Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở việt nam...

Tài liệu Lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở việt nam

.PDF
105
679
140

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM THỊ KHÁNH LY LÝ TƢỞNG THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60 22 03 01 HÀ NỘI – 2016 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM THỊ KHÁNH LY LÝ TƢỞNG THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Triế t học Mã số : 60 22 03 01 Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thu Nghĩa HÀ NỘI – 2016 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cuộc sống, ai cũng đều có những mục tiêu, những lý tưởng tốt đẹp để hướng tới. Mục tiêu ấy, lý tưởng ấy hướng con người đến cái hoàn thiện, cái tốt đẹp. Lý tưởng là mục đích sống, là ý nghĩa của mỗi cuộc đời. Lý tưởng quyết định sự thành bại của mỗi người nếu biết lựa chọn đúng. Lý tưởng giúp con người tăng thêm sức mạnh và niềm tin để có thể thành công trong cuộc sống và sự nghiệp, cũng như vượt qua đươ ̣c những khó khăn và trở ngại. Lý tưởng có nhiều loại, điển hình là lý tưởng thẩm mỹ và lý tưởng xã hội. Lý tưởng thẩm mỹ khác với lý tưởng xã hội ở chỗ nó là cái toàn vẹn, cụ thể, cảm tính, là một hình tượng sinh động, hấp dẫn, có khả năng tạo ra khoái cảm thẩm mỹ. Hình tượng trung tâm trong mọi hình tượng chính là mẫu người lý tưởng. Lý tưởng thẩm mỹ là tổng thể phương hướng cơ bản của đời sống được đúc kết lại thành hình ảnh mẫu mực, cảm quan của sự hoàn thiện, hoàn mỹ của con người và xã hội, là sự cố gắng, nỗ lực hoàn thiện của con người, để giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc. Lý tưởng thẩm mỹ thể hiện ở nhiều lĩnh vực nhưng nghệ thuật là lĩnh vực được thể hiện rõ ràng và tập trung nhất. Lý tưởng thẩm mỹ thể hiện qua các hình tượng, các nhân vật, các tình tiết trong nội dung mà nghệ thuật truyền đạt. Khi người nghệ sĩ có lý tưởng thẩm mỹ rõ ràng, đúng đắn sẽ có thể cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật ý nghĩa và có sức tồn tại lâu dài. Lý tưởng thẩm mỹ đó có thể đươ ̣c các tác giả truyền tải qua các hình tượng. Một tác phẩm nghệ thuật hàm chứa lý tưởng thẩm mỹ sẽ mang một nội dung lành mạnh, có ý nghĩa và sẽ đem lại cho người thưởng thức những bài học, những tư tưởng đúng đắn. Khi có lý tưởng thẩm mỹ, hoạt động nghệ thuật sẽ xác định được cần thể hiện vấn đề gì, nội dung tác phẩm sẽ như thế nào, từ đó 3 tránh việc có những tác phẩm không có nội dung hay nội dung mang ý nghĩa tầm thường. Trong giai đoạn nước ta đang lâm vào cảnh chiến tranh ác liệt, nội dung mà các tác phẩm nghệ thuật hướng đến chính là nội dung về Tổ quố c , về đất nước, về lý tưởng giải phóng dân tộc , giải phóng giai cấp , giải phóng con người. Tình cảm lứa đôi được đặt trong tình yêu quê hương , đấ t nước, yêu chuộng hòa bình. Các tác phẩm ấy đã đi cùng thời gian, sống mãi trong lòng bao thế hệ người dân Việt Nam để đến giờ khi nhìn lại ta vẫn thấy ở những tác phẩm ấy toát lên ý nghĩa thời đại. Tuy nhiên, trong giai đoa ̣n hiện nay, đứng từ góc độ lý tưởng thẩm mỹ có thể thấy, hoạt động sáng tạo nghệ thuật chưa mang trong mình những nội dung như thời kỳ trước. Nội dung mà nghệ thuật hiện nay hướng đến chủ yếu là những nội dung về con người cá nhân chứ chưa mang ý nghĩa xã hội. Những tác phẩm nghệ thuật hiện nay tuy nhiều nhưng thiếu tính điển hình, thiếu ý nghĩa, thiếu tính định hướng. Con người cá nhân với những tình cảm chưa có yếu tố lý tưởng được sử dụng làm nội dung chính của nhiều tác phẩm nghệ thuật. Có thể nhận thấy vấn đề này thể hiện rất nhiều trong các ca khúc, truyện ngắn, tiểu thuyết, phim,.. Ở nhiều tác phẩm, lý tưởng thẩm mỹ đã bị xem nhẹ, nhường chỗ cho viê ̣c bộc lộ cái tôi bản thân quá cao. Họ đã quên đi cái lý tưởng mà xã hội đang cần khơi dậy và hướng đến. Thế hê ̣ trẻ hiện nay tham gia trực tiếp vào các hoạt động sáng tạo, đánh giá và thưởng thức nghệ thuật nhưng phần đông lại chưa có cái nhìn đúng đắn về nghệ thuật thực sự, điều đó dẫn đến các tác phẩm nghệ thuật hiện nay rơi vào trạng thái thiếu lý tưởng hay sai lệch lý tưởng. Vấn đề này là một trong những vấn đề quan trọng cần được giải quyết sớm để nghệ thuật nước nhà phát triển theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước ta đề ra đó là tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. 4 Hoạt động sáng tạo nghệ thuật hiện nay thiếu đi những tác phẩm thực sự, những tác phẩm mang trong mình lý tưởng thẩm mỹ. Các tác phẩm nghệ thuật hiện nay còn chạy theo số đông, chạy theo vòng xoáy của nền kinh tế thị trường, chính vì thế chưa có nhiều tác phẩm tồn tại được lâu dài trong lòng công chúng cũng như chưa tạo được cho khán giả những cái nhìn mới về hiện thực cuộc sống, về tương lai và những định hướng ý nghĩa. Có thể thấy, hiện nay nhiều hoạt động sáng tạo nghệ thuật còn chưa đúng theo ý nghĩa mà nó cần có. Chính vì thế, cần có những đánh giá khách quan, những giải pháp cơ bản để có thể đưa nghệ thuật nước nhà đến gần với lý tưởng thẩm mỹ. Nhận thấy tầm quan trọng đó, luận văn hướng đến giải quyết vấn đề “Lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Lý tưởng thẩm mỹ nói chung và vai trò của lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói riêng đã được nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam từ khá lâu. A.Belich trong cuốn Mỹ học và thời đại ngày nay, Nxb Chính trị, Matxcova, 1967, chương I: “Thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ” có đề cập đến nội dung lý tưởng thẩm mỹ. Trong bài này tác giả xem xét nội dung của lý tưởng thẩm mỹ trong việc vạch rõ mối quan hệ của nó với lý tưởng xã hội nói chung, làm rõ nguồn gốc của nó. Theo ông, “lý tưởng thẩm mỹ là tài sản của xã hội hiện tại, là một trong những mặt của bộ mặt tinh thần của xã hội” [2, tr.16], “lý tưởng thẩm mỹ không tồn tại như một cái gì đó cụ thể”. Như vậy, tác giả khẳng định lý tưởng thẩm mỹ là lý tưởng thuộc về xã hội, không chỉ là lý tưởng của từng cá nhân riêng lẻ. Tuy nhiên đôi khi tùy vào từng xã hội mà tồn tại nhiều lý tưởng thẩm mỹ song song, vậy đâu là lý tưởng thẩm mỹ cao nhất, có ý nghĩa nhất? Theo A.Belich “lý tưởng cộng sản chủ 5 nghĩa là sự thể hiện cao nhất của cái đẹp, lý tưởng đó thu hút vào trong mình tất cả cái đẹp tụ lại. Cái đẹp của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa không phải cái đẹp ảo tưởng của một sự hoàn thiện huyền thoại nào đó hay là của con người nói chung, mà là cái đẹp của các mặt quyết định (kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo đức của đời sống xã hội của người ta, của chủ nghĩa nhân đạo” [2, tr.19]. Như vậy, đối với Belich, lý tưởng cộng sản được coi là lý tưởng cao nhất, lý tưởng chung nhất và có ý nghĩa lớn. Lý tưởng thẩm mỹ được M.F.Ốpxiannhicốp đề cập đến trong cuốn Mỹ học cơ bản và nâng cao, Nxb Văn hóa Thông tin, 2001. Ông cho rằng, lý tưởng thẩm mỹ là một bộ phận hợp thành khăng khít trong lý tưởng của một nhóm xã hội, một giai cấp, một xã hội nhất định [42, tr.163]. Đặc trưng của lý tưởng thẩm mỹ, khác biệt của nó so với các lý tưởng khác chính là đối tượng và phương thức phản ánh thực tại đang không ngừng phát triển [42, tr.168]. Lý tưởng thẩm mỹ là mức độ tổng hợp và khái quát hóa cao nhất, nhưng vẫn là khái quát thẩm mỹ, chứ không biến thành khái niệm khoa học trừu tượng và vẫn giữ được tính trực quan, cụ thể cảm tính. Đồng thời, lý tưởng thẩm mỹ, khi đã hình thành, lại trở thành tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá về mặt tình cảm thẩm mỹ tất cả mọi ấn tượng thẩm mỹ sau này, thành “khuôn vàng thước ngọc” qua đó người nghệ sĩ (cũng như người xem, người đọc, người nghe) xem xét và đánh giá thực tại mà anh ta phản ánh [42, tr.178]. Ở Việt Nam, đầu tiên phải kể đến các công trình mỹ học của GS,TS.Đỗ Huy . Ngoài việc chủ biên và đồng chủ biên một số công trình, tác giả Đỗ Huy đã có nhiều ấn phẩm mỹ học có giá trị. Đó là: Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Mỹ học khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Đạo đức học, mỹ học và đời sống văn học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, v.v.. Nghiên cứu lý tưởng thẩm mỹ được tác giả đề cập đến trong cuốn Giáo dục 6 thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Tác giả khẳng định “con người cần và phải có lý tưởng” [15, tr.132], lý tưởng là yếu tố không thể không có trong mỗi người, “lý tưởng thẩm mỹ Mác - Lênin phản ánh các hoài bão, các chiều hướng, các nội dung cơ bản của những giá trị thẩm mỹ trong cuộc sống và nghệ thuật. Nó là ngọn đèn soi tỏ cho mỗi người xây dựng ước mơ đúng đắn và giúp nghệ sĩ sáng tạo ra những tác phẩm mà nội dung của chúng biểu hiện chủ nghĩa lãng mạn cách mạng hợp quy luật” [15, tr.134]. Như vậy, GS. Đỗ Huy đưa ra cách hiểu về lý tưởng thẩm mỹ Mác - Lênin, chủ nghĩa Mác Lênin hướng con người theo lý tưởng cách mạng, lý tưởng cách mạng là lý tưởng cơ bản nhất, ý nghĩa nhất. Đồng thời trong cuốn sách này cũng đề cập đến việc “giáo dục lý tưởng thẩm mỹ chính là nhằm xây dựng các khả năng sáng tạo phù hợp với quy luật về sự phát triển của con người mới và một xã hội mới” [15, tr.151]. Ở đây tác giả đề cao việc giáo dục thẩm mỹ cho con người bởi đây là cách để mỗi người hướng đến các giá trị nghệ thuật trong cuộc sống. Muốn vậy con người phải đi sâu vào cuộc sống để từ hiện thực cuộc sống đó đưa ra hình mẫu con người lý tưởng để tất cả đều có định hướng phấn đấu cụ thể. Cuốn Mấy vấn đề của mỹ học hiện nay do GS. Đỗ Huy chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988 chỉ ra một trong những vấn đề cơ bản của mỹ học hiện nay là xây dựng các tình cảm thẩm mỹ mới cho nhân dân lao động. Có thể nói, mỹ học góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng con người mới. Vấn đề xây dựng các tình cảm thẩm mỹ hay xây dựng con người mới đều cần bắt đầu từ xây dựng lý tưởng thẩm mỹ, “khi định hướng các tình cảm thẩm mỹ mới cho nhân dân lao động, ánh sáng xuyên suốt các quá trình thẩm mỹ, các quan hệ thẩm mỹ của xã hội mới - đó là lý tưởng thẩm mỹ. Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ trở thành vấn đề trung tâm của mỹ học hiện nay” [16, tr.37]. 7 Cuốn Mỹ học khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000 cũng có đề cập đến các vấn đề lý tưởng thẩm mỹ và nghệ thuật. Tác giả Đỗ Huy đã chỉ ra định nghĩa nghệ thuật theo quan điểm Mác - Lênin: “nghệ thuật là một hình thái ý thức, ra đời từ lao động và chiến đấu, từ các nhu cầu miêu tả, tín ngưỡng đánh giá và rút ra nhưng bài học về cuộc sống. Vì thế, nghệ thuật có một vai trò và ý nghĩa xã hội rất sâu sắc và rộng lớn” [18, tr.326]. Con người trở thành trung tâm của nghệ thuật, nghệ thuật là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người. Con người nhờ nghệ thuật có thể làm chủ các tình cảm của mình, xâm nhập vào các quy luật khách quan một cách tự do. Hình tượng nghệ thuật chủ yếu được thể hiện qua ba tư cách: tư cách phương tiện phản ánh, tư cách sản phẩm của sáng tạo và tư cách đối tượng thưởng thức thẩm mỹ. Nghệ thuật góp phần quan trọng vào việc truyền tải hiện thực đồng thời hướng con người đến những yếu tố tốt đẹp trong tương lai tươi sáng, hướng con người tới đấu tranh vì tương lai đó. Ngoài ra, ở Việt Nam cuốn Mỹ học Mác - Lênin của Vĩnh Quang Lê, đã trình bày những vấn đề tóm tắt nhất về lý luận mỹ học và quá trình sáng tạo nghệ thuật. Đặc biệt, cuốn sách diễn giải các vấn đề liên quan đến sáng tạo của nghệ sĩ và những tư liệu nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới. Ở đây, tác giả đã đưa ra định nghĩa về lý tưởng thẩm mỹ: “lý tưởng thẩm mỹ là lý tưởng về cái đẹp mà chủ thể thẩm mỹ và con người thẩm mỹ hướng tới” [30, tr.36]. Không chỉ vậy, tác giả còn nêu ra đặc điểm riêng của lý tưởng thẩm mỹ: gắn liền với xã hội tiên tiến, vai trò của lý tưởng thẩm mỹ là đánh giá và sáng tạo ra các giá trị thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ là mục tiêu mà con người hướng đến, lý tưởng thẩm mỹ có tính tổng hợp, tính toàn diện, nó gắn với suy nghĩ tự do độc đáo của chủ thể, lý tưởng thẩm mỹ Mác -Lênin có vai trò sáng tạo ra cái đẹp của mỗi nghệ sĩ đồng thời làm cho nghệ thuật ngày càng phát triển hoàn thiện. 8 Bên cạnh các sách được xuất bản, cũng có rất nhiều bài viết trên tạp chí, báo điện tử đề cập đến vấn đề lý tưởng thẩm mỹ: Trên trang Blog của mình, tác giả Đào Duy Thanh đưa ra những khái niệm cơ bản về lý tưởng thẩm mỹ. Theo ông, “lý tưởng thẩm mỹ biểu hiện tập trung cao nhất của nhu cầu thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ; hay nói một cách khác lý tưởng thẩm mỹ là giai đoạn cao nhất của nhận thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ. Mọi xúc cảm, biểu tượng, phán đoán, đánh giá, cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ đều do lý tưởng thẩm mỹ chi phối và tập trung ở lý tưởng thẩm mỹ” [69]. Như vậy, có thể thấy ở đây Đào Duy Thanh coi lý tưởng thẩm mỹ là yếu tố cao nhất của ý thức thẩm mỹ, mọi hoạt đô ṇ g thẩm mỹ đều hướng đến yếu tố này. Đây được coi như một điểm đích để chúng ta hướng đến. Lý tưởng thẩm mỹ nói lên sự hoàn thiện của sự vật, hiện tượng trong cuộc sống con người. Tác giả có lý khi coi lý tưởng thẩm mỹ có thể chi phối mọi vấn đề về xúc cảm, biểu tượng… bởi lý tưởng là cái đi trước, được định hình trước trong mỗi người và con người có khát vọng hướng đến những điều tốt đẹp mà họ mong muốn. Trong bài viết này, bên cạnh viêc chỉ ra quan điểm về lý tưởng thẩm mỹ, tác giả còn tập trung phân tích lý tưởng thẩm mỹ của các giai đoạn nghệ thuật. Việc nghiên cứu này chưa làm rõ được một cách toàn diện về lý tưởng thẩm mỹ mà mới dừng lại ở việc chỉ ra các biểu hiện của lý tưởng thẩm mỹ trong nghệ thuật. Trên trang thông tin điện tử của “Tạp chí Cộng sản” ngày 29/04/2012 có bài viết “Giáo dục về lý tưởng để thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI” của Trần Trọng Tân, Nguyên UVTW Đảng, Trưởng ban TTVH Trung ương. Bài viết đặt vấn đề bằng dẫn chứng hiện nay có một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên giữ vị trí lãnh đạo suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Điều đó được biểu hiện cụ thể qua sự phai nhạt lý tưởng, chính vì vậy giáo dục lý tưởng là điều cần phải làm. Trong bài viết, tác 9 giả chỉ ra: “Lý tưởng Cộng sản Chủ nghĩa được hiểu một cách tóm lược có 3 mặt, đó là lý tưởng xã hội, lý tưởng đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ” [70]. Như vậy, lý tưởng thẩm mỹ được coi là một bộ phận quan trọng trong lý tưởng Cộng sản, nó kết hợp và tạo thành bộ ba lý tưởng vững chắc cho lý tưởng cộng sản. Tác giả cũng đi đến định nghĩa về lý tưởng thẩm mỹ: “lý tưởng thẩm mỹ của chủ nghĩa cộng sản là một giai đoạn cao nhất và mới về chất trong sự phát triển thẩm mỹ của loài người. Cơ sở của lý tưởng thẩm mỹ ấy là sự phát triển toàn diện và hoàn chỉnh của sức sáng tạo của mỗi người, kết hợp trong mình một cách hài hòa sự phong phú về tinh thần, sự trong sạch về đạo đức và hoàn thiện về thể chất. Trong nghệ thuật lý tưởng thẩm mỹ biểu hiện tập trung nhất ở hình tượng nghệ thuật được sáng tạo trong mọi hoạt động của con người, được dùng làm tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp trong đời sống và trong nghệ thuật…” [70]. Như vậy có thể thấy lý tưởng thẩm mỹ trong nghệ thuật cũng được nêu và nhận định rõ ràng trong quan hệ với lý tưởng cộng sản. Người làm nghệ thuật cần nắm được yếu tố lý tưởng thẩm mỹ để có thể cho ra đời một tác phẩm có ích, mang giá trị cao. Hình tượng nghệ thuật trong một tác phẩm có ý nghĩa phải là hình tượng được sáng tạo trong hoạt động của con người, được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá cái đẹp trong đời sống cũng như trong nghệ thuật. Nghiên cứu về lý tưởng thẩm mỹ ở nước ta trong mấy năm gần đây không thể không kể đến các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: Luận án tiến sĩ triết học “Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển năng lực sáng tạo của con người”, Nguyễn Ngọc Thu, Viện Triết học đã cho thấy vai trò của thẩm mỹ đối với sự phát triển năng lực sáng tạo của con người. Tác giả đi đến làm rõ năng lực sáng tạo của con người là gì từ đó đưa ra những nội dung để giải quyết vấn đề cơ bản mà luận án đề cập đến. 10 Luận văn Hoạt động giáo dục nghệ thuật của các đơn vị nghệ thuật biểu diễn quốc gia trên địa bàn Hà Nội của tác giả Phạm Bích Huyền đã đề cập đến vấn đề giáo dục nghệ thuật. Đây là một vấn đề quan trọng bởi nếu giáo dục nghệ thuật không đúng hướng sẽ tạo ta một nghệ thuật lệch lạc, sai trái. Luận án triết học Vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần con người của tác giả Đào Duy Thanh được thực hiện tại Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2000, đã từ góc độ triết học, mỹ học để lý giải và làm rõ vai trò của nghệ thuật trong một số lĩnh vực cơ bản nhất. Từ luận án này, ta có thể thấy được nghệ thuật có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người, chính vì thế có những cách tiếp cận phù hợp. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã tiếp cận lý tưởng thẩm mỹ từ các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề “Lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay” chưa được đề cập đến. Vì thế, tác giả mong muốn có một sự đóng góp nhất định vào việc phản ánh, phân tích, làm rõ nội dung ý nghĩa của lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng cùng một số nhân tố tác động đến lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần định hướng lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn giải quyết những nhiệm vụ chính sau: + Trình bày quan điểm của một số nhà mỹ học tiêu biểu trong lịch sử mỹ học về lý tưởng thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo nghệ thuật; 11 + Trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản về lý tưởng thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo nghệ thuật: khái niệm, bản chất, nội dung; + Phân tích thực trạng lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay; Chỉ ra một số nhân tố tác động đến lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay. Tập trung làm rõ trong loại hình nghệ thuật: văn chương, âm nhạc và điện ảnh. + Đề xuất một số giải pháp góp phần định hướng lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Phạm vi luận văn nghiên cứu vấn đề lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, tập trung vào lĩnh vực âm nhạc, văn chương và điê ̣n ảnh. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý tưởng, lý tưởng thẩm mỹ và văn hóa nghệ thuật. Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên phương pháp luận biện chứng duy vật, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, logic - lịch sử, khái quát, đối chiếu, so sánh… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu nội dung, vai trò của lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy mỹ học, nghệ thuật học tại các trường Đại học, các trường chuyên nghiệp. 12 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 2 chương và 6 tiết. 13 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LÝ TƢỞNG THẨM MỸ VÀ HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT 1.1. Lý tƣởng thẩm mỹ 1.1.1. Một số quan điểm về lý tưởng thẩm mỹ trong lịch sử mỹ học Mỹ học là khoa học nghiên cứu đời sống thẩm mỹ của con người, của xã hội loài người. Ngay từ thời xã hội nô lệ cổ đại đã có những mầm mống của việc nghiên cứu mỹ học. Những nhà tư tưởng cổ đại nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm thẩ m mỹ thực tiễn tạo ra những cơ sở đầ u tiên trong liñ h vực này. Ngay trong chính cuộc sống sinh hoạt của xã hội loài người cũng xuất hiện vấn đề mỹ học, nó phản ánh tính chủ quan của con người vào sự vật hiện tượng hay còn gọi là mỹ cảm thẩm mỹ. Từ đó dần dần phát triển lên thành ý thức thẩm mỹ, nghệ thuật… Mỹ học là khoa học nghiên cứu các quan hệ thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ của con người, nhằm khám phá, phát hiện ra những giá trị thẩm mỹ trên cơ sở quy luật của cái đẹp, trong đó có nghệ thuật là giá trị cao nhất. Mỹ học nghiên cứu ý thức thẩm mỹ của con người, những cấp độ hoạt động của ý thức thẩm mỹ của con người với tư cách là chủ thể thẩm mỹ bao gồm: đặc điểm của ý thức thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ. Mỹ học nghiên cứu các phạm trù mỹ học như những công cụ tư duy nhằm nhận thức, đánh giá các hiện tượng thẩm mỹ trong đời sống và trong nghệ thuật. Như vậy, mỹ học là khoa học gắn với đời sống hiện thực của con người. Nhiệm vụ của mỹ học không chỉ khái quát cho con người biết đâu là cái đẹp, cái đẹp là gì mà còn đưa ra một hình mẫu, một định hướng hay nói cách khác là hướng chúng ta đến một lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp. Chính lý 14 tưởng thẩm mỹ đó đã góp phần quan trọng vào việc định hướng thẩ m mỹ cho đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nghiên cứu mỹ học không phải hoạt động mới mẻ mà đã có cả một lịch sử lâu dài từ thời Hy Lạp cổ đại đến nay. Ngay cả vấn đề về lý tưởng thẩm mỹ cũng được những nhà triết học cổ đại Hy Lạp nghiên cứu từ khá sớm. Ngay từ thời cổ đại, các triết gia nổi tiếng Hy Lạp đã bắt đầu hình thành những tư tưởng có giá trị về lý tưởng. Người đầu tiên có những tư tưởng về vấn đề này là Platôn (427 - 347 TCN). Ông là nhà triết học và mỹ học duy tâm Hy Lạp cổ đại, là học trò của Xôcrát. Platôn cũng là một trong những nhà triết học có tư tưởng đối địch sâu sắc nhất đối với Đêmôcrít và chủ nghĩa duy vật. Lênin đánh giá ông là một trong số các nhà triết học quan trọng đã tạo ra hẳn một đường hướng xuyên suốt trong lịch sử triết học. Triết học của ông là triết học duy tâm, đường hướng triết học duy tâm điển hình này tương phản với đường hướng triết học duy vật điển hình của Đêmôcrít. Platôn được biết đến không chỉ với vai trò của một nhà triết học, một nhà chính trị mà còn là một nhà mỹ học với những tư tưởng tiến bộ và có ý nghĩa. Ông có nhiều tác phẩm, trong các tác phẩm đều ít nhiều đề cập đến mỹ học và nghệ thuật nhưng lại mang đậm mầu sắc của siêu hình học. Các tác phẩm mỹ học chủ yếu của ông như: Hippiat Anh, Bữa tiệc, Timê, Ion, Đối thoại, Nhà nước lý tưởng,.. Do ảnh hưởng của chế độ xã hội lúc bấy giờ Platôn đã đưa nhà triết học lên vị trí hàng đầu, còn những người dân lao động không được ông đề cao, họ nằm ở hàng cuối cùng trong bậc thang xã hội. Điều này do hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ quy định, chưa có sự thay đổi nào mang tính tổng thể. Chính bởi thế, khi những nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, xót thương cảnh ngộ của nhân dân mà đưa ra những bức tranh lột tả hiện thực xã hội đều bị ông kịch liệt phản đối và đòi đưa họ ra khỏi nhà nước lý tưởng của ông. Lý tưởng thẩm mỹ 15 về con người đẹp mà Platon xây dựng đó là hình ảnh một thầy tu uyên bác phát ngôn cho lý trí của thần thánh. Lúc đó yếu tố thần quyền được đề cao hơn nhiều các yếu tố hiện thực xã hội. Cũng do ảnh hưởng của chế độ xã hội lúc bấy giờ mà mặc dù Platon coi thường nghệ thuật phản ánh cuộc sống, “nghệ sĩ không có tri thức thật trước sự vật được miêu tả, sáng tạo nghệ thuật chủ yếu dựa vào linh cảm”[22, tr.93]. Platon một mặt cho rằng nghệ thuật có hại với tôn giáo do nó đả kích thần, khêu gợi tình dục, một mặt ông phản đối tính dân chủ trong nghệ thuật Hy Lạp cổ đại. Trong nhà nước này, nghệ thuật phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ, nhà nước chỉ cho phép một số loại hình nghệ thuật tồn tại, đó là những loại hình góp phần tạo ra tính dũng cảm và chân thực của người công dân biết phục tùng. Với quan điểm bảo thủ, Platon đòi gạt tất cả các nhà thơ ra khỏi nhà nước lý tưởng của ông vì thơ ca có hại cho sự nghiệp giáo dục của ông. Sự ra đời của các quan niệm về lý tưởng thẩm mỹ ở giai đoạn Hy Lạp cổ đại đã đă ̣t nề n móng cho sự phát triể n của c ác quan niệm về lý tưởng thẩm mỹ ở các giai đoạn sau. Đến giai đoạn cổ điển Đức, mỹ học đã có sự phát triển hơn với đại diện là I. Kant, Hegel… I. Kant (1724 - 1804) là nhà triết học Đức có nhiều đóng góp lớn trong nền triết học nhân loại. Ông đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp triết học. Ba tác phẩm thể hiện toàn bộ hệ thống triết học của Kant là Phê phán lý tính thuần túy (1781), Phê phán lý tính thực tiễn (1788) và Phê phán năng lực phán đoán (1790). Trong ba tác phẩm đó Phê phán năng lực phán đoán là tác phẩm thể hiện những quan điểm của Kant về mỹ học. Đây cũng được đánh giá là tác phẩm hoàn thiện về hệ thống triết học Kant, là “viên đá đỉnh vòm” của toà nhà triết học Kant. Là một nhà mỹ học duy tâm chủ quan, Kant cho rằng, lý tưởng thẩm mỹ chỉ có ở cá nhân: “mẫu điể n hiǹ h cao nhấ t , cái hình mẫu nguyên thủy của 16 sở thić h là mô ̣t Ý niê ̣m đơn thuầ n mà mỗi người phải ta ̣o ra trong chiń h miǹ h và dựa theo đó mà phải hình thành phán đoán của mình về tất cả nhữ ng gì dù đó là đố i tươ ̣ng của sở thích, mô ̣t điể n hình của sự phê phán về sở thích hay cả bản thân sở thích phổ biến của mọi người… Lý tưởng là biể u tươ ̣ng về mô ̣t cá thể như là hữu thể tương ứng tro ̣n ve ̣n với mô ̣t Ý niê ̣m… Lý tưởng của cái đe ̣p, mô ̣t lý tưởng dù ta không sở hữu đươ ̣c song ta luôn nỗ lực để ta ̣o nó trong ta” [25, tr.109-110]. Kant khẳng định, lý tưởng thẩm mỹ không tồn tại như một lý tưởng chung của xã hội mà mỗi người sẽ có một lý tưởng riêng mà theo họ là đúng. Lý tưởng thẩm mỹ mang tính cộng đồng, dân tộc đối với Kant là không hề có. Lý tưởng thẩm mỹ cá nhân được Kant chú trọng và quan tâm. Điều đó xuất phát từ nền tảng “vật tự nó” của ông. Khái niệm “vật tự nó” của Kant về phương diện nhận thức là bản chất của sự vật khách quan. Nó tồn tại không phụ thuộc vào những hình thức nhận thức logic của con người. Con người không bao giờ nhận thức được “vật tự nó”. Như vậy, lý tưởng thẩm mỹ là cái con người chỉ dám đưa ra những phán đoán, những suy luận về nó chứ không có một “khoa học” hay nói cách khác là không đưa ra tính chính xác tuyệt đối về nó. Quá trình con người đưa ra những lý tưởng thẩm mỹ là quá trình nhận thức về “vật tự nó”. Tiếp theo sự phát triển của mỹ học Kant, Hegel cũng có những tư tưởng xuất sắc về lý tưởng thẩm mỹ. Hegel (1770 - 1831) là nhà triết học cổ điển Đức nổi tiếng, mỹ học của ông là đỉnh cao của mỹ học duy tâm cổ điển Đức và là đỉnh cao của mỹ học duy tâm trước Mác. Hegel đã có nhưng tư tưởng về xã hội mang ý nghĩa rộng hơn, đã chú ý hơn đến mặt xã hội, lịch sử của lý tưởng thẩm mỹ, tuy nhiên ông lại tuyệt đối hóa vai trò của lý tưởng thẩm mỹ. Ông đi tìm lý tưởng thẩm mỹ ở “ý niệm tuyệt đối”, theo ông, lý tưởng thẩm mỹ chính là sự hoàn thiện hoàn mỹ của 17 tinh thần trong triết học chứ không phải tính đến mối tương quan xã hội. Tư tưởng mỹ học của ông vừa mang yếu tố duy tâm vừa mang yếu tố biện chứng. Ông thấy được sự thống nhất giữa lý trí và tình cảm, nội dung và hình thức. Phạm trù lý tưởng của Hegel là cái hoàn thiện, cái đáng mong muốn thể hiện khát vọng vươn tới chân lý của con người. Lý tưởng như vậy luôn mang hình thức cái đẹp đặc thù, mặc dù nó đã là sự khái quát có tính vượt trước. Hegel không xét lý tưởng như một phạm trù độc lập mà xét lý tưởng trong quan hệ với cái đẹp hoàn mỹ của nghệ thuật. Có thể thấy rằng ông chú ý đến nghệ thuật lý tưởng. Tsernysevski (1828 - 1889) là nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga. Thời đại của ông là thời đại phát triển cao của lý luận nghệ thuật duy vật trước Mác. Nhiều quan niệm của các nhà dân chủ cách mạng Nga về đối tượng, chức năng của nghệ thuật đã có sự tiếp cận với mỹ học mácxít. Mỹ học Tsecnysevski đã đặt nền tảng cho quan niệm duy vật về nghệ thuật, ông tìm cái đẹp trong thực tại, trong cuộc sống, nghệ thuật chỉ là phương tiện nhận thức cuộc sống ấy. Lý tưởng thẩm mỹ của ông cũng không là gì khác mà chính là cuộc sống đẹp. Những quan niệm trên về lý tưởng thẩm mỹ của các nhà triết học trước Mác tuy còn sơ khai và chưa được hoàn toàn đầy đủ, chính xác, nhưng cũng đã trở thành tiền đề lý luận cho tư tưởng mỹ học Mác - Lênin ra đời. Với tư duy biện chứng đồng thời có sự tiếp thu các thành tựu triết học, mỹ học thời kỳ trước, Mác và Ăngghen đã tạo ra một hệ thống mỹ học mới. Những quan điểm mỹ học của các ông có sự gắn bó mật thiết với triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học do hai ông khởi xướng. Mác và Ăngghen không có tác phẩm nào bàn riêng về mỹ học, tuy nhiên khi nghiên cứu các tác phẩm của các công , ta có thể tìm thấy rất nhiều tư tưởng mỹ học sâu sắ c. Nội dung mỹ học của Mác và Ăngghen được trình 18 bày trong nhiều tác phẩm như Hệ tư tưởng Đức, Tư bản, Chống Đuy-rinh… Mỹ học khi được gắn với triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học thì mang mầu sắc hoàn toàn khác, không còn như mỹ học duy tâm hay mỹ học duy vật trước Mác nữa. Các ông đã bỏ bức màn của những gì thần thánh, u tối khỏi mỹ học, thay vào đó là bức tranh lao động thực tiễn, làm cho mỹ học trở nên gần gũi và dễ hiểu hơn. Lý tưởng thẩm mỹ theo quan điểm Mác - Lênin là bộ phận của lý tưởng xã hội, được hình thành theo qui luật xã hội. Nó cũng bao gồm nhu cầu, động cơ, hứng thú, hiệu quả và thế giới quan tiên tiến. Lý tưởng thẩm mỹ khác với lý tưởng xã hội ở chỗ nó là cái toàn vẹn - cụ thể - cảm tính, là một hình tượng hoặc một hệ thống hình tượng sinh động, hấp dẫn, có khả năng tạo ra khoái cảm thẩm mỹ. Hình tượng trung tâm của mọi hình tượng chính là mẫu người lý tưởng. Nhu cầu lý tưởng thẩm mỹ là khát vọng hoàn thiện, hoàn mĩ, sống đẹp. Động cơ mang tính cá thể, chủ quan, sinh động. Thế giới quan của lý tưởng thẩm mỹ theo chủ nghĩa Mác - Lênin là hình ảnh thế giới mẫu mực, hấp dẫn, tấm gương sáng. Như vậy, có thể nói, lý tưởng thẩm mỹ theo chủ nghĩa Mác - Lênin là tổng thể phương hướng cơ bản của đời sống được đúc kết lại thành hình ảnh mẫu mực, cảm quan của sự hoàn thiện hoàn mỹ của con người và xã hội, là cuộc sống trên đà phát triển, là khát vọng và hành động nhằm hoàn thiện vô tận cuộc sống bằng cách giải quyết những nhu cầu, mâu thuẫn thực tại để giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc cho mọi người trên cơ sở chủ nghĩa nhân văn hiện đại. 1.1.2. Khái niệm và đặc trưng của lý tưởng thẩm mỹ Theo Từ điển tiếng Việt có định nghĩa “Lý tưởng là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà người ta phấn đấu để đạt tới” [43, tr.590] hay cũng có thể 19 hiểu là “lý tưởng là sự hoàn hảo, tốt đẹp nhất như trong trí tưởng tượng hoặc trên lý thuyết” [43, tr.590]. Từ điển tiếng Việt trên mạng thông tin giáo dục tlnet.com.vn đinh ̣ nghĩa: “Lý tưởng là điều thỏa mãn tới mức tuyệt đối một ước vọng cao đẹp” [67]. Từ điển triết học của tác giả Cung Kim Tiến biên soạn đưa ra định nghĩa đầy đủ hơn về lý tưởng. Lý tưởng theo nghĩa tiếng Anh là “Ideal” “Là hình mẫu, sự hoàn thiện, mục tiêu tối cao của ý nguyện và hoạt động thực tiễn, mô hình tuyệt vời trong thực tế đối với một cá nhân, một nhóm người hay một xã hội” [53, tr.686]. Ở đây, Từ điển cũng chỉ rõ rằng, “Trong xã hội hiện tại có nhiều hình thức lý tưởng: lý tưởng xã hội, chính trị, kinh tế, nhận thức, tinh thần… Lý tưởng mang tính lịch sử về bản chất, nó có thể tiến bộ hay phản động tùy thuộc vào hình thái của các mối quan hệ xã hội. Lý tưởng là một hình thức tư tưởng do một giai cấp hay xã hội đặt ra, tạo thành một thành phần quan trọng trong thế giới quan của cá nhân, nó giữ một vai trò quan trọng trong điều chỉnh các hành động, đạo đức của cá nhân hay xã hội hữu quan, đặc biệt là phương pháp mà cá nhân hay nhiều người chọn lựa để thực hiện mục đích của mình” [53, tr.686]. Cụm từ “lý tưởng” là cụm từ thiên về tính chất xã hội của con người, gồm lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức, lý tưởng thẩm mỹ,… gọi chung là lý tưởng. Nó xuất hiện trong ngôn ngữ cổ Hy Lạp với nghĩa đầu tiên là hình tượng một sự hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người muốn đạt được. Như nhà văn M. Gorki viết: “Khi tự nhiên tước mất của con người cái khả năng đi bốn chân thì đồng thời nó cấp cho con người cây gậy chống đó là lý tưởng” [11, tr.428], nếu con vật cần bốn chân để di chuyển, để thực hiện những mục đích của nó thì con người tiến hóa hoàn thiện cần đến lý tưởng để thực hiện công việc có mục đích của mình. Hay nói cách khác, lý tưởng là một trong những 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan