Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn;luận văn thạc sĩ;luận án tiến sĩ;tài liệu; khóa luận tốt nghiệp; báo cá...

Tài liệu Luận văn;luận văn thạc sĩ;luận án tiến sĩ;tài liệu; khóa luận tốt nghiệp; báo cáo khoa học;đồ án tốt nghiệp;khoán luận 12022015065548

.PDF
139
60
99

Mô tả:

1  PHẦN MỞ ĐẦU  1. Lý do chọn đề tài  Là một trong những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu bậc nhất Đông Nam Á và thế  giới, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, thủy hải sản và cây ăn trái  nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Hơn thế, nó còn là vùng kinh tế trọng điểm cả nước, có vị trí  quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước  trong khu vực và thế giới. Quá trình cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc  tế  mà  thời  gian  qua  đã  giúp  cho  các  lĩnh  vực  công  nghiệp,  dịch  vụ  và  đặc  biệt  là  nông  nghiệp ở  ĐBSCL đạt được những  thành tựu to lớn. Tốc độ  tăng trưởng GDP  lập nên  kỷ  lục mới, xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài không ngừng gia tăng; cơ cấu kinh  tế chuyển dịch dần từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp, thương mại dịch vụ và  nông  nghiệp  công nghệ cao;  thu  nhập bình quân  đầu người  tăng  lên  và  đời  sống  xã  hội  không ngừng được cải thiện; một số sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế  biến đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực đem về nhiều ngoại tệ cho các đại phương  trong vùng và cả nước…. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế của ĐBSCL thời gian qua  cũng  bộc  lộ  khá  nhiều  yếu  kém:  tăng  trưởng  xuất  khẩu  không  ổn  định,  còn  chứa  đựng  nhiều  yếu  tố  không  bền  vững  và  dễ  bị  tổn  thương  bởi  những  cú  sốc  từ  bên  ngoài;  sản  phẩm chủ lực còn ít và phát triển chậm, chưa chuyển dịch theo hướng tăng hàm lượng trí  tuệ và công nghệ cao nên chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của vùng; năng lực cạnh  tranh trong xuất khẩu của các sản phẩm còn thấp…. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên  cứu, sự phát triển kinh tế ­ xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long còn khá biệt lập, chưa có  sự gắn kết chặt chẽ với các vùng khác của đất nước cũng như quốc tế. Đồng thời, sự phát  triển  của  vùng  cũng rất  thiếu đồng bộ,  chưa cân  xứng  giữa  các ngành nghề,  lĩnh  vực  và  giữa  các  địa phương; phát  triển nặng về  chiều  rộng,  chạy  theo  số  lượng nên  chất  lượng,  hiệu quả và đặc biệt là tính cạnh tranh quốc tế không cao…  Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ  yếu có thể khẳng định là thiếu vắng những sản phẩm chủ lực có khả năng tạo ra giá trị gia  tăng lớn, sức cạnh tranh cao và nhất là tạo được động lực thúc đẩy khai thác một cách hiệu  quả tài nguyên thiên nhiên, lao động và những lợi thế “trời cho” mà không một nơi nào  khác  có  được ngoài  vùng đất nầy.  Vấn  đề đặt ra  ở đây  là,  làm  cách nào để  ĐBSCL  xác  định được sản phẩm chủ lực hoặc hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng để tập trung đầu tư phát 2  triển; làm cách nào để cho  sản phẩm chủ lực ĐBSCL có thể cạnh tranh ngang ngửa với  hàng hóa, dịch vụ cùng loại trong cả nước và trên thế giới; và làm cách nào để sản phẩm  chủ lực ĐBSCL không ngừng phát triển và phát triển một cách bền vững trong môi trường  hội nhập và cạnh tranh quốc tế…  Từ sự phân tích trên đây cho thấy, việc nhanh chóng nghiên cứu để tìm ra những  sản phẩm chủ lực, giữ vai trò chủ đạo đồng thời tạo ra cú đột phá mạnh mẽ cho phát triển  kinh tế ĐBSCL trong tương lai gần cũng như lâu dài là yêu cầu khách quan và bức thiết ở  thời điểm hiện nay.  Và,  đây cũng  chính  là  lý  do mà  tác  giả  chọn  đề  tài: “Xác định  sản  phẩm  chủ  lực  và  phát  triển  sản  phẩm  chủ  lực  Đồng  bằng  sông  Cửu  Long  đến  năm  2020” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của bản thân.  2.  Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên nghiên cứu của luận án  2.1. Mục tiêu nghiên cứu  Luận án tập trung vào nghiên cứu 3 mục tiêu cơ bản sau đây:  1) Hệ thống tiêu chí xác định  sản phẩm chủ lực phù hợp với điều kiện thực tế và  tính đặc thù của ĐBSCL để làm cơ sở đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực thống nhất cho  toàn vùng.  2) Danh mục các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL đến năm 2020.  3) Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển một cách bền vững sản phẩm chủ lực  ĐBSCL trong thời gian tới.  2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án  Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận án  sẽ tập trung thực hiện xuyên suốt các  nhiệm vụ trọng tâm như sau:  1) Nghiên cứu hệ thống hóa lý thuyết về sản phẩm chủ lực và vận dụng nó để làm  sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá, xét chọn  và  phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL từ nay đến năm 2020.  2) Phân tích, đánh giá nhu cầu thị trường, tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm  chủ lực cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực ĐBSCL để từ đó xây dựng Hệ  thống tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực vùng từ nay đến năm 2020.  3) Trên cơ sở Hệ thống tiêu chí, tiến hành phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những  hàng hóa hội đủ điều kiện hoặc có triển vọng để hình thành Bảng danh mục sản phẩm chủ  lực ĐBSCL từ nay đến năm 2020. 3  4) Phân tích, đánh giá những thành tựu cũng như tồn tại, hạn chế trong thực tế xét  chọn và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL thời gian qua để từ đó đề xuất các giải pháp  khắc phục nhằm phát triển hơn nửa sản phẩm chủ lực của vùng trong tương lai lâu dài .  3.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án  3.1.  Đối tượng nghiên cứu  Đối  tượng  nghiên  cứu  của  luận  án  là  các  sản  phẩm  hàng  hóa  và  dịch  vụ  chủ  lực  mang  đặc  trưng  cho  lợi  thế,  tiềm  năng  và  gắn  chặt  với  quá  trình  phát  triển  kinh  tế  của  vùng, đồng thời đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản phẩm chủ lực của Đồng  bằng sông Cửu Long giai từ nay đến năm 2020.  2.2.  Phạm vi nghiên cứu  Đối với hàng hóa, dịch vụ: Các loại hàng hóa, dịch vụ đã, đang và có triển vọng  phát triển để tham gia thị trường và giữ vai trò chủ lực trong chiến lược phát triển kinh tế  vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020  Đối với địa bàn nghiên cứu: Ngoài các tỉnh, thành thuộc khu vực đồng bằng sông  Cửu  Long, khi nghiên  cứu nhu  cầu thị  trường  thì phạm  vi nghiên cứu  được mở rộng  ra  nhiều tỉnh, thành phố lớn trong cả nước.  4.  Tổng quan tài liệu nghiên cứu  Phát triển  cụm  công nghiệp gắn với phát triển vùng  lãnh thổ và địa phương, hoặc  phát triển ngành hoặc sản phẩm công nghiệp chủ lực của địa phương, từ lâu đã có nhiều  công trình trong và ngoài nước nghiên cứu, nhiều tài liệu, lý thuyết đề cập tới. Tuy nhiên,  nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực cho một vùng kinh  tế như ĐBSCL thì hầu như chưa được nghiên cứu bao giờ. Vì vậy, quá trình nghiên cứu,  Luận án chỉ tiếp cận được với các tài liệu có nội dung gần với chủ đề đặt ra.  4.1. Tài liệu nước ngoài  1)  Thuyết  lợi  thế  cạnh  tranh  quốc  gia  của  M.Porter  (1990).  Porter  cho  rằng,  các lý thuyết phát  triển truyền  thống như  lợi  thế  tuyệt  đối  của  Adam  Smith  và lợi  thế  so  sánh  của  David  Ricardo  xem nền  kinh  tế  như  là  sự  “định hướng bởi  yếu  tố nguồn  lực”.  Tức,  lợi  thế  của  một  quốc  gia  trong  thương  mại  quốc  tế  được  xác  định  bởi  các  yếu  tố  nguồn lực như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động và qui mô dân số địa phương vì  chúng  tạo  ra  chi phí  thấp.  Tuy  nhiên,  theo Porter  thì  "sự  thịnh  vượng của quốc gia được  tạo ra chứ không phải được thừa kế", nên cần có sự tập trung đầu tư mạnh mẽ để nâng cao  hiệu quả thông qua cải thiện năng suất lao động hoặc sáng tạo ra các sản phẩm với giá trị 4  độc đáo. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thành công khi vận dụng tư tưởng này của Porter  và  các lý  thuyết  cạnh  tranh khác  vào  việc  xác  định  lợi thế  cạnh  tranh để phát triển  cụm  chuyên môn hóa và sản phẩm chủ lực [20], [21].  2)  Lý  thuyết  cụm  phát  triển  của  M.  Porter  (1990).  Ban  đầu,  Porter  cung  cấp  các  nguyên lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho  các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia. Porter cho rằng, một cụm được xem là có lợi  thế so sánh nếu sản phẩm, năng suất và tốc độ tăng trưởng cao hơn các cụm khác. Ở cấp  vùng, các chính sách phát triển cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn  với  các  chiến  lược  phát  triển  địa  phương.  Trong  trường  hợp  này,  sự  tiếp  cận  cụm  về  nguyên tắc được sử dụng như là công cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên  kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. Từ năm 1990, nhiều quốc gia trên thế giới đã vận  dụng  thành  công  lý  thuyết  này  vào  lựa  chọn  và  phát  triển  ngành/sản  phẩm  chủ  lực  tập  trung theo không gian địa lý (Porter 1990) hoặc [48].  3) Sự phát triển của khái niệm cụm ­ Kinh nghiệm hiện tại và triển vọng, Christian  H. M. Ketels (2003). Ketels đã trình bày khung khái niệm về cụm (cluster) của Michael  M. Porter, các loại hình cụm, sự tiến hóa cuả cụm và cụm với hiệu quả kinh tế. Ngoài ra,  Ketels cũng nói đến những phát hiện trong thực nghiệm đối với cụm, cụm dựa trên chính  sách phát triển kinh tế và xem đây như là mô hình phát triển kinh tế mới. Thông qua công  trình nghiên cứu này, Ketels đã mở rộng hơn về khái niệm cụm so với khái niệm ban đầu  của Michael M. Porter và qua đó, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ hơn tầm quan trọng  của cụm đối với phát triển kinh tế địa phương trong môi trường cạnh tranh toàn cầu [48].  4) Lý thuyết điểm trung tâm của Christaller (1933). Lý thuyết này cho rằng, vùng  nông thôn chịu lực hút của thành phố và coi thành phố là cực hút và hạt nhân của sự phát  triển. Từ đó, đối tượng đầu tư có trọng điểm cần được xác định trên cơ sở nghiên cứu mức  độ thu hút và ảnh hưởng của một trung tâm và cũng sẽ xác định bán kính vùng tiêu thụ các  sản phẩm của trung tâm. Trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, xác định giới hạn của thị  trường ngoài ngưỡng giới hạn không có lợi trong việc cung cấp hàng hoá của trung tâm.  Lý thuyết này được Alosh (Đức) bổ sung. Điểm đáng chú ý của lý thuyết điểm trung tâm  là xác định được quy luật phân bố không gian tương ứng giữa các điểm dân cư, từ đó có  thể áp dụng quy hoạch các điểm dân cư trên lãnh thổ mới khai thác [45].  5) Một nghiên cứu về các chỉ số năng lực cạnh tranh, G. Arzu INAL (2003). Trong  bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng và sự quan tâm ngày càng sâu sắc của các 5  giới, đặc biệt các nhà sản xuất kinh doanh đến chiến lược cạnh tranh hiệu quả, nhiều nhà  nghiên cứu đã cố gắng xác định khả năng cạnh tranh và phát triển các chỉ số định lượng  thích hợp để đo lường sức mạnh cạnh tranh. Với sự nỗ lực của mình, G. Arzu INAL đã  nghiên cứu, tổng hợp và đưa ra 16 chỉ số có thể đo lường năng lực cạnh tranh của quốc  gia, địa phương hay vùng lãnh thổ. Trong đó, có nhiều chỉ số thích hợp cho việc đo lường  năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ làm cơ sở xây dựng tiêu chí xác định hàng hóa,  dịch vụ chủ lực của địa phương [47].  Ngoài các tài tiệu trên, nhiều tài liệu khác cũng có nội dung liên quan vần đề này  được  tác  giả  tham  khảo  như:  “Regional  innovation  systems  (RIS)  in  China  của  Jon  Sigurdson”  đăng  trên  Working  Paper  No  195,  July  2004  [49];  “Sustaining  the  Green  Revolution in India” của S. Nagarajan [50]; “Economic contributios of Thailand’s creative  industries”, đăng trên tạp chí Fiscal Policy Institute 2009 [47]; “Koji – The key product in  Japanese  alcoholic  beverages  and  fermented  foods,  Tokyo  University  of  Agriculture  Sedagaya­ku,  Tokyo,  Japan  [54];  “Identifying  and  assessing  the  factors  that  influence  cluster’s  competitiveness  in  Oregon, and  some  initial  suggestions”,  Luận  án  Tiến  sĩ  của  Sam  Gi  Hong  (2007) [52]....Nhìn  chung  các  tài liệu này  đều nhấn mạnh đến  vai  trò  của  phát triển cụm ngành sản phẩm trong chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia và đề  xuất các chính sách hỗ trợ để cụm phát triển một cách bền vững.  4.2 Tài liệu trong nước  1) Luận án Tiến sĩ “Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các  tỉnh  vùng  Bắc  Trung  bộ”  của  Nguyễn  Hồng  Lĩnh  (2007).  Luận  án  đã  vận  dụng  các  lý  thuyết  liên  quan,  đặc  biệt  là  mô  hình  kim  cương  của  M. Porter  để  phân  tích  tìm  ra  các  nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn  các tỉnh Bắc Trung bộ. Trên cơ sở xử lý các số liệu thu thập từ báo cáo thống kê và khảo  sát thực tế; rút kinh nghiệm  phát triển ngành công nghiệp chế biến ở một số nước Đông  Nam  Á  và  dựa  trên  tiềm  năng,  lợi  thế  của  vùng,  Luận  án  đã  xác  định  các  ngành  công  nghiệp chế biến nông, lâm sản chủ lực để phát triển trên địa bàn Bắc Trung bộ [9].  2) Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia dến năm 2020 của Chính phủ. Theo  Chương  trình,  sẽ  hình  thành  và  phát  triển  hàng  hóa  mang  thương  hiệu  Việt  Nam  bằng  công nghệ tiên tiến, có năng lực cạnh tranh cao về tính mới, chất lượng, giá thành dựa trên  việc khai thác lợi thế so sánh các nguồn lực trong nước. Trong đó, giai đoạn 2010 – 2015  phải hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm dựa trên công nghệ tiên tiến và do các 6  doanh nghiệp khoa học và công nghệ sản xuất; giai đoạn tiếp theo sẽ mở rộng qui mô sản  xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm được xây dựng ở giai đoạn 2010 – 2015, mở rộng  thị trường, tăng cường xuất khẩu và xây dựng thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên trường  quốc tế [24].  3) Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001 –  2005 của Bộ Khoa học­Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) với  chủ đề “ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm  chủ lực”. Mục đích của Chương trình là nhằm gia tăng kim ngạch và chuyển dịch cơ cấu  xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng  công nghệ cao cũng như thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ.  Nội dung chủ yếu của Chương trình  là nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển công nghệ về giống cây trồng và vật nuôi có  năng  suất, chất  lượng  cao,  chống  chịu  sâu bệnh…;  xây  dựng  các mô hình  thâm  canh  và  sản  xuất  công nghiệp  trong nuôi trồng nông, lâm,  thủy  hải  sản  theo hướng bền  vững  và  bảo vệ môi trường sinh thái...[1]  4) “Quy chế đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực  Thành phố Hà Nội”. Theo Qui chế này, cơ sở xác định sản phẩm công nghiệp chủ lực của  Thành phố là các  tiêu chí gồm  sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; được  tạo ra trên các dây chuyền thiết bị có trình độ công nghệ ngang tầm khu vực, phù hợp với  trình độ sản xuất trong từng thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của  Thành phố, đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; tạo ra mức tăng trưởng  cao,  ổn định;  hoặc  thuộc nhóm  sản phẩm  xuất  khẩu  chủ  lực, đóng  góp tỷ  trọng  lớn vào  tổng  GDP  công  nghiệp.  Qui  trình  xét  chọn  có  4  bước:  đề  xuất  doanh  nghiệp  tham  gia  Chương trình; khảo sát sản phẩm công nghiệp; tổ chức đánh giá, xét chọn và công nhận  sản phẩm chủ lực...[17].  5) Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố Hồ Chí  Minh  giai  đoạn  2002  –  2005”.  Theo  Chương  trình  này,  Hệ  thống  tiêu  chí  lựa  chọn  sản  phẩm chủ lực và xây dựng bảng tự đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi sản phẩm đăng  ký tham gia chương trình đã ra đời cùng với việc triển khai hỗ trợ các doanh nghiệp tham  gia chương trình trên năm lĩnh vực: thiết kế sản phẩm và lựa chọn công nghệ, nâng cao  trình độ quản lý của doanh nghiệp, tiếp thị, đào tạo nhân lực, tài chính thông qua các hoạt  động hướng dẫn, tư vấn hay môi giới doanh nghiệp với nhà tư vấn có năng lực và uy tín,  giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn lực về khoa học và tài chính của thành phố [2]. 7  Ngoài ra,  Luận án  còn  tham khảo nhiều  tài liệu chương trình phát triển sản phẩm  chủ  lực  tương  tự  của  các địa phương  khác  cũng như  hội  thảo, hội nghị,...  liên quan đến  vấn đề phát triển sản phẩm chủ lực nói chung, như: “Xác định hàng hóa,  dịch vụ chủ lực  Tp Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2010, tầm nhìn 2020”; “Đánh giá thực trạng và định hướng  phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và làng nghề quận Bình Thủy  (Tp  Cần Thơ) giai đoạn 2011  –  2015, tầm nhìn  đến năm 2020” và các bài viết khác của  các tác giả đăng tải trên tạp chí, báo, trang web  trong nước và quốc tế có liên quan. Tuy  nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận cũng  như thực tiễn việc xác định và phát triển các sản phẩm công, nông, nghiệp và thủy sản chủ  lực thuộc vùng ĐBSCL. Với Luận án này, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu  và giải quyết vấn  đề bức xúc đó nhằm góp phần phát triển nền kinh tế ĐBSCL một cách bền vững.  5. Tính mới của Luận án  So với các công trình nghiên cứu cũng như  chương trình phát triển sản phẩm chủ  lực của các địa phương đã nêu trên, Luận án này có những điểm mới cơ bản sau:  1) Hoàn thiện hơn về mặt cơ sở lý luận đối với sản phẩm chủ lực cũng như phương  pháp  xác  định  sản phẩm  chủ  lực  để  vận dụng  vào  giải quyết  các  vấn  đề  có  tính  lý luận  cũng như thực tiễn trong việc xác định sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long  đến năm 2020.  2) Từ cơ sở lý thuyết đã xây dựng, Luận án đưa ra bộ tiêu chí xác định sản phẩm  chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long từ nay đến năm 2020 với 2 hệ thống đánh giá, xét  chọn sản phẩm hàng hóa chủ lực và sản phẩm dịch vụ chủ lực. Các hệ thống này vừa bảo  đảm các điều kiện cần, vừa bảo đảm đảm điều kiện đủ; vừa có tiêu chí định lượng và vừa  có tiêu chí định tính; đầy đủ hơn, thực tế hơn nhưng đơn giản, dễ thực hiện hơn.  3) Cũng với cơ sở lý thuyết đã hoàn thiện, Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho  việc công nhận sản phẩm chủ lực ĐBSCL đối với các sản phẩm đã từ lâu giữ vị trí chủ lực  một cách tự nhiên do lợi thế đặc thù của vùng như lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thông qua  đó, Luận án cũng chứng minh tính chủ lực không thể chối cải của các sản phẩm này bằng  một số chỉ tiêu định lượng quan trọng.  4) Dựa trên Bộ tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực đã xây dựng, Luận án thực hiện  việc xem xét, tính toán và cân nhắc đối với từng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có triển  vọng  trong  vùng  để  từ  đó  lập  ra  bảng  Danh mục  những  sản  phẩm  chủ  lực  ĐBSCL  đến  năm 2020. 8  5) Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xác định và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL  thời gian qua cũng như quan điểm, định hướng mục tiêu phát triển  sản phẩm chủ lực của  vùng thời gian tới, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải pháp chủ yếu, khả thi và đồng bộ  nhằm hỗ trợ các sản phẩm chủ lực phát triển một cách bền vững đến năm 2020.  6.  Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu của đề tài  6.1 Phương pháp tiếp cận vấn đề  Để tiếp cận vấn đề, tác giả thực hiện thông qua các phương pháp chủ yếu như:  +  Tiếp  cận hệ  thống:  Trong quá  trình nghiên cứu  xác định  sản phẩm  chủ  lực  của  Đồng bằng sông Cửu Long, những loại hàng hóa, dịch vụ không có tính đặc thù hoặc tính  đặt thù không cao, tác giả đặt chúng trong mối quan hệ hỗ tương với hàng hóa, dịch vụ  cùng  loại  trong  cả  nước.  Nghĩa  là  xem  hàng  hóa,  dịch  vụ  đó  của  Đồng  bằng  sông  Cửu  Long như là một bộ phận hữu cơ trong mối quan hệ tổng thể của cả nước.  + Tiếp cận logic: Từ việc nghiên cứu, thu thập các dữ liệu, thông tin thông qua tài  liệu, sách báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng để xây dựng các mô hình lý thuyết  về sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long, xem đây là giả thuyết để làm cơ sở  chứng minh cho tính đúng đắn của nó hoặc loại trừ nó.  +  Các  phương  pháp hỗ  trợ  khác:  Sử  dụng  các  phương  pháp  mô  hình  hóa,  sơ  đồ  hóa, phương pháp  thống  kê, phương pháp hồi qui  tuyến  tính…, đặc biệt  trong phân  tích  cạnh tranh sẽ áp dụng mô hình kim cương (diamond model) của Michael M. Porter để xác  định lợi thế cạnh tranh ngành hàng.  6.2 Phương pháp nghiên cứu định tính  Để thực hiện đề tài này, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp định tính để thu  thập phân tích và diễn giải dữ liệu nhằm mục đích khám phá các nhân tố và mối quan hệ  đến tính chủ lực của hàng hóa, dịch vụ. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu này chủ yếu là để xây  dựng  cơ  sở  lý  thuyết  một  cách  khoa  học  và  khách  quan  về  sản phẩm  chủ  lực.  Công  cụ  được sử dụng phổ biến trong giai đoạn này là: Khảo sát thực tế tại các địa phương, thảo  luận nhóm; Thảo luận tay đôi; Quan sát  ...  6.3 Phương pháp nghiên cứu định lượng  Các chỉ tiêu định lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực như:  Hệ số lợi thế hiển thị ngành (RCA); Hệ số thương mại ròng (NTR); Hệ số địa phương hóa  (LQ); Hệ số bảo hộ hiệu dụng (EPR); Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC)... 9  7. Khung nghiên cứu  Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN  PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC  Cơ sở  lý  luận xác định  SP chủ  lực  và phát triển sản phẩm chủ lực  ­  Lý luận chung về SP chủ lực  ­  Thuyết  lợi  thế  tuyệt đối  (A.Smith)  và lợi thế so sánh của (D.Ricardo)  ­ Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia  và Cụm phát triển của M. Porter  Phương pháp xác định và phát  triển SP chủ lực  ­ Các tiêu chí đánh giá và thang  điểm đánh giá xét chọn SP chủ lực  ­ Qui trình xác định SP chủ lực  ­ Các nội dung và nguyên tắc cơ  bản hỗ trợ phát triển SP chủ lực  Chương 2. THỰC TRẠNG  XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ  PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL THỜI GIAN QUA  Đánh  giá  tiềm  năng  phát  triển  sản  phẩm  chủ lực ĐBSCL  ­ Vận dụng mô hình  kim cương (M.Porter)  và các lý thuyết đã  khác trình bày  Thực  trạng  phát  triển  sản phẩm chủ lực  ­ Lĩnh vực nông nghiệp  và thủy sản  ­ Lĩnh vực công nghiệp  ­ Lĩnh vực thương mại  và dịch vụ  Thực  trạng  xác  định  sản phẩm chủ lực  ­  Xây  dựng  tiêu  chí  và  qui trình xác định  ­  Danh  mục  sản  phẩm  chủ  lực  ­ Nhận xét, đánh giá  Chương 3. XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT  TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL ĐẾN NĂM 2020  Xây  dựng  Hệ  thống  tiêu  chí  xác  định  sản  phẩm chủ lực ĐBSCL  ­Hệ thống tiêu chí  ­Thang điểm và phương  pháp tính toán  Xây  dựng  Danh  mục  SP chủ lực ĐBSCL  ­ Sản phẩm chủ lực  ĐBSCL 2006­2010  ­  Sản phẩm chủ lực  ĐBSCL đến năm 2020  Giải  pháp  triển  sản  phẩm chủ lực  ĐBSCL  ­ Giải pháp phát triển  sản phẩm chủ lực  ĐBSCL đến 2020 10  8. Kết cấu chung của luận án  Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo..., Luận án  được kết cấu thành ba chương:  Chương 1: Cơ sở khoa học cho  việc xác định sản phẩm chủ lực và phát triển  sản phẩm chủ lực  Chương này chủ yếu trình bày các quan điểm, khái niệm, định nghĩa về sản phẩm  chủ lực; phương pháp xác định hàng sản phẩm chủ lực; và vai trò ý nghĩa của sản phẩm  chủ  lực  trong  phát  triển  kinh  tế  vùng,  địa  phương;  các  lý  thuyết  có  liên  quan  và  kinh  nghiêm phát triển sản phẩm chủ lực ở một số quốc gia và địa phương trong nước.  Chương  2:  Thực  trạng  xác  định  và  phát  triển  sản  phẩm  chủ  lực  Đồng  bằng  sông Cửu Long thời gian qua  Chương  này  chủ  yếu  thực  hiện  việc  phân  tích,  đánh  giá  thực  trạng  xác  định  sản  phẩm và phát triển sản phẩm chủ lực ở ĐBSCL thời gian qua. Đưa ra nhận xét ưu, nhược  điểm trong việc xác định  sản phẩm chủ lực của các địa phương trong vùng để làm cơ sở  cho việc tiến hành xác định sản phẩm chủ lực cấp vùng đến năm 2020.  Chương 3: Xác định sản phẩm chủ lực  và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng  bằng sông Cửu Long đến năm 2020  Chương ba chủ yếu giải quyết 3 vấn đề cơ bản là: xây dựng Hệ thống tiêu chí xác  định  sản phẩm  chủ lực  ĐBSCL;  đề  xuất  Danh mục  sản phẩm  chủ  lực  ĐBSCL  đến năm  2020 và đề xuất một số giải pháp chủ  yếu phát triển  sản phẩm  chủ lực của ĐBSCL một  cách bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế.  Chương 1  CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM  CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC  1.1. Tổng quan về sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực  1.1.1. Định nghĩa về sản phẩm chủ lực  1.1.1.1. Một số quan điểm khác nhau về sản phẩm vụ chủ lực 11  Quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới luôn gắn liền với sự trỗi dậy  của những ngành hàng hoặc sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Những ngành hoặc sản phẩm  này đã trở thành yếu tố dẫn đạo tăng tưởng và phát triển kinh tế của quốc gia hoặc vùng  lãnh  thổ.  Điển  hình nhất  là Nhật bản,  20 năm  sau  thế  chiến  thứ  2  (1951  –  1973) đã  trở  thành nền kinh tế lớn của thế giới với GDP tăng trưởng gấp 20 lần. Các sản phẩm được  xem là thế mạnh cạnh tranh của Nhật giai đoạn này là tàu biển, xe máy, máy khâu, máy  ảnh, ti vi, thép, ô tô, sản phẩm hóa chất, hàng dệt,... Kế đến là Trung Quốc, trong ba thập  kỷ (từ 1978 đến 2007) với việc chuyển đổi từ nền công nghiệp không dựa vào lợi thế sang  nền công nghiệp dựa trên lợi thế nguồn nhân công dồi dào với các sản phẩm cấp thấp, giá  rẻ... đã đưa nền  kinh tế Trung quốc tăng trưởng một cách thần kỳ, đạt tốc độ trung bình  hàng năm 9,5%. Kết quả là từ một nước kém phát triển, Trung quốc đã vươn lên tốp bốn  nền  kinh  tế  hàng  đầu  thế  giới  (WB,  2007).  Tương  tự,  thông  qua  hai  cuộc  “Cách  mạng  xanh” với các sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm), công nghiệp phục vụ nông  nghiệp,... Ấn độ đã trở thành hiện tượng đặc biệt trong phát triển kinh tế nhờ vào xác định  và phát triển các ngành sản phẩm chủ lực phù hợp với lợi thế của mình [48], [49], [53]  Ở Việt Nam, sản phẩm chủ lực hay sản phẩm công nghiệp chủ lực là khái niệm mới  và thường xuất hiện trong một số văn bản quản lý Nhà nước vào thập niên đầu tiên thế kỷ  XXI. Lúc đầu, đây chỉ là thuật ngữ dùng để chỉ những sản phẩm có khả năng xuất khẩu  mạnh, chiếm tỷ trọng kim ngạch cao hoặc có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế của  đất nước. Gần đây, khái niệm này được sử dụng khá phổ biến và đã trở thành thuật ngữ  kinh tế quen thuộc không những với các nhà quản lý mà còn với cả các doanh nghiệp và  nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu về sản phẩm chủ lực của mỗi người, mỗi địa phương  lại có những điểm khác nhau khá rõ rệt. Dưới đây là những điểm khác nhau điển hình khi  nói về sản phẩm chủ lực.  v  Thể hiện trong các chủ trương, chính sách nhà nước  + Trước hết là khái niệm “sản phẩm chủ lực” của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi  trường  (nay  là  Bộ  Khoa  học  và  Công  nghệ)  là  sản  phẩm  giúp  gia  tăng  kim  ngạch  và  chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm  chế biến, sản  phẩm  có hàm  lượng  công nghệ  cao,  thúc đẩy  xuất  khẩu dịch  vụ  cũng  như  tạo điều  kiện  đẩy nhanh áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất theo phương châm lấy tiết kiệm  năng lượng, giảm giá thành và nâng cao  chất lượng sản phẩm làm trọng tâm (Quyết định 12  số: 21/2001/QĐ­bKHcnmt về việc “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản  phẩm xuất khẩu và sẩn phẩm chủ lực”) [1].  + Kế đến là Chương trình "Phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ  Chí Minh giai đoạn 2002­2005" đã giới hạn sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp  với thuật ngữ “sản phẩm công nghiệp chủ lực”. Theo Chương trình, những sản phẩm này  phải có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao  đối với người sản xuất, đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội địa và phát triển kinh tế  của Thành phố. Ngoài ra, sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp  Hồ Chí Minh giai đoạn  2002­2005 phải vừa có tính hiện đại, vừa có tính văn hóa truyền thống; vừa sử dụng nhiều  nguyên liệu trong nước vừa có thương hiệu mạnh và đặc biệt, phải bảo đảm về lao động và  thân thiện với môi trường (Quyết định số: 153 /2002/QĐ­UB) [2].  + Một khái niệm khác có thể tham khảo là “sản phẩm công nghiệp chủ lực” của Tp  Hà Nội ghi trong “Qui chế đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực Thành phố  Hà Nội”, Theo cách mô tả của Qui chế này thì “sản phẩm chủ lực” đã được giới hạn trong  phạm vi ngành công nghiệp với các đặc trưng cơ bản là: Có sức cạnh tranh trên thị trường  trong  và ngoài nước;  Được tạo ra  trên dây  chuyền  thiết bị  có  công nghệ  ngang  tầm  khu  vực, phù hợp với trình độ sản xuất và chiến lược phát triển của Thành phố trong từng thời  kỳ; Đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; Tạo ra mức tăng trưởng ổn định  ở  mức  cao  và  thuộc nhóm sản  phẩm  xuất  khẩu  chủ  lực  với  tỷ  trọng  đóng góp vào  tổng  GDP công nghiệp lớn (Quyết định số 03/2006/QĐ­UB) [17].  +  Cùng  một  quan  niệm  với  Tp  Hồ  Chí  Minh  và  Tp  Hà  Nội,  tỉnh  Đồng  Nai  với  “Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh Đồng Nai giai đoạn  2006­2010” cũng tập trung giới hạn ở “Sản phẩm công nghiệp chủ lực” và cho rằng, sản  phẩm công nghiệp chủ lực phải là sản phẩm đóng vai trò then chốt, quyết định đối với việc  thực  hiện các mục  tiêu, nhiệm  vụ đặt  ra  trong  một  thời kỳ  nhất định.  Đây  là  những  sản  phẩm  công  nghiệp  chiếm  tỷ trọng  cao  trong cơ  cấu  ngành công nghiệp  có  nhịp  độ tăng  trưởng và tỷ lệ giá trị gia tăng cao, có vị trí chi phối và  ảnh hưởng đến sự phát triển đối  với  nhiều  sản  phẩm  công  nghiệp  khác  cũng  như  có  sức  cạnh  tranh  cao  trên  thị  trường  trong  nước  và  xuất  khẩu  (Quyết  định  số  955/QĐ­UBND).  Nói  cách  khác,  đối  với  tỉnh  Đồng Nai thì sản phẩm chủ lực là sản phẩm công nghiệp có thế mạnh về giá trị sản lượng  và giá trị gia tăng; có sức tác động hay lan tỏa đến các sản phẩm công nghiệp khác, đồng  thời có khả năng tiêu thụ tốt trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước [9]. 13  v  Thể hiện trong các bài viết, tác phẩm nghiên cứu  + Với GS.TS Võ Thanh Thu, Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh,  Chuyên  gia  nghiên  cứu  khu  công  nghiệp,  trong  một  bài  viết  của  mình  cũng  đã  sử  dụng  khái niệm “sản phẩm chủ lực” và cho rằng nó phải có các đặc trưng như: Phải có tương lai  phát  triển  mạnh  về  công  nghệ,  có  khả  năng  cạnh  tranh  trên  thị  trường  quốc  tế  và  trong  nước; Phải khai thác được lợi thế của địa phương , là đặc trưng cho địa phương; Phải có  tính lan tỏa, kích thích các ngành khác, sản phẩm khác phát triển; Phải là những mặt hàng  mang hàm lượng chất xám cao, cũng như có khả năng xuất khẩu cao; Có thể là hữu hình  hoặc là vô hình. Ở đây GS.TS Võ  Thanh Thu đã đưa ra thêm 2 điểm khác quan trọng là  sản phẩm chủ lực phải có sự lan tỏa đến các ngành khác, sản phẩm khác và lôi kéo chúng  cùng phát triển, đồng thời sản phẩm chủ lực không chỉ là hữu hình mà còn có thể là vô  hình nữa. +  Với  TS  Lê Tấn  Bửu,  Trưởng  khoa  Thương  mại­Du  lịch­Marketing,  trường  Đại  học Kinh tế TP.HCM thì sản phẩm chủ lực phải là sản phẩm trong công nghiệp chế biến  nông,  thủy  sản  vì  đây  là  thế  mạnh  của  Việt  Nam  mà  trọng  điểm  là  ĐBSCL,  đồng  thời  chúng còn là nguồn cung sản phẩm thiết yếu thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho toàn xã hội.  Như vậy, trong thực tế nghiên cứu cho thấy, ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi  thời  kỳ khác  nhau  việc nhận  thức  về  sản  phẩm  chủ  lực  có  khác nhau.  Chính  từ  sự nhận  thức khác nhau như vậy mà việc lựa chọn sản phẩm chủ lực và chính sách hỗ trợ phát triển  sản phẩm chủ lực ở mỗi địa phương thời gian qua cũng có khác nhau. Tuy nhiên, có một  vấn đề mà mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và mọi thời đại đều thống nhất với nhau chính là  lợi ích của việc xét chọn sản phẩm chủ lực, đồng thời xem việc tìm ra sản phẩm chủ lực để  tập  trung  đầu  tư  phát  triển  là  nhiệm  vụ  có  tính  chiến  lược  đối  với  mỗi  quốc  gia,  địa  phương và vùng lãnh thổ. Chính vì điều này mà trước tiên, Luận án  cần đi đến một nhận  thức chung, nhất quán về sản phẩm chủ lực.  1.1.1.2. Nhận thức chung về sản phẩm chủ lực  Trước  hết,  cần  bắt  đầu  với  thuật  ngữ  “chủ  lực”.  Theo  Từ  điển  tiếng  Việt  thông  dụng, Nhà xuất bản Giáo dục 2003 thì đây là lực lượng chính, giữ vị trí nòng cốt và có tác  dụng  quyết  định. Ứng  với  tiếng  Anh là  “driving  force”  (lực lượng  có tính dẫn đạo) hay  “main force” (lực lượng chính). Thuật ngữ này được dùng phổ biến trong quân sự để chỉ  lực  lượng quan trọng nhất  có  ý nghĩa  quyết  định  chiến  trường  như  “quân  chủ  lực”, “bộ  đội”  chủ lực...Lực lượng  này  được  sử  dụng  khi  cần  giải  quyết  các mục  tiêu  chiến lược, 14  quyết  định  đến  phạm  vi  toàn  cục.  Đặc  trưng  của  chủ  lực  là  tập  trung  với  số  lượng  lớn,  được huấn luyện chính qui, chuyên nghiệp, trang bị hiện đại và có khả năng cơ động tác  chiến trên diện rộng.  Vậy sản phẩm chủ lực là gì? Có thể nói, sản phẩm trong Luận án này là khái niệm  dùng để chỉ sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được thương mại hóa, tức  là sản phẩm hữu  hình hoặc vô hình được sản xuất và cung ứng nhằm mục đích thương mại. Khái niệm sản  phẩm ở đây còn được mở rộng đến ngành hàng hay một nhóm các sản phẩm có cùng tính  năng, mục đích sử dụng hay qui trình công nghệ sản xuất. Ví dụ, ngành hàng thực phẩm  chế  biến  có  thịt  đóng  hộp,  cá  đóng  hộp,  thịt  đông  lạnh,  cá  đông  lạnh...,  ngành  hóa  mỹ  phẩm có bột giặt, nước xả, chất tẩy rửa gia dụng, mỹ phẩm....Khi tham khảo các tài liệu  tiếng Anh, tác giả thường thấy xuất hiện các từ hoặc cụm từ có thể được xem là tương ứng  với  sản phẩm  chủ  lực  hay  ngành hàng  chủ lực  như:  key products, main products, major  products  hoặc key sectors, main sectors.  ­ Main products: Là sản phẩm chính, sản phẩm chủ yếu của một công ty, giữ vị trí  chủ yếu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu hoặc tạo nên hình ảnh doanh nghiệp. Ví dụ main  products của Seaprodex gồm: Fresh (cá tươi), Frozen (đông lạnh), Processed (chiến biến),  Canned (đóng hộp)...  ­ Key products: Sản phẩm chủ yếu của công ty. Ví dụ sản phẩm chủ  yếu của Công  ty TNHH điện tử Nam Phương gồm có: Design and install all of Distributor Board (Thiết  kế và cài  đặt tất  cả  các bảng  phân  phối  điện),  Control  Board  (Bảng  kiểm  soát  điện),  Electric  Box  (Hộp  điện), Capacitor  Bank  medium  and  low  Voltage  (Tụ  bù  trung  áp  và  thấp áp)….  ­ Major Products: Sản phẩm chính của công ty, doanh nghiệp hay quốc gia. Ví dụ  sản  phẩm  chính  của  Sumikin  Bussan  Special  Steel  Co.,  Ltd  là:  Tubes  and  Pipes  (ống  nước, ống kết  cấu cho xe ô  tô,  máy  móc  và ống  thép đặc  biệt cho  các nhà máy hóa dầu);  Steel Sheets and Plates (thép tấm); Construction Materials (thép xây dựng); Bar and Wire  Rods (thanh thẳng, thanh cuộn) và Raw Materials (thép nguyên liệu thô). Hay sản phẩm  chính của Nhật: Xe máy, Xe hơi, Thiết bị điện và Máy vi tính…Trong đó, xe gắn máy với  nhãn hiệu Honda, Suzuki, Yamha hay xe hơi với nhãn hiệu Toyota hoặc thiết bị điện tử,  điện lạnh của Sony… là biểu tượng, là nét văn hóa của nước Nhật xưa và nay.  ­ Key sectors: Ngành hàng hoặc lĩnh vực sản xuất quan trọng, chủ yếu của một địa  phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia. Ví dụ, để qui hoạch phát triển Ấn Độ đã xác định có 15  các key sectors như: Agriculture (Nông nghiệp); Commerce & Industries (Công nghiệp và  thương mại); Finance (Tài chính); Communication & IT (Công nghệ thông tin và truyền  thông); Education (Giáo dục); Health & Family welfare (Y tế và phúc lợi gia đình)....  Từ những  kết  quả phân tích đã  trình bày ở phần  trên,  có  thể nhận diện  sản phẩm  chủ  lực  thông qua định  nghĩa như  sau:  “Sản  phẩm  chủ  lực  là  sản  phẩm hàng hóa  hoặc  dịch vụ chủ yếu, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn  và năng lực cạnh  tranh cao; là trung tâm lan tỏa, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển; đồng thời  nó  còn  có  thể là  sản phẩm  thể hiện  tính đặc  thù riêng,  mang  ý nghĩa  văn hóa  của  một  quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ” 1 .  1.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm chủ lực  Từ sự nhận thức như đã trình bày ở phần trên, có thể rút ra năm đặc trưng cơ bản  của sản phẩm chủ lực như sau:  1) Sản phẩm có qui mô khối lượng lớn và tính đồng nhất cao  Một sản phẩm muốn trở thành chủ lực trước tiên phải là sản phẩm được sản xuất ra  để trao đổi mua bán với khối lượng lớn và đạt được độ đồng nhất cao. Nói cách khác, hàng  hóa chủ lực phải được sản xuất theo qui mô tập trung, công nghiệp với công nghệ tiên tiến  nên có thể đảm bảo được khối lượng cung ứng lớn cho thị trường đồng thời chất lượng,  mẫu mã  kiểu dáng  và  các tính năng  khác phải  giống nhau  giữa  các  cá  thể.  Rõ  ràng,  sản  phẩm không thể trở thành chủ lực nếu chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún với phương pháp thủ  công, mang tính cá biệt cao. Bởi, nếu như vậy không thể có được thị trường rộng lớn, mãi  lực yếu, sức cạnh tranh không cao.  2) Sản phẩm có năng lực cạnh tranh quốc tế  Sản phẩm chủ lực phải là những sản phẩm đảm bảo các yêu cầu về mặt chất lượng,  thiết  kế  kỹ  thuật, mẫu mã, kiểu dáng…theo  tiêu  chuẩn quốc  tế;  có  khả năng tiêu thụ  tốt  không những trên thị trường trong nước mà còn xuất khẩu, đồng thời luôn chiếm được ưu  thế cạnh tranh trước các đối thủ quốc tế khác. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng  sâu rộng, môi trường cạnh tranh không còn đơn giản với không gian nhỏ hẹp trong nước  mà cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh mang tính toàn cầu với nhiều phương thức phức tạp.  Do vậy, một sản phẩm trở thành chủ lực của một quốc gia nhất thiết phải có được năng lực  cạnh tranh tốt trên phạm vi quốc tế để có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững.  3) Sản phẩm có sức lan tỏa mạnh  1  Tác giả tổng hợp và chọn lọc từ các định nghĩa trong nhiều tài liệu đã có 16  Có thể nói, sản phẩm chủ lực là những sản phẩm có sự liên hệ mật thiết với nhiều  ngành hàng hay sản phẩm khác, ảnh hưởng trực tiếp lên các sản phẩm, ngành hàng khác  và lôi kéo chúng cùng phát triển theo. Mặt khác, quá trình phát triển của sản phẩm chủ lực  cũng thường xuyên chịu sự tác động bởi các ngành hàng hoặc sản phẩm khác. Sự liên hệ  này được thể hiện thông qua các mối liên hệ chuỗi giá trị (sự kết nối liên tiếp về mặt công  nghệ trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) hoặc các mối liên hệ bổ trợ (mối liên hệ tương  hỗ tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm). Với tính chất  lan tỏa như vậy, thực tế cho thấy khi sản phẩm chủ lực phát triển sẽ tạo ra nhu cầu hỗ trợ,  nhu cầu liên kết…từ đó kích thích, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển theo.  4) Sản phẩm mang tính đặc thù của quốc gia, vùng lãnh thổ  Một  sản  phẩm  chủ  lực  còn  là  sản  phẩm  thể  hiện  lợi  thế  đặc  trưng  của  quốc  gia,  vùng lãnh thổ mà không nơi nào khác có thể sánh kịp. Người tiêu dùng bỏ tiền mua sản  phẩm ấy chính bởi những giá trị đặc trưng mà họ thấy được từ sản phẩm, đồng thời đối thủ  cạnh tranh khó lòng bắt chước vì thiếu những điều kiện mang tính  lợi thế cạnh tranh của  quốc  gia hay  vùng  lãnh  thổ  (vị  trí địa  lý,  tài nguyên  thiên nhiên,  lao động…).  Ngoài  ra,  nhiều  sản phẩm chủ lực còn là  biểu tượng văn hóa của quốc gia  hay vùng lãnh thổ, góp  phần tạo nên thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế.  5) Sản phẩm có tính an toàn và thân thiện với môi trường  Sản phẩm chủ lực nhất thiết phải là sản phẩm mà trong quá trình khai thác nguyên  liệu, sản xuất, tồn tại, sử dụng và sau khi thải bỏ  không gây hại hoặc ít gây hại hơn cho  môi trường so với sản phẩm cùng loại và được các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc  quốc tế công nhận. Hoặc, sản phẩm được tạo ra có khả năng thay thế cho các nguyên liệu  tự nhiên mà trong quá trình tồn tại, sử dụng hoặc sau khi thải bỏ gây hại ít hơn cho môi  trường so với sản phẩm được thay thế.  1.1.1.4. Điểm khác cơ bản của khái niệm sản phẩm chủ lực trong Luận án  Có thể thấy, về cơ bản Luận án đã kế thừa có chọn lọc các khái niệm mà các tài liệu  trước đây đưa ra. Tuy nhiên, nếu xét ở phạm vi nội dung và ý nghĩa cũng như so sánh với  từng tài liệu riêng rẻ thì Luận án đã đưa ra nhiều điểm mới.  Bảng 1.1. Điểm khác nhau giữa Luận án với các tài liệu về sản phẩm chủ lực  Khái niệm trong Luận án  Các khái niệm trước đây 17  Nêu  bật  mục  đích  chính  của  sản  phẩm  Chỉ  cho  biết  sản  phẩm  nói  chung  chứ  chưa  được  tạo  ra  là  để  trao  đổi  mua  bán,  đặc  thể hiện rõ mục đích tạo ra là để trao đổi mua  biệt là mua bán quốc tế.  bán, nhất là mua bán quốc tế.  Xác định rõ sản phẩm của vùng, miền dựa  Xác định sản phẩm của địa phương, dựa vào  trên  tiềm  năng,  lợi  thế  chung  của  vùng,  điều kiện sản xuất đặc thù của địa phương và  miền quyết định một cách khách quan.  do doanh nghiệp quyết định theo chủ quan  Bao  gồm  cả  sản phẩm  công nghiệp, nông  Thường  chỉ  đề  cập  chủ  yếu  đến  sản  phẩm  nghiệp ­ thủy sản và dịch vụ  công nghiệp, hoặc nông nghiệp  Sản phẩm vừa giữ vị trí chủ yếu tạo ra giá  Chú  trọng  đến  khía  cạnh  tạo  ra  giá  trị  sản  trị sản lượng vừa là trung tâm lan tỏa đến  lượng,  tốc  độ  tăng  trưởng,  hiệu  quả...  riêng  các ngành nghề khác  của sản phẩm chủ lực mà thôi.  Sản  phẩm  không  những  mang  giá  trị  vật  Chỉ chú trọng đến việc nhấn mạnh giá trị vật  chất, giá trị kinh tế mà nó còn mang cả giá  chất, giá trị kinh tế mà thôi  trị phi vật thể: nhân văn, văn hóa…  Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng  1.1.2. Ý nghĩa của việc xác định sản phẩm chủ lực  Việc xác định đúng sản phẩm chủ lực của một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh  thổ có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể:  1)  Xác định  đúng  sản phẩm chủ  lực đồng nghĩa  với  việc  xác  định  được  năng  lực  cạnh  tranh  cốt  lõi  của  quốc  gia,  vùng  lãnh  thổ…,  để  từ  đó  có  chính  sách  đầu  tư  đúng  hướng, tập trung và có chiều sâu.  Xác định đúng sản phẩm chủ lực là cơ sở để tập trung nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ đầu  tư  phát  triển  một  cách  có  trọng  tâm,  trọng  điểm  và  theo  chiều  sâu  trên  cơ  sở  lợi  thế  so  sánh, không dàn trải làm lãng phí vốn đầu tư. Qua đó, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng  suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh cho từng loại sản phẩm và qua  đó  tạo môi trường  thuận lợi cho sản xuất phát triển, đảm bảo cho những sản phẩm được  chọn có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế ­  xã hội của địa phương và hội nhập kinh tế quốc tế. 18  2) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa xác định đúng trung tâm lan tỏa,  nguồn phát tác hấp lực từ tập trung chuyên môn hóa – hiện đại hóa sản xuất và cung ứng,  có tác động lôi  kéo các ngành nghề liên quan, dịch vụ bổ trợ phát triển.  Xác định đúng sản phẩm chủ lực nghĩa là đã xem xét một cách đầy đủ  các ngành  nghề có liên quan trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa, khi tập trung đầu tư phát triển một  ngành hàng chủ lực nào đó sẽ đồng thời phải đầu tư cho các ngành có liên quan khác làm  cho chúng có điều kiện phát triển theo. Ngược lại, cũng thông qua quá trình xem xét này,  có  thể  xác  định  được  những  ngành  nào  có  khả  năng  lan  tỏa  đến  nó  để  có  chính  sách  khuyến khích đầu tư và qui hoạch phát triển một cách tương ứng và đồng bộ.  3) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng đồng nghĩa với việc định vị đúng nền kinh  tế trong chiến lược cạnh tranh toàn cầu.  Sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương thể hiện đẳng cấp,  thực trạng và tương lai phát triển kinh tế của quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đó.  Căn cứ vào định vị này, các quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đẩy mạnh chuyển dịch  cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp và hiệu quả nhất, nhằm góp phần giải quyết các bất ổn  kinh tế vĩ mô và đảm bảo tăng trưởng một cách bền vững.  4)  Xác  định  đúng  sản  phẩm  chủ  lực  cũng  có  nghĩa  là  xác  định  đúng  đối  tượng  khách hàng và  thị  trường  tiêu  thụ để  tăng  cường áp  dụng  các hệ  thống quản  lý  và thực  hành chất lượng phù hợp.  Để đối mặt với sự cạnh tranh mang tính quốc tế, các doanh nghiệp phải tạo ra được  những sản phẩm bảo đảm chất lượng, thương hiệu và uy tín, được khách hàng ưa chuộng.  Muốn vậy, các nhà sản xuất phải đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất  tiên tiến, hiện đại cũng như áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng một cách toàn  diện theo chuẩn quốc tế, đáp ứng với những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng.  1.1.3. Một số lý thuyết liên quan đến xác định và phát triển sản phẩm chủ lực  1.1.3.1. Thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723­1790)  Adam  Smith được  coi  là  cha đẻ  của kinh  tế học hiện đại.  Tác phẩm  lớn nhất  của  ông là 'The Wealth of Nations' xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ông nhấn mạnh lợi ích của  chuyên môn hoá và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường, phản hồi qua hệ thống giá.  Có lẽ tư tưởng gắn liền với ông là Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage). Trong  mô hình kinh tế cổ điển, các nhà học giả cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi  nhu cầu lương thực tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm 19  bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Trong điều kiện đó,  A. Smith cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với giá  rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi  thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương.  Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí  nguồn lực để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Khi một nước sản xuất sản phảm có chi  phí cao hơn (do hạn chế về nguồn lực) có thể nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí  sản xuất thấp hơn (do có ưu thế về nguồn lực). Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối  với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi  bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao  sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem  lại hiệu quả. Điều này gọi là bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước.  Ngày  nay,  đối  với  các  nước  đang  phát  triển  như  Việt  Nam  việc  khai  thác  lợi  thế  tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm,  đặc biệt là công nghệ sản xuất với chi phí chấp nhận được mà phải nhập khẩu công nghệ.  Khi nhập  công nghệ  sản  xuất,  lao động  trong  nước  sẽ học  được  cách  sử dụng máy móc  thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này,  vai trò đóng góp của ngoại thương giữa các nước công nghiệp phát triển  (có lợi thế tuyệt  đối về công nghệ) và các nước đang phát triển  (có lợi thế  tuyệt đối về nguồn lực) thông  qua  bù đắp  sự  yếu  kém  về  khả  năng  sản  xuất tư  liệu sản  xuất  và  yếu  kém về  kiến thức  công nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối [55].  1.1.3.2. Thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (1772­1823)  Học thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các  quốc gia dựa trên nền tảng học thuyết về giá trị lao động. Theo học thuyết này thì ngoại  thương  có  lợi  cho  mọi  quốc  gia  miễn  là  xác  định  đúng  lợi  thế  so  sánh.  Nghĩa  là  việc  chuyên môn hóa của mỗi nước phải dựa trên lợi thế khi đối chiếu so sánh hao phí lao động  cho mỗi đơn vị sản phẩm giữa các quốc gia. Muốn xác định lợi thế so sánh ta phải xác lập  lợi thế tuyệt đối. Toàn bộ phân tích của D. Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự  khác  nhau  giữa  các  nước  trong công  nghệ sản  xuất  dẫn  đến năng  suất vật  chất  và  đòi  hỏi lao động đơn vị khác nhau.  Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công  nghệ  như  nhau:  các  nước  phát  triển có  cung  về tư  bản nhiều  hơn các  nước  đang  phát 20  triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên  một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy  giá thuê tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại  ở các nước đang phát triển giá thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản.  Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước  đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công.  Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế  so sánh cao một cách  tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có  lợi  thế  so  sánh  về  những hàng  hóa này.  Điều  này  lý  giải  vì  sao Việt  Nam lại xuất  khẩu nhiều  sản  phẩm  thô  hoặc  sơ  chế  như  dầu  thô, than  đá,  thủy  sản  đông  lạnh...  hoặc  hàng hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc,  thiết bị từ các nước phát triển [3].  1.1.3.3. Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal E. Porter (1772­1823)  Michael E. Porter là người đã đưa ra môn học về chiến lược cạnh tranh và mô hình  phân tích cấu trúc ngành. Về lý luận cạnh tranh, ông đã xuất bản ba cuốn sách nổi tiếng  thế giới và được sử dụng trong hầu hết các chương trình đào tạo MBA của các nước. Đó là  cuốn ''Chiến lược cạnh tranh'' xuất bản năm 1980, cuốn ''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và  cuốn  ''Lợi  thế  cạnh  tranh  quốc  gia”  vào  năm  1990.  Trong  tác  phẩm  Lợi  thế  cạnh  tranh  quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh  vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình “Kim cương”. Theo Porter  thì không một quốc gia nào có được khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết  các ngành mà chỉ có thể thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi  thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Theo ông, khả năng cạnh tranh của  một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành  của  quốc  gia  đó. Khi nền  tảng  của  cạnh  tranh  càng  chuyển  dịch sang  sự  sáng  tạo  và  tri  thức mới  thì vai  trò  của quốc  gia càng  tăng lên. M.  Porter  cho  rằng  các nền  kinh  tế đều  phải trải qua 3 giai đoạn phát triển cạnh tranh, đó là: cạnh tranh dựa vào yếu tố sản xuất,  cạnh  tranh dựa vào đầu tư, cạnh tranh dựa vào đổi mới và sáng tạo. Các giai đoạn cạnh  tranh phản ánh nguồn lợi thế đặc trưng, bản chất và quy mô của những ngành phải đối mặt  với cạnh tranh quốc tế.  Việc phân chia các giai đoạn cạnh tranh chỉ mang tính chất tương đối và các quốc  gia hay các địa phương không nhất thiết phải đi qua tất cả các giai đoạn, nhưng việc xác
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan