Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luanvan thạc sỹ xây dựng đảng; chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của cá...

Tài liệu Luanvan thạc sỹ xây dựng đảng; chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh bắc giang giai đoạn hiện nay)

.DOC
134
452
116

Mô tả:

Luanvan thạc sỹ xây dựng đảng; chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh bắc giang giai đoạn hiện nay)
1 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác tư tưởng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Công việc thành hay bại một phần lớn là do nơi tư tưởng đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của cán bộ đảng viên, do đó toàn Đảng phải tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, đoàn kết nhất trí thì mới làm tròn nhiệm vụ của Đảng. Trong các bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng, Đảng ta luôn nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, cổ động, coi đây là bộ phận trọng yếu trong hoạt động của mình và quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt các hoạt động tuyên truyền cổ động, tạo không khí sôi động khích lệ, cổ vũ động viên tâm lý tích cực; tạo động lực tinh thần to lớn để lôi cuốn đảng viên và quần chúng nhân dân, tổ chức các hoạt động cách mạng, các phong trào thi đua yêu nước, dẫn dắt tư tưởng đúng và hành động đúng theo một mục tiêu chung được đặt ra cho mỗi nhiệm vụ, mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng. Hiện nay, công tác tư tưởng nói chung và hoạt động tuyên truyền, cổ động nói riêng của Đảng ta có nhiều thuận lợi, nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức không nhỏ, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp và thay đổi khó lường. Cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng vô sản và hệ tư tưởng tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng ngày càng trở nên phức tạp hơn. Những hoạt động phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá đã tác động tiêu cực đến niềm tin, ý chí cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây là bối cảnh đặt ra yêu cầu cần phải tăng cường công tác tư tưởng nói chung và công tác tuyên truyền, cổ động nói riêng; phải không ngừng nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động nhằm phát huy tính tích cực chính trị của cán bộ, đảng viên, quần chúng vừa 2 để chủ động đập tan các âm mưu phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch, không ngừng giữ vững và tăng cường trận địa tư tưởng của Đảng. Ngày nay, khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão; đặc biệt công nghệ thông tin bùng nổ và phát triển nhanh chóng ở nước ta. Mặt khác, đất nước ta mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực. Rất nhiều loại hình thông tin mới hiện đại đã xuất hiện, đáp ứng ngày càng kịp thời và đầy đủ nhu cầu thông tin đa dạng phong phú của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tuy nhiên, với vai trò, sức mạnh ưu thế riêng có của mình, công tác tuyên truyền, cổ động vẫn là hình thức cơ bản không thể thay thế, không thể xem nhẹ. CTTT,CĐ cũng phải không ngừng được đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh và đáp ứng nhu cầu cán bộ, đảng viên và nhân dân để giữ vững được vai trò định hướng dư luận xã hội, định hướng được tư tưởng, cổ vũ động viên hành động của nhân dân, nhất là ở cơ sở miền núi. Đồng thời cần nâng cao chất lượng tuyên truyền, cổ động đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Bắc Giang là tỉnh miền núi, được tái lập từ ngày 01/01/1997, với diện tích 3.882,6 km2, dân số 1.555.720 người (theo số liệu điều tra dân số và nhà ở thời điểm 01/4/2009 ), gồm 9 huyện (Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế, Lạng Giang, Tân Yên, Hiệp Hòa, Việt Yên, Yên Dũng) và thành phố Bắc giang, với 230 xã, phường, thị trấn. Nằm ở phía Đông Bắc Bộ, phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây và Tây Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh và Thành phố Hà Nội, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh. Mặc dù tình hình chính trị - an ninh, trật tự, xã hội tương đối ổn định, kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, song nhìn chung nền kinh tế của tỉnh vẫn chủ yếu là nông, lâm nghiệp. Nguồn thu ngân sách hạn hẹp, GDP bình quân đầu người còn thấp hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước. Nhiệm vụ 3 phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với các cấp, các ngành và các địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, khu vực miền núi... Đồng thời, đòi hỏi phải được phát huy cao độ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể nhân dân các cấp, đặc biệt là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ nói chung, trước hết là đội ngũ cán bộ tuyên giáo, báo cáo viên, tuyên truyền viên ở cơ sở, bởi lẽ đây là lực lượng sẽ đưa chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đến được với các tầng lớp nhân dân trong tỉnh - lực lượng chủ yếu phổ biến, tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa bàn các xã trong tỉnh. Với đặc điểm nổi bật này đặt ra yêu cầu bức thiết và thường xuyên phải tuyên truyền, cổ vũ, khích lệ động viên, tạo tâm lý tích cực và động cơ quyết tâm nỗ lực cố gắng cao nhất của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thúc đẩy mạnh mẽ, nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhanh chóng vươn lên thu hẹp dần khoảng chênh lệch về trình độ phát triển chung cả nước. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương và những yêu cầu có tính cấp thiết đang đặt ra cho công tác tư tưởng nói chung, công tác tuyên truyền cổ động nói riêng, tác giả đã lựa chọn đề tài "Chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang giai đoạn hiện nay" để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp khoá học thạc sỹ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian qua đã có nhiều đề tài, bài viết nghiên cứu về công tác tư tưởng, tuyên truyền nói chung trong đó có đề cập đến công tác tuyên truyền, cổ động của Đảng với quy mô, góc độ, khía cạnh, phạm vi, thời gian khác nhau. Có công trình nghiên cứu vấn đề này trong các nội dung khác 4 nhau của công tác tư tưởng, cũng có những công trình chuyên sâu, chuyên khảo như: - Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Tăng cường lãnh đạo, tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong thời kỳ mới (Kỷ yếu Hội nghị báo cáo viên xuất sắc toàn quốc lần thứ nhất), Hà Nội, 8 - 2001. - Hội đồng Chỉ đạo biên soạn giáo trình chuyên ngành công tác tư tưởng (Thông tin cổ động), Hà Nội, 2002. - Hoàng Quốc Bảo, Phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh - Những đặc trưng và sự vận dụng để đổi mới phương pháp tuyên truyền của cán bộ tư tưởng cấp tỉnh và huyện của Đảng hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội - 2004. - Hoàng Quốc Bảo, Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, HN - 2006. - Vũ Văn Vở, "Chất lượng công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ huyện ở tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay". Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Hà Nội, năm 2009. - Nguyễn Khoa Điềm: Một số biện pháp để tăng cường công tác tư tưởng. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 10/2005, tr.3. - Nguyễn Khoa Điềm: Tuyên truyền nhân tố mới, điển hình tiên tiến, góp phần hình thành phong trào thi đua theo phong cách mới, tiêu chuẩn mới. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 12/2004, tr.3. - Lương Đông Hải: Mấy yếu tố bảo đảm chất lượng báo cáo miệng. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 11/1996, tr.35. - Lập luận trong tuyên truyền miệng. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 9/1996, tr.34. - Nâng cao chất lượng tuyên truyền gương tốt, điển hình tiên tiến, nhân tố mới trên báo chí. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 12/2004, tr.41. 5 - Nguyễn Đình Then: Hải Phòng tăng cường lãnh đao đội ngũ báo cáo viên và công tác tuyên truyền miệng. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 5/2005, tr.43. - Trần Thanh Hải: Xây dựng Ban Tuyên giáo xã, phường, thị trấn vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đưa thông tin về cơ sở. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 8/2005, tr.40. - Vũ Vọng: Những vấn đề cần quan tâm trong công tác tư tưởng ở các xã miền núi tỉnh Bắc Giang. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 11/2005, tr.37. - Quốc Hiệp: Hiệu quả tuyên truyền miệng ở Đăk Lăk. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 5/2007, tr.54. - Nguyễn Huy Ngọc: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong tình hình hiện nay. Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 6/2007, tr. 49. Các công trình, đề tài nghiên cứu, các bài viết trên các tạp chí kể trên, cũng phần nào đã làm sáng tỏ, phong phú thêm những luận cứ khoa học, các vấn đề lý luận và thực tiễn công tác tuyên truyền, cổ động. Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu, những công trình, bài viết đó mới chỉ đề cập vấn đề tuyên truyền nói chung; hình thức, nội dung, phương pháp tuyên truyền miệng, hoặc thực hiện tuyên truyền riêng của một số địa phương, đơn vị nhất định, mà chưa đề cập nhiều đến nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, cổ động. Cho đến nay chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu về "Chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang giai đoạn hiện nay". Luận văn này sẽ kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả có liên quan về công tác này, để tập trung nghiên cứu sâu vấn đề trên, góp phần nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của các xã miền núi tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Trên cơ sở khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác tuyên truyền, cổ động ở các đảng bộ xã miền núi, góp phần làm rõ cơ sở lý luận và 6 thực tiễn của công tác tuyên truyền, cổ động Luận văn đề xuất một số nhóm giải pháp có tính khả thi nhằm giúp cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở các xã miền núi Bắc Giang làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, cổ động đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng Đảng, phục vụ đắc lực hơn nữa các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể ở địa phương trong thời kỳ mới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn. Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau: - Làm rõ khái niệm, vị trí vai trò và tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả của công tác tuyên truyền, cổ động ở các đảng bộ xã miền núi tỉnh Bắc Giang. - Tập hợp tư liệu, khảo sát, điều tra phân tích đánh giá thực trạng công tác tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang. - Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu có tính khả thi để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của đảng bộ xã miền núi tỉnh Bắc Giang hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động của đảng bộ xã miền núi trong toàn tỉnh; thời gian khảo sát từ 1997 đến nay. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng ta về công tác tuyên truyền, cổ động. Đồng thời, Luận văn kế thừa kết quả của các công trình khoa học, bài báo, bài viết và tài 7 liệu có liên quan đến nội dung của đề tài. Sử dụng các báo cáo, tờ trình về công tác tuyên giáo của các đảng bộ xã miền núi với Ban Tuyên giáo các huyện uỷ thuộc Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. 5.2. Cơ sở thực tiễn Luận văn nghiên cứu công tác tuyên truyền, cổ động của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang từ khi tái lập tỉnh đến nay (1997 - 2010); những đóng góp của công tác tuyên truyền cổ động vào kết quả thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của các đảng bộ xã ở tỉnh Bắc Giang những năm gần đây; thực trạng đội ngũ những người làm công tác tuyên truyền, cổ động; điều kiện phương tiện, những hình thức cụ thể để tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động trên từng địa bàn cụ thể của các xã miền núi. 5.3. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: tổng hợp, phân tích, chọn mẫu thống kê, khảo sát thực tế; so sánh, điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia.v.v. 6. Những đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa của luận văn - Góp phần làm rõ quan niệm về chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động; hình thành tiêu chí đánh giá về chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động trong hoàn cảnh hiện nay. - Đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động trong thời gian qua và đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động ở các xã miền núi trong tỉnh. - Luận văn có thể sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo cho cấp uỷ và ban Tuyên giáo các cấp nói chung và các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang nói riêng vận dụng trong việc nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động trong giai đoạn hiện nay. 8 - Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo và bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên truyền, cổ động cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo ở cơ sở; trong giảng dạy cho đội ngũ cán bộ ở Trường Chính trị tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Làm tài liệu nghiên cứu, phục vụ công tác tuyên truyền, cổ động những năm tiếp theo. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 03 chương, 06 tiết. 9 Chương 1 CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ MIỀN NÚI Ở TỈNH BẮC GIANG NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG CỦA ĐẢNG 1.1.1. Quan niệm tuyên truyền và công tác tuyên truyền * Quan niệm tuyên truyền Theo tiếng La tinh, “tuyên truyền” (propaganda) là truyền bá, truyền đạt một quan điểm nào đó. Trong tác phẩm Người tuyên truyền và cách tuyên truyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân làm” [45, tr.162]. Theo một số tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền đầu tiên đã được nhà thờ La Mã sử dụng để chỉ hoạt động của các nhà truyền giáo với sứ mệnh thuyết phục, lôi kéo những người khác phấn đấu theo đức tin của đạo Kitô. Về sau, thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng một cách rộng rãi nhằm biểu đạt một cách cụ thể (như ngôn ngữ, hình ảnh, đạo cụ...) nhằm tác động đến suy nghĩ, tư tưởng tình cảm của người khác, hướng họ hành động theo một khuynh hướng nhất định [61, tr.87]. Trong Bách khoa toàn thư Liên Xô, thuật ngữ tưyên truyền có hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là sự truyền bá những quan điểm, tư tưởng về chính trị, triết học, khoa học, nghệ thuật... nhằm biến quan điểm, tư tưởng ấy thành ý thức xã hội, thành hành động cụ thể của quần chúng. Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền là truyền bá những quan điểm lý luận nhằm xây dựng cho quần chúng một thế giới quan nhất định phù hợp với lợi ích của chủ thể tuyên truyền và kích thích những hoạt động thực tế phù hợp với thế giới quan ấy. Như vậy, tuyên truyền theo nghĩa hẹp chính là tuyên truyền tư tưởng, tuyên truyền chính trị mà mục đích của nó là hình 10 thành trong đối tượng tuyên truyền một thế giới quan nhất định, một kiểu ý thức xã hội nhất định và cổ vũ tính tích cực xã hội của con người. Tuyên truyền là: thuyết phục người khác bằng những căn cứ lý luận khoa học, nhất là đối với tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuyên truyền là hoạt động tác động vào thế giới bên trong của con người (nội tâm), khi tác động thì chủ yếu dùng lý thuyết, tác động vào lĩnh vực trí tuệ, vào ý thức tư tưởng vào nhận thức của con người và thường diễn ra trong suốt quá trình tiến hành hoạt động tuyên truyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại ” [49, tr.167]. Tuyên truyền có nhiều kiểu loại tùy theo cách phân chia. Nếu phân theo tính chất hệ tư tưởng mà nó truyền bá thì có tuyên truyền tư sản và tuyên truyền vô sản... Nếu phân theo nội dung mà nó chuyển tải thì có tuyên truyền kinh tế, tuyên truyền chính trị, tuyên truyền văn hóa... Nếu phân theo phạm vị tác động đến đối tượng thì có tuyên truyền cá biệt (cho một người), tuyên truyền nhóm và tuyên truyền đại chúng (cho đông người). Nếu phân theo phương thức tác động thì có tuyên truyền miệng, tuyên truyền trực quan, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng hay tuyên truyền trực tiếp và tuyên truyền gián tiếp. Ngoài ra, còn có thể phân tuyên truyền thành tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại, v.v. * Quan niệm công tác tuyên truyền Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược, sách lược cho quần chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó. Trong công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, công tác tuyên truyền là hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí 11 Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại... làm cho chúng trở thành nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội; động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. * Vai trò của công tác tuyên truyền Công tác tuyên truyền có vai trò rất to lớn trong sự nghiệp cách mạng cũng như trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền thể hiện ở chỗ, nó truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã hội, trước hết là trong các lực lượng xã hội tiên tiến, khơi dậy tính sáng tạo cách mạng của quần chúng, động viên lực lượng quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng, góp phần tổ chức các phong trào cách mạng, chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, lý luận và con người cho các cuộc cách mạng. Chính vì vậy, trong các thời kỳ vận động cách mạng, vào “đêm trước” của cuộc cách mạng cũng như trong toàn bộ tiến trình các cuộc cách mạng xã hội thường xuất hiện các nhà tư tưởng, các nhà tuyên truyền kiệt xuất, những “vĩ nhân đi đầu” mà tên tuổi và sự nghiệp của họ gắn liền với các cuộc cách mạng ấy. Công tác tuyên truyền, vì vậy trở thành một công tác cách mạng và là công tác cách mạng đầu tiên của bất kỳ giai cấp cách mạng và tổ chức cách mạng nào. Ở nước ta, công tác cách mạng đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành sau khi tìm thấy hệ tư tưởng cách mạng của thời đại chính là công tác tuyên trưyền. Năm 1925, khi về Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã mở những lớp huấn luyện đầu tiên cho cách mạng Việt Nam. Nội dung chủ yếu của chương trình huấn luyện, đào tạo cán bộ lúc bấy giờ là truyền bá những vấn đề cơ bản nhất về chủ nghĩa Mác - Lênin, về lý luận và phương pháp cách mạng, về đạo đức cách mạng. C.Mác đã viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng 12 lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [42, tr.580]. Vai trò của công tác tuyên truyền chính là làm cho “lý luận thâm nhập vào quần chúng để qua đó “trở thành lực lượng vật chất”. Là một bộ phận của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta. Chính nhờ công tác tuyên truyền mà chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập vào quần chúng lao động, giúp họ giác ngộ về con đường cách mạng, lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới, về sức mạnh đấu tranh cứu bản thân mình, về vai trò, sứ mệnh, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tự nguyện đi theo Đảng, tự nguyện gia nhập Đảng, làm cho đội ngũ của Đảng ngày càng mở rộng. Đồng thời, thông qua việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, giáo dục về phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đảng viên... công tác tuyên truyền góp phần xây dựng Đảng thường xuyên vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong sáng về đạo đức, lối sống. Công tác tuyên truyền góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức và sức khỏe; sống có văn hóa và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế trong sáng. Công tác tuyên truyền còn góp phần đắc lực vào cuộc đấu tranh tư tưởng, chính trị của Đảng, đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. 1.1.2. Quan niệm cổ động và công tác cổ động * Quan niệm cổ động Cổ động có xuất xứ là một từ Hán - Việt. “Cổ” là cái trống, “động” là hoạt động. Người xưa thường đùng tiếng trống để làm tín hiệu thúc giục xung 13 trận chiến đấu hoặc chống lụt, chống bão, chữa cháy... Trong tiếng Latinh, “Cổ động” (aghitaxia) có nghĩa là tiến hành vận động, thúc đẩy. Như vậy, cổ động là thông tin, giải thích về những sự kiện đang diễn ra trong đời sống để cổ vũ, động viên con người đi tới hành động. A.V.Lunasacxki đã từng nhận định: “Chúng ta hiểu cổ động là nghệ thuật làm xúc động quần chúng, tác động vào tình cảm của quần chúng để dẫn dắt quần chúng đi theo mình” [40, tr. 393]. Cổ động thông qua các phương tiện trực quan - là hoạt động chủ yếu tác động bằng những sự kiện, hình ảnh nhằm trực tiếp vào các giác quan, tạo nên những xúc cảm, biểu tượng, tác động chủ yếu vào lĩnh vực tình cảm, ý chí và hành động cụ thể của con người và thường chỉ diễn ra trong một thời gian nhất định. * Quan niệm công tác cổ động Công tác cổ động là thông qua những phương thức, công cụ riêng, chủ yếu là các biện pháp trực quan, tác động trực tiếp vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của các tầng lớp nhân dân, lôi cuốn họ vào những hoạt động theo mục tiêu, chương trình đã định. * Vai trò của công tác cổ động Công tác cổ động là một bộ phận và là khâu trọng yếu của công tác tư tưởng, có vai trò hết sức quan trọng. Nó là hoạt động có hiệu quả rất cao trong việc thuyết phục, vận động quần chúng nhân dân tham gia vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Công tác cổ động đóng vai trò to lớn trong việc thông tin những vấn đề quan trọng trong đường lối đối nội và đối ngoại hiện thời của Đảng và Nhà nước, những nhiệm vụ của địa phương, của tập thể lao động, làm cho mọi người thấy rõ tính đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng, kêu gọi, hiệu triệu quần chúng nhân dân hành động thực hiện đường lối, chính sách và các nhiệm vụ thực tiễn. V.I.Lênin đánh giá rất cao vai trò của công tác cổ 14 động trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức tạp đặt ra trước Đảng, trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cổ động chính trị là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động cách mạng của Đảng, là công cụ lãnh đạo chính trị đối với quần chúng, nâng cao giác ngộ chính trị của quần chúng, tạo ra sự nhất trí về quan điểm đối với những vấn đề thuộc đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng: Cổ động chính trị không bao giờ phí hoài cả. Người ta đánh giá kết quả của công tác cổ động chính trị không chỉ ở chỗ chúng ta có thể ngay lúc này giành được đa số hay là sự thỏa thuận cùng phối hợp hoạt động chính trị. Có thể chúng ta không đạt được ngay tức khắc điều đó: nhưng vì chúng ta là một đảng vô sản có tổ chức, nên chúng ta không bối rối trước những thất bại tạm thời, trái lại, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, chúng ta cũng vẫn nhẫn nại, bền bỉ và kiên trì tiến hành công tác của mình [38, tr.264]. Cổ động đóng vai trò quan trọng không chỉ trong giai đoạn cách mạng giành chính quyền mà còn trong giai đoạn xây dựng đất nước, trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, đất nước Xô Viết bước vào công cuộc xây dựng hòa bình, V.I.Lênin cho rằng: “Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt kinh tế... Và toàn bộ công tác cổ động và tuyên truyền của chúng ta đều phải dựa trên cơ sở đó” [39, tr.483]. Đảng ta, trong tất cả các giai đoạn cách mạng, đều rất coi trọng công tác cổ động và sử dụng công tác này như một vũ khí sắc bén, một công cụ tổ chức mạnh mẽ để thúc đẩy toàn dân tham gia giành, giữ chính quyền, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ thị số 48 - TTG/VG ngày 27 tháng 4 năm 1968 của Chính phủ về “ tăng cường công tác thông tin và cổ động ở miền núi trong giai đoạn chống 15 Mỹ, cứu nước hiện nay” nêu rõ: ... cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đang gay gắt, quyết liệt. Công tác thông tin và cổ động ở miền núi lại càng quan trọng và rất cần thiết nhằm góp phần tăng cường khối đoàn kết của các dân tộc, nâng cao ý thức và tình cảm cách mạng của đồng bào đối với Tổ quốc chung, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần làm chủ tập thể, bảo đảm làm tốt mọi công tác sản xuất, chiến đấu và tổ chức đời sống để xây dựng miền núi thành hậu phương kiên cố của miền Bắc, làm căn cứ địa vững mạnh cho cả nước, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số,... 1.2. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG Ở CÁC ĐẢNG BỘ XÃ MIỀN NÚI TỈNH BẮC GIANG 1.2.1. Đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội và các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang 1.2.1.1. Đặc điểm, tình hình * Điều kiện địa lý, tự nhiên, dân số Bắc Giang có 230 xã, phường, thị trấn, trong đó có 174 xã miền núi và 08 thị trấn thuộc khu vực miền núi; chia ra có 135 xã, thị trấn miền núi và 47 xã, thị trấn vùng cao, (trong số các xã miền núi, vùng cao có 30 xã đặc biệt khó khăn (khu vực III) và 97 thôn, bản đặc biệt khó khăn thuộc 32 xã, thị trấn (khu vực II) vào diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II) trong đó, có 01 huyện (Sơn Động) được đầu tư theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo cả nước. Đơn vị hành chính dưới cấp xã là 2.451 thôn (bản). Trong đó, có 2.070 thôn (bản) thuộc khu vực miền núi chiếm 84,42% so với tổng số thôn (bản) toàn tỉnh. Đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú, sinh sống trên địa bàn cả 10 huyện, thành phố trong tỉnh, nhưng tập trung chủ yếu ở 105 xã, thị trấn thuộc 06 huyện miền núi, vùng cao là: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế, 16 Lạng Giang, Tân Yên với 46.330 hộ, riêng ở khu vực miền núi là 45.790 hộ, chiếm 98,83% tổng số hộ dân tộc, còn lại ở khu vực trung du, đồng bằng 540 hộ. Tỉnh 21 có thành phần dân tộc, trong đó người Kinh là gần 88%, dân tộc thiểu số là 20 với số dân là 192.941 người, chiếm 12,4%. Cụ thể: dân tộc Nùng 73.932 người, chiếm 38,32%; dân tộc Tày 39.603 người, chiếm 20,53%; dân tộc Sán dìu 26.812 người, chiếm 13,9%; dân tộc Hoa 18.444 người, chiếm 9,56%; dân tộc Sán Chay (Cao Lan, Sán Chí) 24.786 người, chiếm 12,85%; dân tộc Dao 8.871người, chiếm 4,6%; các dân tộc khác 493 người, chiếm 0,25%. Nhiều xã có diện tích rộng, địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém. Ở nhiều xã vùng sâu, vùng xa còn tồn tại một số phong tục lạc hậu còn chưa được xóa bỏ. * Tình hình phát triển kinh tế - xã hội Từ năm 1997 đến nay, sau hơn 10 năm tái lập tỉnh, nền kinh tế của tỉnh đã có những bước phát triển quan trọng. Các cấp ủy đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội. Tỉnh đã quan tâm xây dựng và triển khai nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Trong 5 năm trở lại đây đã huy động được 834 tỷ đồng để đầu tư phát triển cho các huyện miền núi và vùng dân tộc; đề ra nhiều cơ chế hỗ trợ phát triển đối với khu vực miền núi và những vùng khó khăn như việc trợ giá, trợ cước; hỗ trợ đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; hàng năm, hỗ trợ mỗi xã nghèo 200 triệu đồng. Tiếp nhận đầu tư trên 714 tỷ đồng từ các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng; Dự án giảm nghèo của Ngân hàng thế giới (WB); Chương trình kiên cố hoá trường học, cứng hoá kênh mương và đường giao thông nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường; Dự án di dân khu vực Trường bắn quốc gia TB1; chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn và gần 17 389 tỷ đồng từ các Chương trình 135 và 134. Đã thực hiện cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 5/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ đạt trên 5 tỷ đồng; trong đó, năm 2007, đã cho 520 hộ vay 2.594 triệu đồng; năm 2008, đã phân bổ cho 4 huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế là 2.500 triệu đồng. Sự nghiệp giáo dục ở các xã miền núi, đặc biệt khó khăn được quan tâm, chất lượng giáo dục được nâng lên. Đến nay, 100% các xã có trường tiểu học; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi được đến trường tăng cao, nhất là ở các lớp mẫu giáo; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và đồng bào vùng dân tộc được tăng cường, 100% các xã có trạm y tế, trong đó có 95% các trạm y tế được xây dựng kiên cố; 100% số thôn, bản có nhân viên y tế phục vụ; Tỷ lệ dân số có bảo hiểm y tế đạt gần 60%. Trong đó, có 108 xã miền núi đạt chuẩn y tế; 100% người dân tại các xã đặc biệt khó khăn đã được cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí theo Quyết định số 139/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; 100% các xã đều có Bưu điện văn hóa, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao được diễn ra thường xuyên mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. * Con người, văn hoá, tập quán, tôn giáo Con người Bắc Giang là sự hòa nhập, hòa quyện giữa người bản địa sống lâu đời ở địa phương với cư dân ở các tỉnh khác chuyển đến xây dựng quê hương mới qua các thời kỳ lịch sử, từ thời phong kiến, thời thực dân Pháp thống trị, đến thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Trong cơ cấu dân số, dân số sống bằng nghề nông chiếm tới gần 80%. Đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân tỉnh Bắc Giang ngày càng được cải thiện và không ngừng nâng cao. Tính đến 2009 trên địa bàn tỉnh có 1.424 làng, thôn, bản, tổ dân phố, khu dân cư đạt danh hiệu “văn hóa”, đạt tỷ lệ 58%; 303.275/380.169 hộ gia đình đạt danh hiệu “văn hóa” (đạt 79,7%); 1.470 cơ quan văn hóa cấp huyện, thành phố (đạt 79%), 343 18 làng, bản, tổ dân phố văn hóa và 447 cơ quan văn hóa cấp tỉnh; 16 xã, phường, thị trấn văn hóa). Sự nghiệp giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển toàn diện theo hướng đa dạng hóa và xã hội hóa, xây dựng các trường học thân thiện, góp phần thực hiện mục tiêu về nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Sự nghiệp y tế đã và đang được quan tâm đúng mức, công tác y tế dự phòng và y tế cộng đồng được chăm lo hơn trước, từng bước nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các bệnh viện, trạm xá được tăng cường. Công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và trẻ em được duy trì thường xuyên và triển khai sâu rộng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Công tác Văn hóa - Thể thao và Du lịch luôn được quan tâm. Đời sống, xã hội, việc làm từng bước được cải thiện. Tỉnh Bắc Giang có 21 dân tộc cùng chung sống hòa thuận, mỗi dân tộc có phong tục, tập quán, ngôn ngữ, trang phục, ẩm thực riêng biệt, với bản sắc và truyền thống văn hóa khác nhau. Kết cấu dân cư nhiều thành phần dân tộc tạo cho Bắc Giang có truyền thống văn hóa phong phú, và đa dạng. Các dân tộc anh em trên đất Bắc Giang sống trong các gia đình hạt nhân (có trường hợp đến ba, bốn thế hệ ) tụ cư thành các cộng đồng bản làng ven sông, ven đồi, lấy gia đình làm đơn vị cơ bản để tổ chức kinh tế và tổ chức xã hội. Sản xuất và chi tiêu, tín ngưỡng và tôn giáo, đóng góp việc làng, việc nước đều lấy gia đình làm cơ sở. Ở Bắc Giang cũng như cả nước, dòng họ đóng vai trò quan trọng. Trong làng, bản có hai cộng đồng: Cộng đồng huyết thống - liên gia đình theo dòng họ và cộng đồng địa vực - liên gia đình theo xóm ngõ. Hai loại cộng đồng này lại thường liên kết lại với nhau tạo ra sự cố kết khá bền vững để xây dựng và phát triển quê hương đất nước. Kết cấu xã hội này trên cơ sở kinh tế tiểu nông truyền thống tạo ra sự ngưng kết trong thể chế kinh tế - xã hội ổn định vững chắc mà ngày nay những mặt ưu việt của nó còn được kế thừa để phát triển. 19 Bắc Giang có 2 tôn giáo chính là đạo Phật và đạo Công giáo với hơn 186.000 người theo đạo chiếm hơn 11% dân số của tỉnh; trong đó Phật giáo có trên 160 nghìn người, Công giáo có trên 26 nghìn giáo dân. Những đặc điểm tự nhiên - xã hội của vùng đất Bắc Giang đã tạo nên bản sắc riêng của con người Bắc Giang với tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng đồng; lòng yêu quê hương đất nước, ý chí quật cường chống giặc ngoại xâm; tính cần cù, nhẫn nại, chịu thương chịu khó; luôn sáng tạo và hàm học hỏi. Những đức tính quý báu đó đã giúp con người Bắc Giang vượt qua mọi hoàn cảnh vươn lên đấu tranh bảo vệ cuộc sống, xây dựng quê hương Bắc Giang ngày càng no ấm hạnh phúc. 1.2.1.2. Đặc điểm của các đảng bộ xã miền núi ở tỉnh Bắc Giang Các xã miền núi của tỉnh có vị trí địa kinh tế, địa chính trị trọng yếu. Đây là nơi diễn ra mọi quá trình, mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mọi tầng lớp nhân dân; là nơi tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, trực tiếp đưa nghị quyết của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước vào cuộc sống; là nơi thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Đây cũng là nơi thể hiện sự thành công cũng như những hạn chế của đường lối, chính sách khi đưa vào cuộc sống; là nơi khẳng định uy tín của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Nó cũng vừa là địa bàn để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, vừa là nơi nảy sinh và đặt ra những vấn đề bổ sung, là sáng tỏ nội dung nghị quyết của Đảng. Tỉnh Bắc Giang được tái lập năm 1997, hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Hiện nay, Bắc Giang có 09 đảng bộ huyện, 01 đảng bộ thành phố, (ngoài ra còn có và 05 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy) với 230 đảng bộ xã, phường, thị trấn (7 phường, 17 thị trấn và 206 xã - trong đó có 174 xã miền núi) và 3.842 chi bộ trực thuộc các đảng bộ cơ sở với 63.381 đảng viên. Như vậy, đảng bộ xã, thị 20 trấn miền núi chiếm trên 75,65% tổng số đảng bộ xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh. Ở thôn, bản, làng đa số chi bộ trực thuộc được thành lập theo địa giới hành chính. Các đơn vị trường học, nhà trẻ, trạm y tế, các đơn vị kinh tế... thành lập chi bộ hoặc tổ đảng. Điều kiện địa lý, tự nhiên đã khiến Bắc Giang có những đảng bộ xã ở đồng bằng và những đảng bộ xã ở vùng đồi núi. Trình độ nhận thức của người dân nhất là ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa không đồng đều, nên trong lãnh đạo,chỉ đạo của các đảng bộ xã về công tác tư tưởng nói chung và công tác tuyên truyền, cổ động nói riêng đòi hỏi phải sáng tạo, nhạy bén phù hợp với thực tiễn của địa phương. Cùng chung đặc điểm nổi bật của tỉnh là kinh tế nông nghiệp là chủ yếu nên các đảng bộ huyện và xã, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang đặt vấn đề lãnh đạo, chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Cũng như đa phần các tỉnh miền núi Bắc bộ, phần lớn các đảng viên của các đảng bộ xã miền núi Tỉnh Bắc Giang tham gia sinh hoạt ở các chi, đảng bộ nông thôn (100%), nên các vấn đề như: nhận thức không đồng đều; nội dung, thời gian, điều kiện sinh hoạt của chi bộ còn bất cập, hạn chế, v.v. Vì vậy, đòi hỏi công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy phải uyển chuyển, gắn sát với đặc điểm của chi bộ nông thôn. Các chi, đảng bộ ở nông thôn miền núi của tỉnh hiện đang chịu nhiều tác động của một số yếu tố đặc thù sau: địa hình vùng núi phức tạp, địa giới thường rộng hơn đồng bằng khó khăn cho việc hoạt động và sinh hoạt của cán bộ đảng viên và nhân dân; dân thưa đan xen nhiều dân tộc sinh sống ảnh hưởng đến việc tương trợ, hộ giúp nhau trong sản xuất, sinh hoạt..; số lượng đảng viên trong các đảng bộ xã miền núi thường không đông, phân tán ở các nơi cư trú, không đồng đều về trình độ nhận thức, lứa tuổi, dân tộc. Chất lượng, năng lực lãnh đạo không đồng đều trong từng đảng bộ và giữa đảng bộ các xã miền núi.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan