Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Miếu thờ của người hoa ở biên hòa - đồng nai dưới góc nhìn văn hóa học trường hợ...

Tài liệu Miếu thờ của người hoa ở biên hòa - đồng nai dưới góc nhìn văn hóa học trường hợp thất phủ cổ miếu – chùa ông

.PDF
59
327
65

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG KHOA ĐÔNG PHƢƠNG HỌC  BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỀ TÀI: MIẾU THỜ CỦA NGƢỜI HOA Ở BIÊN HÒAĐỒNG NAI DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC (Trƣờng hợp Thất Phủ Cổ Miếu – Chùa Ông) TRƢƠNG CẨM TÚ BIÊN HÒA – THÁNG 5 NĂM 2012 MỤC LỤC PHẦN DẪN LUẬN ..................................................................................................1  Lý do chọn đề tài ..............................................................................................1  Mục đích nghiên cứu ........................................................................................1  Lịch sử nghiên cứu đề tài..................................................................................2  Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................3  Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ..........................................................................4  Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................4  Bố cục bài nghiên cứu ......................................................................................5 CHƢƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................7 1.1. Tổng quan về vị trí địa lý, kinh tế, xã hội Biên Hòa – Đồng Nai ..................7 1.1.1. Vị trí địa lý, kinh tế ...................................................................................7 1.1.2. Người Hoa ở Đồng Nai ..........................................................................10 1.2. Khái niệm và phân loại về miếu ..................................................................14 1.2.1. Khái niệm về miếu ..................................................................................14 1.2.2. Phân loại miếu........................................................................................16 1.3. Tổng quan về miếu thờ ................................................................................17 1.3.1. Lịch sử hình thành ..................................................................................17 1.3.2. Mô tả chung về ngôi miếu ......................................................................19 CHƢƠNG II : VĂN HÓA MIẾU THỜ CỦA NGƢỜI HOA ................................26 2.1. Tâm thức “gốm” của ngƣời Hoa qua ý nghĩa các quần thể tiếu tƣợng ........26 2.2. Đá Bửu Long – một dấu ấn tinh khiết của thiên nhiên. ...............................31 2.3. Thế giới quan và nhân sinh quan của ngƣời Hoa.........................................33 2.4. Hệ thống “đa thần” trong miếu thờ ngƣời Hoa ............................................36 2.5. Sự dung hợp văn hóa Hoa-Việt trong lĩnh vực tín ngƣỡng-tôn giáo ...........42 KẾT LUẬN .............................................................................................................46 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................47 PHỤ LỤC ................................................................................................................54 PHẦN DẪN LUẬN  Lý do chọn đề tài Với những đặc trƣng riêng biệt về địa lý, kinh tế, xã hội, Nam Bộ đã và đang là nơi hội tụ và tiếp biến nhiều dòng chảy văn hóa của các thành phần tộc ngƣời khác nhau, chủ yếu là ngƣời Việt, ngƣời Hoa, Khmer,…Trong số những dòng văn hóa đó thì văn hóa của ngƣời Hoa có lẽ là mạnh mẽ nhất. Với nhiều nguyên nhân khác nhau, ngƣời Hoa đã di cƣ vào Việt Nam qua nhiều thời kỳ và có một bộ phận đã định cƣ lâu dài trên mảnh đất mới khai phá (vùng đất Biên Hòa-Đồng Nai). Trong quá trình định cƣ trên vùng lãnh thổ mới, ngƣời Hoa đã tiếp tục phát triển những đặc trƣng văn hóa của mình trên cơ sở những yếu tố văn hóa truyền thống. Những cơ sở tín ngƣỡng-tôn giáo với kiến trúc thờ tự thƣờng là nơi biểu hiện rõ, sâu sắc và tập trung nhất những đặc trƣng văn hóa, những thành tựu nghệ thuật đặc sắc của cộng đồng ngƣời Hoa. Nơi đây lại là nơi có xu hƣớng bảo thủ truyền thống văn hóa. Vì vậy, để nghiên cứu văn hóa của ngƣời Hoa, chúng ta không thể không lƣu tâm đến đối tƣợng này. Hơn nữa, Thất Phủ Cổ Miếu mà đề tài lựa chọn nghiên cứu lại là cơ sở văn xã đầu tiên (tạo dựng vào năm 1684) của cộng đồng ngƣời Hoa ở Nam Bộ. Do đó, ngôi miếu có thể đƣợc xem là mang nét đặc trƣng rõ nét nhất cho hệ thống miếu thờ của ngƣời Hoa ở Nam Bộ.  Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu ngôi miếu cổ của ngƣời Hoa dƣới góc nhìn văn hóa học, tức là tiến hành phân tích ngôi miếu trên các bình diện văn hóa để thấy đƣợc đặc trƣng văn hóa của cộng đồng ngƣời Hoa, cùng với những đặc điểm kiến trúc nghệ thuật, nội dung thờ tự và nghi thức cúng tế-lễ hội hàng năm ở đây. 1 Và nghiên cứu này cũng muốn giới thiệu cho mọi ngƣời thêm một điểm tham quan khá lý thú và bổ ích về tri thức văn hóa cho những ai bƣớc chân đến với đất Đồng Nai.  Lịch sử nghiên cứu đề tài Vì ngƣời Hoa là tộc ngƣời chiếm số lƣợng dân đông thứ hai sau ngƣời Việt nên các công trình nghiên cứu về ngƣời Hoa khá nhiều. Từ 1924, Đào Trinh Nhất trong “Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ” đã khái quát quá trình di dân của ngƣời Hoa và vai trò của họ trong việc phát triển kinh tế miền Nam. Đến năm 1968, tác giả Tsai Maw Kuey đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề tài “Người Hoa ở miền Nam Việt Nam”. Trong công trình, tác giả nêu lên các vấn đề về lịch sử di dân, nhóm ngôn ngữ, xã hội của ngƣời Hoa. Việc mô tả các cơ sở tín ngƣỡng tôn giáo của ngƣời Hoa Phúc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu và nhiều hoạt động văn hóa đã đƣợc Trịnh Hoài Đức ghi nhận trong “Gia Định thành thông chí” viết vào đầu thế kỷ XIX. Nhìn chung, thời kỳ này các công trình chỉ đề cập đến một vài khía cạnh về gốm và chùa Hoa nói chung. Tuy nhiên, dù ở mức độ khác nhau, những vấn đề đƣợc tác giả đề cập đến đều rất có ích cho việc tìm hiểu về Thất Phủ Cổ Miếu. Đặc biệt, công trình chuyên khảo về các ngôi chùa (tên thƣờng gọi của các ngôi miếu)của ngƣời Hoa do các tác giả Phan An, Trần Hồng Liên, Phan Thị Yến Tuyết, Phan Ngọc Nghĩa xuất bản năm 1990 với tiêu đề “ Chùa Hoa Thành phố Hồ Chí Minh”. Công trình đã trình bày chi tiết về quá trình hình thành hệ thống cơ sở tín ngƣỡng-tôn giáo của ngƣời Hoa cùng với mô thức kiến trúc, nghệ thuật, trang trí điêu khắc thực sự là nguồn tƣ liệu quý giá giúp cho tác giả hiểu rõ hơn bối cảnh chung và những đặc điểm chung của các ngôi miếu. Năm 2005, tác giả Trần Hồng Liên xuất bản công trình “Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ-tín ngưỡng và tôn giáo”. Bên cạnh đó, những tƣ liệu nghiên cứu về văn hóa Trung Quốc nhƣ “Từ điển văn hóa cổ truyền Trung Hoa” xuất bản 2001 2 do Doãn Hiệp Lý chủ biên; “Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc” xuất bản cùng năm của Lê Huy Tiêu; “Tranh vẽ cát tường Trung Hoa” xuất bản 2002 của Trƣơng Đức Bảo; “Văn hóa Trung Hoa” xuất bản 2005 của Đặng Đức Siêu và “Di tích kiến trúc-nghệ thuật” trong Văn hóa và Nghệ thuật người Hoa Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản 2006 của Huỳnh Ngọc Trảng….là những tài liệu hỗ trợ cần thiết trong việc tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật của ngƣời Hoa. Năm 2010, tập thể Ban trị sự Thất Phủ Cổ Miếu đã xuất bản công trình “Thất Phủ Cổ Miếu”. Đây là công trình có sự giới thiệu chung về lịch sử ngôi miếu, cảnh quan chung và những sản phẩm trang trí trong ngôi miếu. Các tƣ liệu và công trình nghiên cứu trên đây tuy có đề cập đến con ngƣời, văn hóa, nghệ thuật của ngƣời Hoa nhƣng phần lớn những nghiên cứu ấy đều tập trung ở ngƣời Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó, vùng đất Biên Hòa mới là nơi mà ngƣời Hoa đã đến sống và định cƣ đầu tiên ở Nam Bộ. Cho nên, ngôi miếu này là giá trị văn hóa-cơ sở tín ngƣỡng đầu tiên mà ngƣời Hoa đã tạo lập. Vì vậy, việc nghiên cứu Thất Phủ Cổ Miếu dƣới góc nhìn văn hóa học đƣợc xem là việc nghiên cứu đầu tiên. Với thái độ trân trọng và biết ơn những thành tựu nghiên cứu của các học giả đi trƣớc đã cung cấp nhiều thông tin vô cùng bổ ích và có giá trị, tác giả đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc và trung thực nguồn tƣ liệu quý báu đó trong quá trình thực hiện luận văn của mình.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: các ngôi miếu thờ của ngƣời Hoa (ở thành phố Biên Hòa – Đồng Nai) – trƣờng hợp Thất phủ cổ miếu. Phạm vi nghiên cứu: Thất Phủ Cổ Miếu vốn là Quan Đế Miếu vừa là cơ sở tín ngƣỡng vừa là hội quán của các nhóm phƣơng tộc Phúc Châu và Quảng Đông đƣợc thành lập năm 1684. Đây là thời gian sau 5 năm nhóm binh dân do Trần Thƣợng Xuyên chỉ huy đƣa vào định cƣ ở vùng đất Biên Hòa. Nơi đây thuyền buôn tụ tập đông đảo, lập chợ phố thƣơng mãi,...nên việc nghiên cứu 3 Thất Phủ Cổ Miếu cần phải xem xét trong tiến trình lịch sử của Nông Nại đại phố cũng nhƣ trong bối cảnh chung của vùng đất này. Từ lúc khởi tạo Quan Đế miếu đến Thất Phủ Cổ Miếu hiện tồn không chỉ có mỗi sự thay đổi về tên gọi mà còn đƣợc tái thiết, trùng tu nhiều lần nên mỗi thời điểm đều để lại dấu ấn riêng. Vì vậy, mọi thứ cần đƣợc truy nguyên một cách tƣờng tận mới có đƣợc những nghiên cứu chính xác. Nên có thể nói việc nghiên cứu sẽ xuyên suốt từ thời kỳ thành lập theo dòng lịch sử cho đến nay. Việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào Thất phủ cổ miếu, nhƣng bên cạnh đó đề tài cũng đi đến việc tìm hiểu thêm các ngôi miếu thờ khác của ngƣời Hoa trên địa bàn thành phố Biên Hòa.  Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Việc tìm hiểu về ngôi miếu này góp phần quan trọng trong việc tìm hiểu lịch sử văn hóa địa phƣơng nói chung, lịch sử văn hóa cộng đồng ngƣời Hoa ở đây nói riêng. Và nó cũng giúp ta tìm thấy đƣợc những đặc trƣng văn hóa của cộng đồng ngƣời Hoa trên vùng đất mới. Đồng thời, qua những giá trị văn hóa ẩn chứa trong Thất Phủ Cổ Miếu, nó sẽ tạo tiền đề cho Tỉnh nhà tiếp tục trùng tu, giữ gìn những ngôi miếu khác đang trên đà xuống cấp. Và ngôi miếu này nếu đƣợc hoạch định tốt thì có thể trở thành điểm đến lý tƣởng cho du lịch của Tỉnh Đồng Nai. Hơn nữa, ngôi miếu còn phát huy giá trị đặc biệt trong cộng đồng ngƣời Hoa là nó sẽ làm chỗ dựa tâm linh và củng cố sợi dây nối kết cộng đồng cho biết bao thế hệ con cháu nơi đây.  Phương pháp nghiên cứu Phƣơng pháp hệ thống – cấu trúc: dùng để phân tích những đặc trƣng của ngôi miếu trong những thành tố văn hóa cụ thể. Phƣơng pháp liên ngành: sử dụng kiến thức và phƣơng pháp của nhiều ngành khoa học khác: lịch sử, địa lí, kiến trúc, nghệ thuật, … nhằm làm rõ những đặc 4 trƣng văn hoá mà ngƣời Hoa đã gửi “cái hồn Trung Hoa” vào ngôi miếu trên vùng đất mới mà họ định cƣ. Phƣơng pháp so sánh: bài viết sử dụng phƣơng pháp này trong quá trình xử lý tài liệu để có thể làm nổi rõ đặc trƣng và điểm khác biệt của ngôi miếu này so với những ngôi miếu trong cùng khu vực thành phố Biên Hòa. Phƣơng pháp điền dã: chụp ảnh, phỏng vấn  Bố cục bài nghiên cứu CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Trong chƣơng này, đề tài muốn giới thiệu tổng quan về vùng văn hoá mà đối tƣợng đƣợc nghiên cứu đang tọa lạc. Qua quá trình giới thiệu này, chúng ta có thể tiến đến việc tìm hiểu lịch sử hình thành ngôi miếu. Tiếp đến là việc mô tả tổng thể chung ngôi miếu. Đây là công việc cần thiết cho việc tìm hiểu những thành tố tiếp theo trong văn hoá. CHƢƠNG II: VĂN HÓA MIẾU THỜ CỦA NGƢỜI HOA Qua công trình ngôi miếu, ta có thể biết đƣợc những quan niệm của ngƣời Hoa thông qua cách bày trí bố cục tổng thể của ngôi miếu. Nơi đó lại chứa đựng cả một tâm thức về nghề gốm đƣợc ngƣời Hoa đem theo mình trên con đƣờng vƣợt trùng dƣơng đến với vùng đất mới. Từ ngành nghề của dân tộc mình, ngƣời Hoa đã tạo nên những sản phẩm đặc biệt là những bức tƣợng hoặc quần thể tiểu tƣợng trang trí trên nóc của ngôi miếu. Trong bức tranh tổng thể chung của Thất Phủ Cổ Miếu thì các quần thể tiểu tƣợng đã góp phần thể hiện những ý nghĩa riêng. Nó mang những ƣớc vọng của cƣ dân mới về cuộc sống mới trên mảnh đất mới. Và nó cũng gợi cho con ngƣời sự hoài vọng về nơi mà mình đã ra đi. Trong miếu ngoài những sản phẩm từ gốm thì đá cũng là nguyên liệu tạo tác nên nhiều tác phẩm bày trí tại Thất Phủ Cổ Miếu. Những sản phẩm này đều do ngƣời Hoa tận dụng nguyên liệu sẵn có tại địa phƣơng kết hợp với nghề điêu khắc đá mà tạo thành. 5 Qua ngôi miếu ta còn biết đƣợc ngƣời Trung Hoa suy nghĩ gì về con ngƣời và thế giới xung quanh. Từ đó, ngƣời Hoa đã gửi gắm chúng vào một hệ thống các thần linh đƣợc thờ phụng nơi đây. Hơn nữa, việc tìm hiểu ngôi miếu còn giúp chúng ta có những cái nhìn khá rõ về sự tiếp biến, giao lƣu văn hóa của cƣ dân Hoa-Việt. 6 CHƢƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Tổng quan về vị trí địa lý, kinh tế, xã hội Biên Hòa – Đồng Nai 1.1.1. Vị trí địa lý, kinh tế Biên Hòa là thành phố nằm ở phía tây của tỉnh Đồng Nai, nam giáp huyện Long Thành, bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, đông giáp huyện Trảng Bom, tây giáp huyện Dĩ An, Tân Uyên (tỉnh Bình Dƣơng) và Quận 9 (thành phố Hồ Chí Minh). Thành phố Biên Hòa nằm hai bên bờ sông Đồng Nai, cách Hình 1.1.1.1. Bản đồ thành phố Biên Hòa Tài liệu mạng [1] trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30km, cách thành phố Vũng Tàu 90 km. Nằm ở vị trí chiến lƣợc của vùng Đông Nam Bộ, Biên Hòa đƣợc xem là thành phố đô thị loại II, là đầu mối giao lƣu, là trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của tỉnh Đồng Nai. Đồng thời, thành phố Biên Hòa còn đƣợc mệnh danh là “thành phố khu công nghiệp”, bởi riêng nơi này đã có 7 khu công nghiệp lớn đã đi vào hoạt động với cơ sở hạ tầng đƣợc xây dựng đồng bộ. Hơn nữa, nơi đây cũng giữ một vị trí an ninh quốc phòng trọng yếu của cả vùng. Thành phố Biên Hòa có tổng diện tích là 264,08 km2, dân số thành phố năm 2010 là 784.000 ngƣời, với mật độ dân số là 2.969 ngƣời/km2, là thành phố thuộc tỉnh có dân số cao nhất nƣớc. Nơi đây là địa bàn cƣ trú của nhiều dân tộc, trong đó, ngoài ngƣời Việt từ các tỉnh miền Trung, miền Bắc vào; các dân tộc thiểu số bản địa (Tày, Nùng, Chơro, GiaRai,….) thì còn có một lƣợng lớn ngƣời Hoa sống rải rác ở hầu hết 30 phƣờng, xã của thành phố Biên Hòa. 7 Biên Hòa không chỉ có tiềm lực phát triển về kinh tế mà nó còn là vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa-xã hội. Nếu quay ngƣợc thời gian để nghiên cứu về văn hóa ngƣời Hoa thì ta có thể đến với vùng đất đã làm nên danh tiếng một thời cho xứ Đồng Nai, đó là vùng đất Cù Lao Phố-địa bàn hình thành nên những khu vực dân cƣ ngƣời Hoa khá sớm ở Nam Bộ. Cù Lao Phố (còn có tên gọi là Nông Nại Đại Phố; Đông Phố; Giản Phố và Cù Châu) là một bãi phù sa rộng khoảng 6,6 km2 nằm ở giữa sông Đồng Nai, nay thuộc xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Phía Bắc Cù Lao Phố giáp phƣờng Thống Nhất; phía Nam giáp xã Tân Vạn; phía Đông giáp phƣờng An Bình và Tam Hiệp; phía Tây giáp phƣờng Quyết Thắng và Bửu Hòa. Cù Lao Phố có tuyến đƣờng sắt xuyên Việt và quốc lộ I băng qua mỏm phía Tây Cù Lao. Đây là tuyến đƣờng huyết mạch dẫn đến thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Tây Nam Bộ; nếu ngƣợc ra phía Bắc thì tới các tỉnh miền Trung và thủ đô Hà Nội… Cù Lao Phố có địa hình tƣơng đối bằng phẳng và mang hình dạng của một chiếc chuông chùa treo nghiêng, đỉnh chuông ở phía Đông Bắc; thân chuông đƣợc tạo thành bởi sự uốn Hình 1.1.1.2. Toàn cảnh Cù Lao Phố vòng của sông Cát (còn gọi https://www.google.com.vn/search?tbm=isch&hl=en&source=hp là Sa Hà hay Rạch Cát) từ &biw=1024&bih=646&q=cu+lao+pho&gbv=2&oq=cu+lao+pho hƣớng Tây Nam lên Đông &aq=f&aqi=gS1&aql=&gs_l=img.3..0i24.4658l6393l0l7269l10l10l0l0l0l0l74l Bắc rồi lại chảy xuôi về hƣớng Đông Nam; dòng 531l10l10l0.frgbld. chính Đồng Nai chảy thẳng hƣớng Tây Bắc – Đông Nam làm thành đáy chuông. Hệ thống sông bao quanh này hằng năm đã cung cấp một lƣợng phù sa (tuy không nhiều) vào phần đất liền ở mé 8 sông, nhƣng khu vực ven bờ này lại không thích hợp cho việc sản xuất nông nghiệp vì chịu ảnh hƣởng của chế độ bán nhật triều xuất hiện với biên độ lớn và thời gian xuất hiện nhanh. Thế nhƣng bù lại khiếm khuyết trên thì Cù Lao Phố lại có hai rạch nhỏ là rạch Ông Án và rạch Lò Gốm đã đƣa nƣớc sông Đồng Nai chảy vào những cánh đồng trong lòng cù lao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng trọt ở đây. Ngoài ra, với vị trí là bãi phù sa trên nền đá cứng, đất đai Cù Lao Phố còn thích hợp cho việc trồng lúa, hoa màu, cây ăn quả nhiều loại. Dƣới lớp đất mặt có tầng sét dày hạt mịn màu đỏ là nguyên liệu tại chỗ cho nghề làm đồ gốm và gạch ngói xuất hiện. Hơn nữa, cũng với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt nhƣ thế đã nối kết tạo thành một tuyến đƣờng giao thông thủy thuận tiện từ Bắc xuống Nam, lên Cao Miên và xuống miền Tây Nam bộ. Nó đã trở thành nhân tố quan trọng đóng góp vào công cuộc Nam Tiến, bởi lẽ, chính dòng sông này đã khiến cho vùng đất Cù Lao Phố-địa danh một thời nổi tiếng với tên gọi Nông Nại Đại Phố-trở thành một trung tâm thƣơng mại sầm uất, một thƣơng cảng quan trọng nhất Nam Bộ, trƣớc khi nhƣờng chỗ cho phố thị Sài Gòn và Bến Nghé nổi lên thay thế. Hình ảnh về một xứ phồn hoa đô hội đã đƣợc khắc họa khá rõ nét trong sách Đại Nam nhất thống chí: “Trần Thượng Xuyên chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi từng rực rỡ trên bờ sông, liền lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ: nhai lớn giữa phố lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội...”1 Từ ƣu thế của một cảng sông sâu trong nội địa, đầu mối tập trung nhiều loại hàng hoá đã làm cho ngành thƣơng nghiệp phát đạt ở vùng Cù lao Phố. Theo đó thì các ngành nghề thủ công khác cũng đƣợc lôi kéo đến nhƣ: dệt chiếu, làm tơ lụa, 1 Quốc sử quán triều Nguyễn – Đại Nam nhất thống chí, tập thƣợng, Biên Hòa, trang 25. 9 làm gốm, mộc, đúc đồng, làm pháo hay chăn nuôi tằm, trồng mía, nấu đƣờng... Ngoài nguồn hàng cung cấp tại chỗ, thƣơng cảng Cù lao Phố còn tiếp nhận các chủng loại hàng hóa từ những địa điểm khác trong vùng chuyển đến nhƣ Phƣớc Thiền, Bến Cá, Phú Hội, Chợ Đồn, Long Tân, Phƣớc An … Việc buôn bán đƣợc tổ chức khéo léo và mang tính chất kinh doanh lớn. Quang cảnh sầm uất của các cửa hiệu, sự mua bán rộn rịp của khách thƣơng hồ đƣợc Trịnh Hoài Đức mô tả: “Xưa nay thuyền buôn đến đây hạ neo xong thì lên bờ thuê phố ở, rồi đến nhà chủ mua hàng, lại đấy kê khai những hàng trong thuyền và khuân cất lên, thương lượng giá cả, chủ mua hàng định giá mua bao tất cả những hàng hóa tốt xấu, không bỏ xót lại thứ gì. Đến ba ngày trương buồm trở về, gọi là hồi đường, chủ thuyền có yêu cầu mua giúp vật gì thì người buôn ấy cũng chiếu y ước đơn mua giùm chở đến trước kỳ giao hẹn, hai bên chủ khách chiếu tính hóa đơn thanh toán rồi cùng nhau đàn ca vui chơi, đã được nước ngọt tắm rửa sạch sẽ, lại không lo sợ trùng hà ăn lủng ván thuyền, khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất thuận lợi”[45:10]. Với những ƣu thế về vị trí địa lý nhƣ trên, nó không những giúp cho Cù Lao Phố có thể phát triển kinh tế mạnh mẽ mà nó còn trở thành nơi xây dựng khá nhiều những kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng đồ sộ lúc bấy giờ, điển hình là Thất phủ cổ miếu. 1.1.2. Người Hoa ở Đồng Nai Nếu sự có mặt khai phá của lƣu dân Việt từ trƣớc thế kỷ XVII là nhân tố quan trọng thì sự có mặt của nhóm cộng đồng ngƣời Hoa là nhân tố tích cực ở Đồng Nai. Với nhiều tên gọi khác nhau và các nhóm ngôn ngữ khác nhau, ngƣời Hoa đã đến sinh sống và phát triển kinh tế ở đây nhƣ một thành phần quan trọng trong tổng thể các mối quan hệ kinh tế – văn hóa – xã hội của tỉnh. Đồng Nai là tỉnh có 31/54 tộc ngƣời ở Việt Nam, có 2.218.900 dân, trong đó ngƣời Kinh chiếm đa số (91,3%) và các tộc ngƣời khác nhƣ Châu Ro, Mạ, Stiêng, Cơ Ho… Còn Ngƣời Hoa là tộc ngƣời có số dân đông thứ hai sau ngƣời 10 Kinh (5,1%) 2…Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/4/1999, dân số ngƣời Hoa ở tỉnh Đồng Nai là 102.906 ngƣời, đến năm 2011 lên đến 118.863 ngƣời, phần lớn họ sống tập trung tại thành phố Biên Hoà, huyện Định Quán, Thống Nhất, Xuân Lộc, Long Khánh, Tân Phú, Vĩnh Cửu, Long Thành, Nhơn Trạch…Hiện nay, số lƣợng ngƣời Hoa phân bố riêng ở thành phố Biên Hòa là 7.588 ngƣời, chiếm khoảng 0.96% 3 trong tổng số 790.416 dân toàn thành phố. Và nhóm ngƣời Hoa ở đây đƣợc xem là tiêu biểu (hội đủ các đặc điểm về lịch sử, kinh tế, phong tục tập quán, tín ngƣỡng dân gian và lễ hội) cho nhóm ngƣời Hoa trong toàn tỉnh. Diễn trình hội nhập và phát triển của ngƣời Hoa ở Đồng Nai đƣợc đánh dấu mốc đầu tiên vào năm 1679. Đây là thời gian diễn ra cuộc di dân của hơn 3000 quan binh Trung Hoa, do trung thành với Minh triều, không chấp nhận sống dƣới triều Mãn Thanh nên đã lên 50 chiếc thuyền rời quê hƣơng xuôi thuyền về Nam. Họ đã đến xin chúa Nguyễn Phúc Tần chấp nhận cho nơi cƣ trú. Chúa Nguyễn ƣng thuận cho họ đến khai khẩn đất miền Nam. Trong số lƣợng trên thì có một nhóm ngƣời Hoa (thuộc các châu Cao – Lôi – Liêm) do tƣớng Trần Thƣợng Xuyên, Trần An Bình dẫn đầu chọn vùng Đồng Nai - Gia Định để khai khẩn và lập Thanh Hà xã. Trong quá trình định cƣ, Trần Thƣợng Xuyên đã thấy vùng Bàn Lân (Cù Lao Phố - Hiệp Hòa ngày nay) có nhiều tiềm năng về nông nghiệp và thƣơng nghiệp vì thuận lợi giao thông thủy bộ nên ông và các bộ hạ đã chọn vùng này để thành lập và phát triển thành một trung tâm xuất khẩu. Chính tại nơi đây, họ đã tiến hành giao thƣơng với rất nhiều khách nƣớc ngoài nhƣ ngƣời Hoa bản sứ, ngƣời Nhật, ngƣời phƣơng Tây, ngƣời Việt,… khiến cho vùng này trở thành một Đại Phố buôn bán tấp nập. Sau năm 1679, những đợt di cƣ của ngƣời Hoa vẫn liên tục diễn ra và kéo dài trong suốt ba thế kỷ tiếp theo. Ngoài một bộ phận là thƣơng nhân buôn bán đƣờng dài, quan lại binh lính có tƣ tƣởng “phản Thanh phục Minh” ….thì đa phần họ là những nông dân, thợ thủ công, những ngƣời buôn bán nhỏ … nghèo đói vì 2 3 Số liệu của Ban Dân vận Tỉnh uỷ tỉnh Đồng Nai 2007. Theo thống kê của Ủy ban Nhân dân thành phố Biên Hòa ngày 30/09/2011 11 chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến, vì đất đai cằn cỗi, chật hẹp, vì sƣu cao thuế nặng, dịch bệnh thiên tai … đã phải rời bỏ quê hƣơng đi tìm vùng đất mới có cuộc sống tốt đẹp hơn. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 17 đến trƣớc năm 1954, đây là giai đoạn các nhóm cộng đồng ngƣời Hoa từ Trung Quốc sang với nhiều đợt và nhiều qui mô, tính chất khác nhau. Hầu hết, số ngƣời Hoa này từ các tỉnh vùng Hoa Nam (Trung Quốc) đến Nam bộ bằng đƣờng biển và sống rải rác trong tỉnh. Với số lƣợng ngƣời Hoa đông đảo nhƣ thế, để tiện việc cai trị, Pháp đã công nhận việc tổ chức ngƣời Hoa vào 7 bang. Vì vậy, mỗi khi ngƣời Hoa nhập cƣ vào thì sẽ gia nhập vào một bang và bang đó sẽ chịu trách nhiệm về mọi việc đối với thành viên của bang mình. Đến năm 1885, chính quyền thực dân đã tiến hành cải tổ các bang hội ngƣời Hoa từ 7 bang tổ chức lại thành 5 bang. Trong giai đoạn này, số ngƣời Hoa đến Đồng Nai sinh sống và cƣ trú ở các địa bàn: Phƣớc Thiền (huyện Nhơn Trạch), thị trấn Long Thành, vùng Bến Gỗ (huyện Long Thành), địa bàn Bến Cá (huyện Vĩnh Cửu), thị xã Long Khánh và thành phố Biên Hòa. Về sau, do ảnh hƣởng và tác động của kinh tế, xã hội đa phần nhóm ngƣời Hoa này sinh sống tập trung nhất tại thành phố Biên Hòa và một bộ phận ở thị xã Long Khánh. Từ năm 1954 đến năm 1975, số lƣợng ngƣời Hoa đến Đồng Nai tiếp tục gia tăng, có thể nói “Đây là đợt di dân lớn nhất, quy định số người Hoa hiện có tại Đồng Nai”4. Họ có nguồn gốc từ các tỉnh giáp biên giới phía Bắc Việt Nam, đã đến địa bàn Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh của Việt Nam sinh sống từ trƣớc. Từ năm 1954, họ di cƣ vào miền Nam, định cƣ tại vùng Sông Mao (nay thuộc xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận), dƣới chế độ Ngô Đình Diệm. Sau đó, do nhiều biến động xã hội, thời cuộc, điều kiện lao động, sinh sống ….., từ vùng Sông Mao, một bộ phận ngƣời Hoa bằng đƣờng bộ, chia thành nhiều đợt đến định cƣ tại các địa bàn thuộc tỉnh Đồng Nai nhƣ: Bàu Hàm – Sông Thao (Thống Nhất), Tân 4 Tỉnh uỷ Đồng Nai, Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 62 CT/TW của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng (Khoá VII) về “Tăng cƣờng công tác ngƣời Hoa trong thời kỳ mới” ở tỉnh Đồng Nai, số 30-BC/TU ngày 01/11/2001. 12 Phong – Tam Hiệp (Biên Hòa), cây số 115 (Định Quán), cây số 125 (Tân Phú), xã Bảo Bình (Cẩm Mỹ), thị xã Long Khánh … Từ sau ngày 30/04/1975, Đồng Nai lại tiếp nhận thêm một số lƣợng ngƣời Hoa đến từ các tỉnh thành trong cả nƣớc. Trong đó, có nhóm di dân theo dạng tự do (từ miền Bắc đến), có nhóm di dân theo chính sách phát triển kinh tế mới (từ thành phố Hồ Chí Minh đến). Họ đến Đồng Nai khai phá đất hoang, phát triển kinh tế nông nghiệp, một bộ phận họ đến sống tại những nơi đã có đông ngƣời Hoa sinh sống từ trƣớc giải phóng, một bộ phận tỏa đi sinh sống rải rác trong địa bàn toàn tỉnh. Những nhóm ngƣời Hoa trong toàn tỉnh Đồng Nai có thể phân thành 5 nhóm (theo phƣơng ngữ hay bang hoặc quê quán): Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hẹ và Hải Nam. Các nhóm này cũng có mặt đầy đủ ở thành phố Biên Hòa nhƣ:  Ngƣời Hoa bang Quảng Đông tập trung ở các phƣờng thuộc nội ô thành phố (Bửu Long, Hòa Bình, Thanh Bình, Trung Dũng, Quyết Thắng và một số ít ở xã Hiệp Hòa).  Ngƣời Hoa nhóm Phúc Kiến có tỉ lệ khá đông, tập trung ở các khu vực trung tâm thành phố Biên Hòa.  Ngƣời Triều Châu ở Biên Hòa sống đan xen cùng với các nhóm ngôn ngữ khác nhƣng tập trung đông ở các phƣờng Bửu Long, Bửu Hòa, Hóa An, Hòa Bình, Thanh Bình.  Ngƣời Hẹ tập trung chủ yếu ở khu vực Bửu Long; ngƣời Hải Nam ở Biên Hòa thì rất ít, không có bang riêng nên thƣờng sinh hoạt chung với bang Hẹ.  Nhóm Hoa Hải Ninh (Hoa Nùng) định cƣ ở hai phƣờng Tân Phong và Bình Đa thuộc thành phố Biên Hòa. Nhƣ vậy, trong suốt chiều dài lịch sử hơn 300 năm, ngƣời Hoa đã nhanh chóng hội nhập và thích nghi nơi vùng đất mới. Họ đã phát huy mạnh mẽ truyền thống, sở trƣờng vốn có của mình (đặc biệt trên lĩnh vực lao động với các ngành 13 nghề thủ công, nông nghiệp, dịch vụ thƣơng mại). Chính sự hình thành phát triển của thƣơng cảng Cù Lao Phố cũng nhƣ Chợ Lớn về sau này đã kích thích sự di dân của ngƣời Hoa. Nhiều đợt di dân chủ yếu vẫn diễn ra vào nhiều thời điểm khác nhau, nhƣng ồ ạt nhất là vào thế kỷ 19 với lý do tị nạn chiến tranh. Các đợt di dân ấy đã biến vùng Sài Gòn – Chợ Lớn và Biên Hòa – Đồng Nai trở nên đông đúc ngƣời Hoa. 1.2. Khái niệm và phân loại về miếu 1.2.1. Khái niệm về miếu Theo ngƣời Việt Nam thì miếu có nhiều cách hiểu khác nhau nhƣ: Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngƣỡng dân gian Việt Nam, có quy mô nhỏ hơn đền. Miếu thƣờng đƣợc tọa lạc ở nơi xa làng, yên tĩnh, thiêng liêng và chỉ là nơi yên nghỉ của các vị thánh thần. Khi miếu phối thờ Phật cùng thì đƣợc gọi là Am, ở Nam Bộ miếu còn đƣợc gọi là miễu5. Theo Toan Ánh trong quyển thƣợng Tín ngưỡng Việt Nam, ông cho rằng: Miếu cũng như đền là nơi quỷ thần an ngự. Miếu nhỏ hơn đền (đền nhỏ hơn đình), thường xây theo kiểu hình chữ nhật với hai phần cách nhau bởi một bức rèm, nội điện bên trong và nhà tiền tế bên ngoài… miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân chúng làm nhộn. Trong miếu cũng có tượng thần hoặc bài vị thần linh, đặt trên ngai, ngai đặt trên bệ với thần sắc hoặc bản sao… Theo Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục thì ông cho rằng: Mỗi làng thờ thần phải có một tòa miếu. Có nơi thì vừa có miếu, vừa có đình… Miếu là chỗ quỷ thần bằng y, đình là nơi thờ vọng và để làm nơi công sở cho dân hội họp. Miếu thường hay kén những nơi đất thắng cảnh, nhất là trên gò cao, hoặc ở nơi gần hồ to sông lớn thì mới hay… Đình miếu cũng theo một kiểu mẫu, chỉ khác nhau to với nhỏ mà thôi… 5 http://vi.wikipedia.org/wiki/Mi%E1%BA%BFu 14 Còn theo nhà văn Sơn Nam trong cuốn Đình - Miễu và lễ hội dân gian đã viết: …Đình - miếu (miễu) là cơ ngơi làm biểu tượng nhắc nhở lòng nhân nghĩa, đạo lý tự giác, vì vậy mà tồn tại và phát triển trong thời gian dài mãi đến nay hãy còn ảnh hưởng sâu đậm… Miễu, do miếu nói trại ra. Nhà thờ riêng của dân (nhà thờ họ) gọi gia miếu. Nhà thờ giòng họ của triều đại gọi là thế miếu… ở đồng bằng sông Cửu Long, chẳng nghe nói đến hai tiếng “Phúc thần”. Các hạng tà thần tuyệt nhiên không có, họa chăng vài am miễu dựng lên nơi có người chết oan ức vì tai nạn xe cộ, đắm thuyền, hùm tha, sấu bắt, cúng sơ sài không tế lễ… Theo Địa chí tôn giáo-lễ hội Việt Nam thì lại cho rằng : Am, miếu, mưỡu, được hiểu là nơi thờ thần linh, ma quỷ, khi tín ngưỡng thờ Mặt trời đã phai mờ, nhưng sấm chớp mây mưa rồng nước vẫn chiếm lĩnh một góc trời tôn kính; những nơi thờ cúng các thần linh này thường nhỏ hơn đền, có khi khiêm tốn nép gọn lại chỉ còn là một bộ phận nhỏ của một ngôi đình, đền lớn; trong các miếu, có hệ thống các văn miếu, võ miếu, y miếu, mà chủ yếu là Văn miếu thờ Khổng Tử và các môn đệ, không chỉ thờ Ngũ Luân (quan hệ vua-tôi, chacon, vợ-chồng, anh-em, bè-bạn) và Tứ Đức (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí), mà còn thờ nhiều thầy dạy đạo cao đức trọng như Chu Văn An, Võ Trường Tỏa, v.v..; đó là còn chưa nói đến các am nơi hẻo lánh để người xưa tĩnh mịch ở ẩn, như am Bạch Vân của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ (2005) thì: Miếu là nơi thờ thần thánh (hoặc những nhân vật đã đƣợc thần thánh hóa) ; đền thờ nhỏ. Theo quan điểm của ngƣời Hoa thì từ miếu (廟) mà ngƣời Hoa sử dụng là dùng để chỉ : Nhà thờ tổ tiên – Nhà thờ thần – Cung điện của vua (Miếu vũ 廟 宇). Nhƣ vậy, Toan Ánh và Phan Kế Bính đề cập đến miếu với tính cách là một nơi thờ tự đi đôi với đình làng, đã có đình thì không nhất thiết phải có miếu, còn am chúng sinh ở tha ma (nghĩa địa) thì để thờ những linh hồn vô chủ. Đây thực sự là hình thức miếu thờ mà đa số là ở miền Bắc và miền Trung. Trong khi đó nhà văn Sơn Nam trình bày về miếu theo cách hiểu phổ biến của dân gian Nam Bộ. 15 Còn các cách hiểu khác thì miếu đƣợc đề cập đến nhƣ một không gian thờ tự của nhiều đối tƣợng khác nhau đi đôi với đền. Qua các khái niệm khác nhau nhƣ trên, ta thấy “miếu” cũng là một thành phần trong số các cơ sở thờ tự (chùa, đền, đình) của hệ thống các cơ sở tín ngƣỡng ngƣời Việt, nhƣng đối với ngƣời Hoa, miếu đƣợc xem nhƣ là thành tố chính (chiếm hơn 50% các cơ sở tín ngƣỡng khác). Vì vậy, ta có thể có một khái niệm nhƣ sau: miếu là loại hình phổ biến của tín ngƣỡng cộng đồng ngƣời Hoa, đa số các vị thần linh, các bậc hiền thánh đều đƣợc thờ tự trong các miếu. 1.2.2. Phân loại miếu Miếu là một loại kiến trúc tế tự, nó đƣợc hình thành từ những lễ chế Tông pháp nghiêm khắc của xã hội Trung Quốc cổ đại. Từ xa xƣa, khi trình độ sản xuất còn thấp kém, cuộc sống và việc sản xuất của con ngƣời thƣờng chịu nhiều ảnh hƣởng của thiên nhiên và sự xâm hại của các loài mãnh thú. Chính sự hạn chế về trình độ nhận thức, con ngƣời đối với những vấn đề mà khoa học không giải thích đƣợc, đem hy vọng gửi gắm vào sự bảo hộ của thần linh. Việc xuất hiện thần linh có quá trình phát triển khác nhau. Vào lúc sơ khai của nhân loại, tƣ duy của con ngƣời còn đơn giản, giàu ảo tƣởng, đối với tất cả hiện tƣợng tự nhiên và vạn vật trong tự nhiên đều cảm thấy thần bí và đáng sợ. Mây mƣa trên trời biến thành sự vận hành nhật nguyệt kì ảo; núi non chim muôn và cây cối ở dƣới đất đều đƣợc xem là có thần linh chúa tể; thế là sinh ra quan niệm “vạn vật hữu linh”. Các vị thần linh này đã nuôi nấng loài ngƣời trƣởng thành, lại cũng đe dọa đến sự sinh tồn của họ. Vì thế, loài ngƣời vừa cảm kích họ, vừa cảm thấy sợ hãi đối với những gì mà họ tạo ra. Đồng thời, loài ngƣời cũng có cảm giác tƣơng tự và khó có thể lý giải đƣợc về những cảnh tƣợng mộng ảo và sinh lão bệnh tử của bản thân mình. Ngƣời xƣa tin rằng, con ngƣời sau khi chết, linh hồn của họ có một năng lực vƣợt ra khỏi tự nhiên, có thể giao lƣu với ngƣời sống trong mộng, và cũng có thể làm những điều ám muội khiến ngƣời sống sinh bệnh hoặc gặp tai nạn. Loại tâm lý tôn kính và sợ hãi các thần trở thành nhân tố quan trọng sinh ra hành vi cúng tế. 16 Quan điểm “vạn vật hữu linh” đã hình thành nên sự sùng bái đa thần, cũng khiến cho đối tƣợng cúng tế của con ngƣời nhiều hơn dẫn đến việc xây dựng nhiều ngôi miếu để làm nơi trú ngụ cho thần linh và tổ tiên. Xét theo đối tượng được thờ cúng chính về đại thể ta có thể phân làm 3 loại:  Miếu thờ thần linh: đối tƣợng đƣợc thờ trong ngôi miếu này thƣờng là những vị thần của thiên giới và địa giới. Thần linh của thiên giới chủ yếu là trời, thần mặt trời, mặt trăng, thần mƣa,…..Thần linh địa giới thì có thần táo, thần núi, thần nƣớc, thần đá, các thần động thực vật,….; tất cả các vị thần đó đều có mối quan hệ mật thiết với sự sinh tồn của loài ngƣời.  Miếu thờ các vị hiền thánh: nơi thờ những ngƣời có đạo đức và tài năng rất cao, đƣợc coi là mẫu mực cho xã hội (cũ); khai quốc công thần.  Miếu thờ tổ tiên: nơi thờ cúng ông cha từ nhiều đời trƣớc hay các vị tổ thần nghề; tất cả họ đều trực tiếp có mối quan hệ với cuộc sống thƣờng ngày của loài ngƣời. Nếu xét về phương diện sở hữu thì ta có 2 loại:  Miếu thờ của gia đình: đa số là các ngôi miếu thờ nhỏ, mang tính chất riêng tƣ của gia đình. Nó thƣờng là các ngôi miếu thờ thổ thần của cuộc đất đó hay miếu thờ tổ tiên trong gia đình, dòng họ (gia miếu).  Miếu thờ của cộng đồng: dạng miếu này thƣờng lớn hơn các ngôi miếu của gia đình và mang tính chất chung cho cả làng hay vùng đó. Nếu xét về quy mô thì ta có 3 loại miếu: lớn, vừa và nhỏ 1.3. Tổng quan về miếu thờ 1.3.1. Lịch sử hình thành Trong khoảng thời gian hơn 300 năm khai phá và sinh sống nơi “đất khách quê ngƣời”, các nhóm ngƣời Hoa trong toàn tỉnh Đồng Nai đã cùng nhau xây dựng nên rất nhiều cơ sở tín ngƣỡng mang đặc trƣng riêng của dân tộc mình. Riêng thành phố Biên Hòa, họ đã xây dựng đƣợc khoảng 12 ngôi miếu lớn nhỏ ở nhiều khu vực ngƣời Hoa khác nhau. Lịch sử xây dựng các miếu Hoa từ rất sớm, khoảng thế kỷ XVII cho tới đầu thế kỷ XX. Trong đó, một ngôi miếu của ngƣời 17 Hoa đƣợc xem là cơ sở văn xã đầu tiên sớm nhất của Nam Bộ nói chung và Biên Hòa nói riêng, đó là Thất phủ cổ miếu. Thất phủ cổ miếu (còn gọi là Miếu Quan Đế hay Chùa Ông) là một cơ sở kiến trúc tín ngƣỡng ngƣời Hoa có quy mô lớn ở thành phố Biên Hòa; xƣa thuộc thôn Bình Hoành (Cù Lao Phố), dinh Trấn Biên, phủ Gia Định, nay là xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Tính từ khi nhóm ngƣời Hoa theo chân Trần Thƣợng Xuyên đến Cù Lao Phố gây dựng cơ sở lớn, chọn vị trí thuận lợi, sát mé sông để kinh doanh và định cƣ thì 5 năm sau chùa Quan đế đƣợc dựng lên (1684). Khi mới hình thành, đây là một ngôi miếu nguy nga đƣợc bao quanh bằng dãy tƣờng gạch có 4 con lân bằng đá ngồi ở bốn góc miếu; bên trong có tƣợng cao hơn một trƣợng, có quán Quan Âm. Và ngôi miếu này cùng với 2 hội quán Phúc Châu, Quảng Đông trở thành 3 ngôi đền lớn ở một vùng thời bấy giờ. “Ở phía Nam cù lao Đại Phố, phía đông đường tam nhai ngó đến sông Phước, miếu điện nguy nga có đắp tượng cao hơn một trượng, phía sau là quán Quan Âm, ngoài bao tường gạch có con lân bằng đá ngồi 4 góc. Cùng với Hội quán Phúc Châu đầu phía tây đường lớn và hội quán Quảng Đông ở phía đông là ba cái đền lớn”. [45:110-111] Hay: “Đền Quan Công ở phía đông tam nhai thuộc phía nam Châu - Đại phố, huyện Phước Chính, mặt tiền ngó xuống Phước Giang, nhà đền rộng rãi tráng lệ, có đắp pho tượng cao hơn 1 trượng, ở sau có quán Quan Âm cùng Hội quán Phước Châu ở đầu phía tây, Hội quán Quảng Đông ở đầu phía đông hợp thành 3 ngôi đền lớn. Sau Tây Sơn đến chiếm, hai đền kia bị hủy bỏ, chỉ còn đền Quan Thánh. Người Thanh Hương, Minh Hương trong tỉnh đến thời tiết cúng tế, hương khói miếu mạo y như xưa”6 Đến khi xảy ra chiến tranh, nhân dân ở 2 hội quán Phúc Châu và Quảng Đông ly tán khiến cho 2 hội quán trở nên thƣa ngƣời và dần dần bị hủy bỏ, chỉ còn 6 Đại nam nhất thống chí, tập thƣợng, Nha văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, 1973. tr.43 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan