh tính xác thực của các thông tin về việc khách hàng
đã hoàn thành các nghĩa vụ thanh toán toàn bộ phần nợ gốc và lãi, phí, ngân hàng sẽ
tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng với các khách hàng.
1.2.5. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng
Hoạt động cho vay tiêu dùng của các N TM đóng vai tr quan trọng đối với cả
nền kinh tế, bản thân các ngân hàng và các khách hàng vay vốn.
Đối với nền kinh tế
CVTD góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là
tiền mặt trong tay các tầng lớp dân cư, làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp phần
làm ổn định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng vốn tín dụng hỗ trợ cho tiêu dùng đã kích
cầu cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất
kinh doanh… làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hoá dịch vụ làm
ra ngày càng nhiều, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Và có sự tác
động trở lại là với năng suất, sản lượng tăng thì doanh nghiệp sẽ mở rộng lao động,
nâng cao tiền công, tiền lương tăng thu nhập cho người lao động chính là những khách
hàng vay tiêu dùng của ngân hàng. Chính nhờ đó, CVT góp phần làm ổn định thị
trường giá cả trong nước, là tiền đề quan trọng để ổn định trật tự xã hội.
Đối với ngân hàng
11
Thang Long University Library
Xu thế hội nhập kinh tế trên toàn thế giới đã mở ra cho ngành ngân hàng nhiều
cơ hội phát triển. Ngày này, ngân hàng trở thành một ngành đầy tiềm năng và thử
thách, thu hút được nhiều lĩnh vực khác liên quan. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày
càng phong phú và đa dạng từ huy động vốn cho đến cách cấp tín dụng trong đó mức
sống người dân ngày càng cao là một thị trường hấp dẫn cho các ngân hàng thu hút
vốn (dưới dạng tiền gửi thanh toán, tiền tiết kiệm), thu phí dịch vụ thanh toán (chuyển
tiền, phí kiểm đếm tiền, phí giữ hộ…) và lợi nhuận từ cấp tín dụng. Tín dụng và dịch
vụ là hai nguồn thu chính của các ngân hàng thương mại.
Cho vay cá nhân là một kênh thuận lợi cho các ngân hàng tiếp cận khách hàng
giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng khách hàng sử dụng
các tiện ích của ngân hàng như: tiền gửi, tiền thanh toán, các dịch vụ chuyển tiền,
chuyển khoản, kiểm đếm, giữ hộ… từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện đa
dạng hoá hoạt động kinh doanh, nâng cao thu nhập đồng thời giúp ngân hàng phân tán
rủi ro tín dụng.
Đối với khách hàng vay
Nền kinh tế càng phát triển, khoa học – kỹ thuật càng hiện đại ngày nay thì càng
có nhiều hàng hóa được sản xuất ra để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng, phong phú
trongxã hội. Khi đó, tín dụng tiêu dùng mở rộng sẽ hỗ trợ cho người dân trong việc
chitiêu (như mua, xây sửa chữa nhà, mua xe, tiêu dùng, du lịch, du học…)nhằm nâng
cao mức sống, trình độ dân trí của họ. Nhu cầu chi tiêu được đápứng sẽ giúp cho người
lao động được thỏa mãn, tái tạo sức lao động, kíchthích người dân lao động làm việc
tích cực, sáng tạo, năng suất cao.
Ngoài ra, mở rộng cho vay tiêu dùng qua các ngân hàng sẽ làm giảm đi các hiện
tượng cho vay nặng lãi, giúp những người nghèo giảm bớt gánh nặng trong việc trả lãi
tiền vay mượn. Qua hoạt động cho vay tiêu dùng, người dân có thể tiết kiệm tích lũy
để đầu tư, phát triển như: mua nhà, xây dựng, sửa chữa nhà ở, du học, mua xe, giải
trí… đời sống người dân được nâng cao.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng nói chung cho vay tiêu dùng nói riêng không những
là hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng mà
còn có vai trò to lớn và ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của cả kinh tế - xã hội.
1.3. Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Nói đến mở rộng tức là nói đến sự tăng trưởng về quy mô, chất lượng và số
lượng. Theo cách hiểu này, mở rộng CVTD tức là đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của
khách hàng về cả quy mô tín dụng tiêu dùng cũng như làm tăng tỷ trọng tín dụng tiêu
dùng trong tổng dư nợ tín dụng NHTM.
12
Đối với NHTM việc mở rộng CVTD sẽ góp phần làm đa dạng hóa hoạt động
kinh doanh, nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đồng
thời mở rộng quan hệ với khách hàng từ đó sử dụng hiệu quả nguồn vốn, phân tán
được sự rủi ro, nâng cao thu nhập cho ngân hàng. Vì vậy trong xu thế cạnh tranh thị
phần như hiện nay, các ngân hàng cần dốc toàn bộ nguồn lực như vốn, nhân lực, công
nghệ,… vào việc mở rộng hoạt động CVTD.
Mở rộng CVTD không chỉ đơn thuần là sự tăng trưởng theo chiều rộng của hoạt
động này mà còn phải bao hàm sự đảm bảo về chất lượng khoản vay nhằm đạt sự tăng
trưởng và phát triển bền vững. Bởi vì, mở rộng cho vay và chất lượng cho vay tốt là
hai vấn đề không thể tách rời. Chất lượng cho vay đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh
doanh của ngân hàng về khả năng sinh lời và giảm thiểu rủi ro về sử dụng vốn. Nó
phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng với sự thay đổi bên ngoài, thể hiện sức
mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Tóm lại, mở rộng CVTD có thể được hiểu là sự tăng lên cả về số lượng và chất
lượng của khoản CVTD tại NHTM.
1.3.2. Sự cần thiết của việc mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại
CVTD có vai trò quan trọng và đem lại nhiều lợi ích đối với ngân hàng, sự phát
triển kinh tế và bản thân người đi vay là các cá nhân hay hộ gia đình. Trong thời điểm
nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, các ngân hàng cạnh tranh gay gắt , giành giật thị
trường thì việc mở rộng CVTD là sự cần thiết bởi lý do sau:
Thứ nhất, hoạt động CVTD có mức sinh lời ngày càng lớn. Cho vay khách hàng
cá nhân từ lâu đã được coi là một phần rất quan trọng của NHTM, đặc biệt là CVTD
được coi là phần quan trọng nhất của ngân hàng bán lẻ. Bởi vì nền kinh tế khó khăn
hiện nay sẽ c n đeo đẳng và kéo dai trong vài năm tới, việc trông chờ và đối tượng
khách hàng là doanh nghiệp để tăng doanh thu và lợi nhuận là một điều vô cùng khó khăn.
Thứ hai, nhu cầu vay vốn của cá nhân ngày một da dạng do cuộc sống người dân
ngày càng cải thiện, nhu cầu chi tiêu của người dân cũng tăng theo. Trong những năm
gần đây, mức sống được cải thiện cùng khoản thu nhập tăng lên, người dân có nhu cầu
mua sắm nhiều hơn, sửa sang nhà cửa, mua vật dụng gia đình giá trị lớn, đi du lịch…
Cùng với đó thì nhu cầu vay vốn nhỏ để kinh doanh hộ gia đình, kinh doanh bất động
sản cũng gia tăng mạnh. Trong bối cảnh như vậy, CVTD ra đời là mảng tín dụng có
nhiều tiềm năng, đã cung cấp lượng vốn đáng kể cho người dân thực hiện nhu cầu của
mình, do vậy mở rộng CVTD là điều mà các ngân hàng cần tích cực thực hiện. Cùng
với đó, do vay tiêu dùng thường ở mức giá trị thấp, có tài sản đảm bảo cùng phương án
trả nợ, nên đối với ngân hàng đây là một khoản vay an toàn, ít rủi ro và có khả năng
thu hồi.
13
Thang Long University Library
Thứ ba, mở rộng CVTD đối với cá nhân, hộ gia đình đem lại nhiều lợi ích và tao
ra nhiều lợi thế cạnh tranh cho các NHTM, CVTD với lãi suất vay, sản phẩm đa dạng
và kỳ hạn hợp lý sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với NHTM. Việc thu hút được
nhiều khách hàng sẽ mang lại lợi ích cho N TM như: phân tán được rủi ro, tạo điều
kiện để tăng thu nhập từ dịch vụ và mở rộng được mạng lưới hoạt động do đối tượng
khách hàng là cá nhân, hộ gia đình thường có quy mô nhỏ gọn, địa bàn hoạt động rộng
rãi. Bên cạnh đó, do tổng số lượng giao dịch lớn, các khách hàng cá nhân, hộ gia đình
lại có xu hướng trọn gói dịch vụ tại một ngân hàng do đó tạo cơ hội để ngân hàng
nâng cao và thay đổi dần cơ cấu thu nhập.
Thứ tư, mở rộng CVTD sẽ tăng cường sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường
tài chính, góp phần duy trì sự phát triển của ngân hàng. Mở rộng CVTD thể hiện ở
doanh số và tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay đối với khách hàng cá nhân, hộ gia
đình ở phạm vi, mức đố, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của ngân hàng,
nhưng phải đảm bảo là tuân thủ đúng nguyên tắc tín dụng. Trong điều kiện cạnh tranh
như hiện nay, việc đảm bảo tuân thủ đúng nguyên tắc là một nhân tố góp phần tạo chỗ
đứng vững chắc trong thị trường. Mở rộng cho vay đi đôi với đảm bảo hiệu quả hoạt
động là điều mà các N TM hướng đến, việc nâng cao hiệu quả cho vay đối với khách
hàng cá nhân, thu hút được khách hàng cá nhân đến giao dịch sẽ nâng cao được vị thế
cạnh tranh của ngân hàng.
Thứ năm, mở rộng CVTD là một xu thế đúng đắn của các NHTM hiện nay do tỷ
lệ người dân tiếp cận với dịch vụ ngân hàng hiện nay còn thấp, việc mở rộng CVTD
giúp các ngân hàng có thể khai thác và tăng thị phần cho vay các nhân một cách dễ
dàng và ít vướng phải sự cạnh tranh so với thị phần khách hàng doanh nghiệp. Việc
mở rộng CVTD là một hướng đi đúng đắn mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nó góp
phần làm tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng, làm giảm
được sự chậm chễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, mang đến những cơ hội
kinh doanh đa dạng , hấp dẫn và hiệu quả hơn.
Tóm lại, việc mở rộng tiêu dùng không chỉ đem lại lợi ích tốt nhất cho người tiêu
dùng mà còn giúp ngân hàng thực hiện được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, cùng với
đó giúp cho nền kinh tế của xã hội càng được phát triển hơn.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng
1.3.3.1. Nhân tố chủ quan
Về phía ngân hàng thương mại
Định hướng phát triển của ngân hàng: là điều kiện tiên quyết để phát triển hoạt
động CVTD. Nếu trong kế hoạch phát triển của mình, ngân hàng không đưa ra những
chiến lược hợp lý quan tâm đến hoạt động này thì ngân hàng sẽ bỏ qua một lượng lớn
14
khách hàng có nhu cầu vay vốn để tiêu dùng. Còn nếu ngân hàng muốn phát triển hoạt
động này thì họ sẽ đưa ra những phương án thích hợp, cụ thể để thu hút những người
tiêu dùng có nhu cầu vay vốn đến với mình. Cung cầu có điều kiện thuận lợi gặp nhau
là điều kiện tốt nhất để phát triển CVTD.
Năng lực tài chính của ngân hàng: là yếu tố được các nhà lãnh đạo ngân hàng
xem xét khi đưa ra quyết định trong đó có quyết định về CVTD. Năng lực tài chính
của ngân hàng được xác định dựa trên các yếu tố như số lượng vốn chủ sở hữu, tỷ lệ
phần trăm lợi nhuận của năm sau so với năm trước, tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư
nơ, số lượng tài sản thanh khoản… Nếu ngân hàng có nguồn lực tài chính tốt, khả
năng huy động vốn lớn trong thời gian ngắn thì có thể coi là có nguồn lực tài chính
vững mạnh. Khi đó ngân hàng có thể đầu tư vào các danh mục mà ngân hàng quan tâm
hơn trong đó có hoạt động CVTD. Ngược lại, ngân hàng không có được số vốn cần
thiết sẽ những hoạt động ưu tiên hơn sẽ được chú trọng và hoạt động CVTD ít có cơ
hội được phát triển.
Chính sách tín dụng của ngân hàng: là hệ thông các chủ trương, định hướng, quy
định chi phối hoạt động tín dụng do hội đồng quản trị đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả
nguồn vốn tài trợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân. Nội dung của
chính sách tín dụng thường bao gồm các khoản mục như sau: hạn mức tín dụng, loại
hình tín dụng, quy định là tài sản đảm bảo, thời hạn tín dụng, cách thức thanh toán
nợ… Chính sách tín đụng được vạch ra giúp cho CBTD có hướng đi đúng đắn, có
khung tham chiếu rõ ràng để làm căn cứ xác định nhu cầu vay vốn của khách hàng. Vì
vậy, những chính sách tín dụng tác động mạnh mẽ đến hoạt động mở rộng tín dụng nói
chúng cũng như hoạt động CVTD nói riêng. Do tính cạnh tranh ngày càng cao trên thị
trường ngân hàng hiện nay nên chính sách tín dụng hợp lý, đúng đắn sẽ là yếu tố thu
hút khách hàng hiệu quả. Chiến lược phát triển của ngân hàng tạo ra một định hướng
chung về khách hàng mục tiêu của ngân hàng, tạo lập các chính sách hỗ trợ ưu đãi cho
nhóm khách hàng đó, như đối với khách hàng uy tín của ngân hàng, cỏ thể sử dụng
chính sách cho vay không cần tài sản đảm bảo, hạn mức tín dụng lại cao, lãi suất ưu
đãi hơn.
Số lượng, trình độ cũng như đạo đức nghề nghiệp của CBTD: điều này ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạt động CVTD của NHTM. Nếu CBTD không có đạo đức
nghề nghiệp thì dù giỏi đến mấy cũng vô giá trị bởi họ sẽ vì lợi ích cá nhân mà tổn hại
đến lợi ích của cả tập thể ngân hàng và lợi ích của khách hàng. Ngoài tư cách đạo đức,
CBTD cũng cần có trình độ chuyên môn cao, trình độ hiểu biết rộng để có thể thẩm
định chính xác khách hàng và dự án vay vốn, từ đó đưa ra những quyết định cấp tín
dụng đúng đắn. Một CBTD có tình độ nghiệp vụ cao, khả năng giao tiếp, trình độ
ngoại ngữ, vi tính thành thạo, nhiệt tình với khách hàng, có đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo
15
Thang Long University Library
được ấn tượng tốt đẹp trong khách hàng về ngân hàng bởi hình ảnh của CBTD được
coi là bộ mặt của ngân hàng.
ơn nữa, CBTD có mối quan hệ rộng trong xã hội sẽ thu
hút được lượng khách hàng lớn cho ngân hàng.
Trình độ khoa học công nghệ và khả năng quản lý của ngân hàng: là một nhân tố
quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động CVTD tại ngân hàng đó. Khi
ngân hàng được trang bị đầy đủ các công nghệ hiện đại thì họ có thể tăng thêm tiện ích
sử dụng cho khách hàng và dịch vụ của họ sẽ được biết đến rộng rãi hơn.
Mức độ đa dạng hóa sản phẩm cho vay tiêu dùng: Số lượng sản phẩm cho vay
tiêu dùng là yếu tố đánh giá đầu tiên về mức độ phát triển các hoạt động dịch vụ của
ngân hàng. Số lượng các sản phẩm cho vay tiêu dùng càng nhiều, càng đa dạng, phong
phú thì ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với ngân hàng.
Trong môi trường mang tính cạnh tranh cao như hiện nay, các ngân hàng luôn chú
trọng đầu tư, nghiên cứu đưa ra thị trường các sản phẩm cho vay tiêu dùng đa dạng,
với nhiều tiện ích. Các sản phẩm cho vay tiêu dùng với các đặc tính khác nhau, hướng
tới những đối tượng khác nhau trong nền kinh tế, từ đó các ngân hàng thu hút được
nhiều đối tượng khách hàng hơn, từ đó cho thấy khả năng mở rộng CVTD của ngân
hàng là tốt hơn và ngược lại.
Về phía khách hàng
Mức độ hài lòng của khách hàng: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ hài lòng của
khách hàng đối với chất lượng CVTD của ngân hàng. Nếu chất lượng CVTD của ngân
hàng tốt, từ đó sẽ tạo sự tin tưởng, thoải mái cho khách hàng đến vay vốn. Mức độ hài
lòng của khách hàng càng cao thì khả năng thu hút lượng khách hàng mới sử dụng
dịch vụ CVTD của ngân hàng càng nhiều và điều này cho thấy khả năng mở rộng CVTD
của ngân hàng càng tốt và ngược lại.
Khả năng gia tăng uy tín và mức độ nhận biết thương hiệu ngân hàng của khách
hàng: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ hiểu biết của khách hàng về các hoạt động của
ngân hàng. Ngân hàng phải điều tra xem khách hàng biết đến ngân hàng của mình như
thế nào. Một khi thương hiệu của ngân hàng được định vị trong tâm trí của khách hàng
thì khách hàng sẽ tìm đến ngân hàng khi có nhu cầu. Đây là điều rất cần thiết từ đó đưa
ra các chiến lược marketing phù hợp cho các sản phẩm cho vay tiêu dùng. Nếu ngân
hàng có khả năng gia tăng uy tín và khả năng nâng cao mức độ nhận biết thương hiệu
với khách hàng thì cho thấy khả năng mở rộng CVTD của ngân hàng càng cao.
Khả năng tài chính của khách hàng: nếu khách hàng có thu nhập cao và ổn định
thì việc trả nợ ngân hàng thường ít ảnh hưởng đến các chi tiêu khác trong gia đình. Đối
với khách hàng này, họ sẵn sàng thanh toán tiền vay cho ngân hàng để tránh những rắc
rối liên quan đến mặt pháp lý. Ngày nay, phần lớn các món vay tiêu dùng thường được
16
quy định bởi sự ổn định của thu nhập khách hàng, ngoại trừ những khoản vay ngắn
hạn. Chính vì thế, khả năng tín dụng của khách hàng là yếu tố quan trọng trong việc
ngân hàng có quyết định cấp tín dụng cho khách hàng hay không.
Nhu cầu vay: Nhu cầu vay của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ là trung tâm
của chiến lược phát triển sản phẩm. Đối tượng sử dụng sản phẩm vay tiêu dùng là cá
nhân và hộ gia đình có nhu cầu vay vốn rất đa dạng và phong phú. Nền kinh tế càng
phát triển thì thu nhập của người dân ngày càng tăng nên khi đó nhu cầu về hàng hoá
dịch vụ chất lượng cao ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, ở từng thời điểm khác nhau, các
nhu cầu khác nhau sẽ được đặt lên hàng đầu. Các ngân hàng thương mại do đó cần
phải nghiên cứu, phát hiện được sớm những nhu cầu đó một cách nhanh nhất để đưa ra
các sản phẩm cho vay tiêu dùng phù hợp. Nhu cầu của khách hàng là căn cứ để xây
dựng chiến lược phát triển sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Các yếu tố ảnh
hưởng tới nhu cầu vay vốn tiêu dùng bao gồm: Thu nhập, thói quen của đối tượng đi
vay, lãi suất của các khoản vay, tài sản bảo đảm hiện có của người đi vay.
Trình độ dân trí: Trình độ dân trí của người tiêu dùng thể hiện ở trình độ học
vấn, văn hoá và mức độ hiểu biết về các vấn đề xã hội. Yếu tố này có ảnh hưởng quan
trọng tới mọi hành vị trong đó có hành vi tiêu dùng của con người. Cụ thể, những
người có trình độ cao thường dễ dàng tìm kiếm công việc có thu nhập cao, ổn định.
Chính vì vậy, họ thường lạc quan và tin tưởng vào thu nhập của họ trong tương lai để
rồi sẵn sàng chủ động trong việc sử dụng các sản phẩm vay tiêu dùng để đạt được mức
sống tốt hơn. Ngoài ra, những người cso trình độ dân trí cao cũng thường có nhiều
thông tin và khả năng tiếp cận tới các sản phẩm vay tiêu dùng hơn. Đồng thời, những
người này cũng hiểu rõ và ý thức được trách nhiệm cũng như quyền lợi của mình trong
việc sử dụng các khoản vay. Điều này góp phần làm giảm bớt rủi ro tín dụng của ngân
hàng thương mại đối với hoạt động cho vay tiêu dùng.
Đặc điểm của hộ gia đình: Mặc dù, mục đích của các khoản vay tiêu dùng
thường là mua sản phẩm, hàng hoá dịch vụ nhằm nâng cao đời sống tuy nhiên, động
cơ vay vốn của các hộ gia đình tại thành thị lại khác so với các hộ gia đình nông thôn
và những đặc điểm này của các hộ gia đình sẽ ảnh hưởng tới hành vi vay vốn tiêu dùng
của khách hàng. Động cơ vay vốn của các cá nhân, hộ gia đình phụ thuộc vào các tiêu
chí, giá trị mà các hộ gia đình đó đặt ra như giá trị cuộc sống là gì, mục đích tồn tại ra
sao, mục đích an toàn như thế nào…
1.3.3.2. Nhân tố khách quan
Các nhân tố mà ngân hàng không thể kiểm soát được là các nhân tố đến từ môi
trường vĩ mô, bao gồm: môi trường luật pháp, môi trường kinh tế, môi trường chính
trị, môi trường xã hội.
17
Thang Long University Library
Môi trường luật pháp
Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống văn bản pháp luật cùng với hệ thống các
cơ quan thực thi pháp luật của nhà nước cũng tác động sâu rộng đến mọi đối tượng
trong xã hội. Tất cả các chủ thể kinh tế trong xã hội đều chịu sự điều tiết bởi hệ thống
luật pháp. Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên càng bị chi
phối nhiều hơn bởi hệ thống pháp luật.
Môi trường pháp lý là một nhân tố có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động cho vay
tiêu dùng của các ngân hàng thương mại, tác động đến tính trật tự, tính ổn định và tạo
điều kiện để hoạt động cho vay tiêu dùng được diễn ra thông suốt, phát triển vững
chắc, hạn chế những rắc rối có thể nảy sinh, tổn hại đến lợi ích của các bên tham gia
quan hệ tín dụng và thậm chí đến cả lợi ích quốc gia.
Một môi trường pháp lý yếu kém, các văn bản pháp luật quy định chung chung,
chồng chéo sẽ gây ra nhiều các hiểu khác nhau đối với một sự việc. Điều này sẽ dẫn
tới việc tiếp cận của khách hàng đến các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đồng thời
khiến ngân hàng và khách hàng gặp nhiều khó khăn trong việc đi đến một thỏa thuận
chung cũng như sẽ dẫn tới việc nảy sinh các tiêu cực trong hoạt động cho vay tiêu
dùng. Ngược lại, với hệ thống văn bản pháp luật quy định chi tiết, cụ thể, kín kẽ, hợp
lý các vấn đề về cho vay tiêu dùng sẽ thúc đẩy người tiêu dùng sử dụng sản phẩm này,
đồng thời khuyển khích các ngân hàng tham gia, đẩy mạnh phát triển sản phẩm cho
vay tiêu dùng.
Môi trường chính trị
Môi trường chính trị có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của một quốc gia. Sự ổn
định của chính trị phản ánh tính đúng đắn của hệ thống lãnh đạo chính trị cũng như
đường lối xây dựng đất nước đã được đưa ra và thực hiện. Sự ổn định hay bất ổn về
chính trị ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình kinh doanh của ngân hàng cũng như xu
hướng tiêu dùng của người dân. Thật vậy, một hệ thống chính trị ổn định sẽ có khả
năng thu hút đầu tư tốt hơn, kéo theo sự phát triển mạnh về kinh tế. Điều đó cũng đồng
nghĩa với việc tăng thu nhập và tiêu dùng của người dân, góp phần làm cho hoạt động
cho vay tiêu dùng phát triển.
Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế thể hiện ở thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người,
tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân.. và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi tiêu
dùng của mọi người dân tại các quốc gia. Khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao,
người tiêu dùng lạc quan vào khả năng kiếm được thu nhập cao trong tương lai của họ
để rồi sẽ sử dụng nhiều hơn các sản phẩm vay tiêu dùng. Kết quả là hoạt động vay tiêu
dùng được mở rộng. Ngược lại, khi nền kinh tế ở trong thời kỳ suy thoái hoặc lạm phát
18
tăng cao, người dân sẽ có xu hướng hạn chế tiêu dùng, gia tăng tiết kiệm trong thời kỳ
này, do đó hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ bị thu hẹp lại.
Các chính sách kinh tế của nhà nước cũng có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt
động cho vay tiêu dùng, nhất là các chính sách và các chương trình phát triển kinh tế.
Điều đó được thể hiện rất rõ ràng khi nhà nước tăng mức chi tiêu cũng như tăng thu
hút đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.
Khi đó, thu nhập quốc dân tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, thu nhập người lao động tăng...
qua đó làm tăng nhu cầu tiêu dùng. Đây là tiền đề thuận lợi cho việc phát triển hoạt
động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại.
Môi trường văn hóa, xã hội
Môi trường văn hóa, xã hội cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn tới hoạt động cho vay
tiêu dùng. Cụ thể, tập quán văn hóa xã hội, chính sách giáo dục sẽ dẫn tới quan niệm
khác nhau về giá trị cuộc sống, giá trị tiêu dùng của xã hội. Thật vậy, sự khác nhau về
ý nghĩa cuộc sống, giá trị vật chất, tinh thần, sức khỏa, tri thức... sẽ tạo nên xu hướng
tiêu dùng khác nhau.
1.3.4. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng
thương mại
Đánh giá hoạt động CVTD là xem xét phẩm chất, giá trị của việc CVTD mang
lại, là khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi khi đáo hạn, số lãi thu về đảm bảo cho chi
phí vốn mà ngân hàng phải trả. Ngân hàng muốn hoàn thiện hoạt động CVTD cũng
như nâng cao hiệu quả CVTD thì cần thiết phải đánh giá hoạt động CVTD ủa mình,
qua đó nhìn nhận những kết quả và hạn chế, tìm ra nguyên nhân để khắc phục. Một số
chỉ tiêu để đánh giá hoạt động CVTD như sau:
1.3.4.1. Chỉ tiêu phản ánh số lượng khách hàng
Số lượng khách hàng là tổng số khách hàng thực hiện giao dịch với ngân hàng
trong một thời kỳ thường là một năm. Trong cho vay tiêu dùng, số lượng khách hàng
thể hiện thông qua số khoản vay tiêu dùng mà ngân hàng cấp cho khách hàng. Chỉ tiêu
này được tính bằng hiệu số giữa lượng khách hàng năm t với số lượng khách hàng năm
(t-1).
Mức tăng giảm số
lượng khách hàng
=
Số lượng khách hàng
năm (t)
-
Số lượng khách hàng
năm (t -1)
Ý nghĩa: Số lượng khách hàng sử dụng sản phẩm phản ánh việc phát triển quy
mô mạng lưới khách hàng của ngân hàng. Dựa vào việc so sánh số lượng khách hàng
sử dụng sản phẩm qua các năm ta sẽ thấy được xu hướng mở rộng hay thu hẹp cho vay
19
Thang Long University Library
tiêu dùng của ngân hàng. Mở rộng cho vay tiêu dùng là ngân hàng phải giữ vững
lượng khách hàng trong hiện tại và không ngừng làm nó gia tăng.
Khi xem xét số lượng khách hàng sử dụng sản phẩm, ta c n xét đến số lượt
khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Số lượt khách hàng giao dịch tăng dẫn đến
doanh số cho vay tiêu dùng tăng, qua đó thể hiện hoạt động cho vay tiêu dùng của
ngân hàng đang được mở rộng, đồng thời thể hiện sự tin tưởng của khách hàng đối với
ngân hàng.
1.3.4.2. Chỉ tiêu doanh số cho vay tiêu dùng
Doanh số CVTD thể hiện tổng số tiền mà ngân hàng đã cho các cá nhân, hộ gia
đình vay trong một thời kỳ cụ thể. Đây là chỉ tiêu phản ánh rõ nhất tốc độ mở rộng
CVTD. Doanh số cho vay càng lớn chứng tỏ nhu cầu vay của khách hàng được đáp
ứng tốt hơn, đồng thời cho thấy khả năng tăng lợi nhuận từ hoạt động này của ngân
hàng. Và ngược lại, khi doanh số CVTD giảm tức là ngân hàng đã cho người tiêu dùng
vay ít đi.
Tốc độ tăng doanh số
CVTD
=
Doanh số CVTD kỳ này – Doanh số CVTD kỳ trước
X 100%
Doanh số CVTD kỳ trước
Chỉ tiêu này dùng để so sánh sự tăng trưởng dư nợ CVT qua các năm để đánh
giá khả năng cho vay, tìm kiếm khách hàng và đánh tình hình thực hiện cho vay. Chỉ
tiêu này càng cao thì mức độ hoạt động CVTD càng tốt, ngược lại nếu chỉ tiêu này
thấp thì ngân hàng đang gặp khó khăn, nhất là trong việc tìm kiếm khách hàng và thể
hiện việc thực hiện kế hoạch cho vay tiêu dùng chưa hiệu quả.
Tỷ trọng doanh số
CVTD
=
Doanh số CVTD
Tổng doanh số cho vay
X
100%
Chỉ tiêu này cho biết doanh số CVTD chiếm bao nhiêu tỷ lệ trong tổng doanh số
cho vay tại ngân hàng. Khi tỷ trọng này tăng lên qua các năm chứng tỏ rằng tỷ lệ cho
vay tiêu dùng trong hoạt đông cho vay đã tăng lên và nó cũng cho thấy sự mở rộng của
hoạt động CVTD tại ngân hàng.
1.3.4.3. Chỉ tiêu doanh số thu nợ cho vay tiêu dùng
Doanh số thu nợ CVTD phản ánh số vốn của khách hàng hoàn trả cho ngân hàng
trong một thời kì nhất định. Doanh số thu nợ phản ảnh khả năng trả nợ đúng hạn của
khách hàng, phản ánh ngân hàng tăng thu nợ quá hạn, thu hồi sớm do có dấu hiệu
không lành mạnh trong tình hình tài chính của khách hàng. Nếu doanh số cho vay cao
kèm theo theo doanh số thu nợ cũng cao thì đây được xem là chất lượng các khoản vay
là tốt, vòng quay vốn tín dụng của ngân hàng là cao.
20
- Xem thêm -