1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một trong những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu bậc nhất Đông Nam Á và thế
giới, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, thủy hải sản và cây ăn trái
nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Hơn thế, nó còn là vùng kinh tế trọng điểm cả nước, có vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước
trong khu vực và thế giới. Quá trình cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc
tế mà thời gian qua đã giúp cho các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và đặc biệt là nông
nghiệp ở ĐBSCL đạt được những thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng GDP lập nên kỷ
lục mới, xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài không ngừng gia tăng; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch dần từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp, thương mại dịch vụ và
nông nghiệp công nghệ cao; thu nhập bình quân đầu người tăng lên và đời sống xã hội
không ngừng được cải thiện; một số sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế
biến đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực đem về nhiều ngoại tệ cho các đại phương
trong vùng và cả nước…. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế của ĐBSCL thời gian qua
cũng bộc lộ khá nhiều yếu kém: tăng trưởng xuất khẩu không ổn định, còn chứa đựng
nhiều yếu tố không bền vững và dễ bị tổn thương bởi những cú sốc từ bên ngoài; sản
phẩm chủ lực còn ít và phát triển chậm, chưa chuyển dịch theo hướng tăng hàm lượng trí
tuệ và công nghệ cao nên chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của vùng; năng lực cạnh
tranh trong xuất khẩu của các sản phẩm còn thấp…. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên
cứu, sự phát triển kinh tế xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long còn khá biệt lập, chưa có
sự gắn kết chặt chẽ với các vùng khác của đất nước cũng như quốc tế. Đồng thời, sự phát
triển của vùng cũng rất thiếu đồng bộ, chưa cân xứng giữa các ngành nghề, lĩnh vực và
giữa các địa phương; phát triển nặng về chiều rộng, chạy theo số lượng nên chất lượng,
hiệu quả và đặc biệt là tính cạnh tranh quốc tế không cao…
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ
yếu có thể khẳng định là thiếu vắng những sản phẩm chủ lực có khả năng tạo ra giá trị gia
tăng lớn, sức cạnh tranh cao và nhất là tạo được động lực thúc đẩy khai thác một cách hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, lao động và những lợi thế “trời cho” mà không một nơi nào
khác có được ngoài vùng đất nầy. Vấn đề đặt ra ở đây là, làm cách nào để ĐBSCL xác
định được sản phẩm chủ lực hoặc hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng để tập trung đầu tư phát
2
triển; làm cách nào để cho sản phẩm chủ lực ĐBSCL có thể cạnh tranh ngang ngửa với
hàng hóa, dịch vụ cùng loại trong cả nước và trên thế giới; và làm cách nào để sản phẩm
chủ lực ĐBSCL không ngừng phát triển và phát triển một cách bền vững trong môi trường
hội nhập và cạnh tranh quốc tế…
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, việc nhanh chóng nghiên cứu để tìm ra những
sản phẩm chủ lực, giữ vai trò chủ đạo đồng thời tạo ra cú đột phá mạnh mẽ cho phát triển
kinh tế ĐBSCL trong tương lai gần cũng như lâu dài là yêu cầu khách quan và bức thiết ở
thời điểm hiện nay. Và, đây cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài: “Xác định sản
phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng sông Cửu Long đến năm
2020” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của bản thân.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án tập trung vào nghiên cứu 3 mục tiêu cơ bản sau đây:
1) Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực phù hợp với điều kiện thực tế và
tính đặc thù của ĐBSCL để làm cơ sở đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực thống nhất cho
toàn vùng.
2) Danh mục các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL đến năm 2020.
3) Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển một cách bền vững sản phẩm chủ lực
ĐBSCL trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận án sẽ tập trung thực hiện xuyên suốt các
nhiệm vụ trọng tâm như sau:
1) Nghiên cứu hệ thống hóa lý thuyết về sản phẩm chủ lực và vận dụng nó để làm
sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá, xét chọn và
phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL từ nay đến năm 2020.
2) Phân tích, đánh giá nhu cầu thị trường, tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm
chủ lực cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực ĐBSCL để từ đó xây dựng Hệ
thống tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực vùng từ nay đến năm 2020.
3) Trên cơ sở Hệ thống tiêu chí, tiến hành phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những
hàng hóa hội đủ điều kiện hoặc có triển vọng để hình thành Bảng danh mục sản phẩm chủ
lực ĐBSCL từ nay đến năm 2020.
3
4) Phân tích, đánh giá những thành tựu cũng như tồn tại, hạn chế trong thực tế xét
chọn và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL thời gian qua để từ đó đề xuất các giải pháp
khắc phục nhằm phát triển hơn nửa sản phẩm chủ lực của vùng trong tương lai lâu dài .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chủ lực
mang đặc trưng cho lợi thế, tiềm năng và gắn chặt với quá trình phát triển kinh tế của
vùng, đồng thời đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản phẩm chủ lực của Đồng
bằng sông Cửu Long giai từ nay đến năm 2020.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Đối với hàng hóa, dịch vụ: Các loại hàng hóa, dịch vụ đã, đang và có triển vọng
phát triển để tham gia thị trường và giữ vai trò chủ lực trong chiến lược phát triển kinh tế
vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020
Đối với địa bàn nghiên cứu: Ngoài các tỉnh, thành thuộc khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, khi nghiên cứu nhu cầu thị trường thì phạm vi nghiên cứu được mở rộng ra
nhiều tỉnh, thành phố lớn trong cả nước.
4. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Phát triển cụm công nghiệp gắn với phát triển vùng lãnh thổ và địa phương, hoặc
phát triển ngành hoặc sản phẩm công nghiệp chủ lực của địa phương, từ lâu đã có nhiều
công trình trong và ngoài nước nghiên cứu, nhiều tài liệu, lý thuyết đề cập tới. Tuy nhiên,
nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực cho một vùng kinh
tế như ĐBSCL thì hầu như chưa được nghiên cứu bao giờ. Vì vậy, quá trình nghiên cứu,
Luận án chỉ tiếp cận được với các tài liệu có nội dung gần với chủ đề đặt ra.
4.1. Tài liệu nước ngoài
1) Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của M.Porter (1990). Porter cho rằng,
các lý thuyết phát triển truyền thống như lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so
sánh của David Ricardo xem nền kinh tế như là sự “định hướng bởi yếu tố nguồn lực”.
Tức, lợi thế của một quốc gia trong thương mại quốc tế được xác định bởi các yếu tố
nguồn lực như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động và qui mô dân số địa phương vì
chúng tạo ra chi phí thấp. Tuy nhiên, theo Porter thì "sự thịnh vượng của quốc gia được
tạo ra chứ không phải được thừa kế", nên cần có sự tập trung đầu tư mạnh mẽ để nâng cao
hiệu quả thông qua cải thiện năng suất lao động hoặc sáng tạo ra các sản phẩm với giá trị
4
độc đáo. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thành công khi vận dụng tư tưởng này của Porter
và các lý thuyết cạnh tranh khác vào việc xác định lợi thế cạnh tranh để phát triển cụm
chuyên môn hóa và sản phẩm chủ lực [20], [21].
2) Lý thuyết cụm phát triển của M. Porter (1990). Ban đầu, Porter cung cấp các
nguyên lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho
các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia. Porter cho rằng, một cụm được xem là có lợi
thế so sánh nếu sản phẩm, năng suất và tốc độ tăng trưởng cao hơn các cụm khác. Ở cấp
vùng, các chính sách phát triển cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn
với các chiến lược phát triển địa phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về
nguyên tắc được sử dụng như là công cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên
kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. Từ năm 1990, nhiều quốc gia trên thế giới đã vận
dụng thành công lý thuyết này vào lựa chọn và phát triển ngành/sản phẩm chủ lực tập
trung theo không gian địa lý (Porter 1990) hoặc [48].
3) Sự phát triển của khái niệm cụm Kinh nghiệm hiện tại và triển vọng, Christian
H. M. Ketels (2003). Ketels đã trình bày khung khái niệm về cụm (cluster) của Michael
M. Porter, các loại hình cụm, sự tiến hóa cuả cụm và cụm với hiệu quả kinh tế. Ngoài ra,
Ketels cũng nói đến những phát hiện trong thực nghiệm đối với cụm, cụm dựa trên chính
sách phát triển kinh tế và xem đây như là mô hình phát triển kinh tế mới. Thông qua công
trình nghiên cứu này, Ketels đã mở rộng hơn về khái niệm cụm so với khái niệm ban đầu
của Michael M. Porter và qua đó, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ hơn tầm quan trọng
của cụm đối với phát triển kinh tế địa phương trong môi trường cạnh tranh toàn cầu [48].
4) Lý thuyết điểm trung tâm của Christaller (1933). Lý thuyết này cho rằng, vùng
nông thôn chịu lực hút của thành phố và coi thành phố là cực hút và hạt nhân của sự phát
triển. Từ đó, đối tượng đầu tư có trọng điểm cần được xác định trên cơ sở nghiên cứu mức
độ thu hút và ảnh hưởng của một trung tâm và cũng sẽ xác định bán kính vùng tiêu thụ các
sản phẩm của trung tâm. Trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, xác định giới hạn của thị
trường ngoài ngưỡng giới hạn không có lợi trong việc cung cấp hàng hoá của trung tâm.
Lý thuyết này được Alosh (Đức) bổ sung. Điểm đáng chú ý của lý thuyết điểm trung tâm
là xác định được quy luật phân bố không gian tương ứng giữa các điểm dân cư, từ đó có
thể áp dụng quy hoạch các điểm dân cư trên lãnh thổ mới khai thác [45].
5) Một nghiên cứu về các chỉ số năng lực cạnh tranh, G. Arzu INAL (2003). Trong
bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng và sự quan tâm ngày càng sâu sắc của các
5
giới, đặc biệt các nhà sản xuất kinh doanh đến chiến lược cạnh tranh hiệu quả, nhiều nhà
nghiên cứu đã cố gắng xác định khả năng cạnh tranh và phát triển các chỉ số định lượng
thích hợp để đo lường sức mạnh cạnh tranh. Với sự nỗ lực của mình, G. Arzu INAL đã
nghiên cứu, tổng hợp và đưa ra 16 chỉ số có thể đo lường năng lực cạnh tranh của quốc
gia, địa phương hay vùng lãnh thổ. Trong đó, có nhiều chỉ số thích hợp cho việc đo lường
năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ làm cơ sở xây dựng tiêu chí xác định hàng hóa,
dịch vụ chủ lực của địa phương [47].
Ngoài các tài tiệu trên, nhiều tài liệu khác cũng có nội dung liên quan vần đề này
được tác giả tham khảo như: “Regional innovation systems (RIS) in China của Jon
Sigurdson” đăng trên Working Paper No 195, July 2004 [49]; “Sustaining the Green
Revolution in India” của S. Nagarajan [50]; “Economic contributios of Thailand’s creative
industries”, đăng trên tạp chí Fiscal Policy Institute 2009 [47]; “Koji – The key product in
Japanese alcoholic beverages and fermented foods, Tokyo University of Agriculture
Sedagayaku, Tokyo, Japan [54]; “Identifying and assessing the factors that influence
cluster’s competitiveness in Oregon, and some initial suggestions”, Luận án Tiến sĩ của
Sam Gi Hong (2007) [52]....Nhìn chung các tài liệu này đều nhấn mạnh đến vai trò của
phát triển cụm ngành sản phẩm trong chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia và đề
xuất các chính sách hỗ trợ để cụm phát triển một cách bền vững.
4.2 Tài liệu trong nước
1) Luận án Tiến sĩ “Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các
tỉnh vùng Bắc Trung bộ” của Nguyễn Hồng Lĩnh (2007). Luận án đã vận dụng các lý
thuyết liên quan, đặc biệt là mô hình kim cương của M. Porter để phân tích tìm ra các
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn
các tỉnh Bắc Trung bộ. Trên cơ sở xử lý các số liệu thu thập từ báo cáo thống kê và khảo
sát thực tế; rút kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp chế biến ở một số nước Đông
Nam Á và dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, Luận án đã xác định các ngành công
nghiệp chế biến nông, lâm sản chủ lực để phát triển trên địa bàn Bắc Trung bộ [9].
2) Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia dến năm 2020 của Chính phủ. Theo
Chương trình, sẽ hình thành và phát triển hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam bằng
công nghệ tiên tiến, có năng lực cạnh tranh cao về tính mới, chất lượng, giá thành dựa trên
việc khai thác lợi thế so sánh các nguồn lực trong nước. Trong đó, giai đoạn 2010 – 2015
phải hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm dựa trên công nghệ tiên tiến và do các
6
doanh nghiệp khoa học và công nghệ sản xuất; giai đoạn tiếp theo sẽ mở rộng qui mô sản
xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm được xây dựng ở giai đoạn 2010 – 2015, mở rộng
thị trường, tăng cường xuất khẩu và xây dựng thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên trường
quốc tế [24].
3) Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001 –
2005 của Bộ Khoa họcCông nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) với
chủ đề “ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm
chủ lực”. Mục đích của Chương trình là nhằm gia tăng kim ngạch và chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng
công nghệ cao cũng như thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. Nội dung chủ yếu của Chương trình
là nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển công nghệ về giống cây trồng và vật nuôi có
năng suất, chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh…; xây dựng các mô hình thâm canh và
sản xuất công nghiệp trong nuôi trồng nông, lâm, thủy hải sản theo hướng bền vững và
bảo vệ môi trường sinh thái...[1]
4) “Quy chế đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực
Thành phố Hà Nội”. Theo Qui chế này, cơ sở xác định sản phẩm công nghiệp chủ lực của
Thành phố là các tiêu chí gồm sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; được
tạo ra trên các dây chuyền thiết bị có trình độ công nghệ ngang tầm khu vực, phù hợp với
trình độ sản xuất trong từng thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
Thành phố, đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; tạo ra mức tăng trưởng
cao, ổn định; hoặc thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực, đóng góp tỷ trọng lớn vào
tổng GDP công nghiệp. Qui trình xét chọn có 4 bước: đề xuất doanh nghiệp tham gia
Chương trình; khảo sát sản phẩm công nghiệp; tổ chức đánh giá, xét chọn và công nhận
sản phẩm chủ lực...[17].
5) Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2002 – 2005”. Theo Chương trình này, Hệ thống tiêu chí lựa chọn sản
phẩm chủ lực và xây dựng bảng tự đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi sản phẩm đăng
ký tham gia chương trình đã ra đời cùng với việc triển khai hỗ trợ các doanh nghiệp tham
gia chương trình trên năm lĩnh vực: thiết kế sản phẩm và lựa chọn công nghệ, nâng cao
trình độ quản lý của doanh nghiệp, tiếp thị, đào tạo nhân lực, tài chính thông qua các hoạt
động hướng dẫn, tư vấn hay môi giới doanh nghiệp với nhà tư vấn có năng lực và uy tín,
giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn lực về khoa học và tài chính của thành phố [2].
7
Ngoài ra, Luận án còn tham khảo nhiều tài liệu chương trình phát triển sản phẩm
chủ lực tương tự của các địa phương khác cũng như hội thảo, hội nghị,... liên quan đến
vấn đề phát triển sản phẩm chủ lực nói chung, như: “Xác định hàng hóa, dịch vụ chủ lực
Tp Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2010, tầm nhìn 2020”; “Đánh giá thực trạng và định hướng
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và làng nghề quận Bình Thủy
(Tp Cần Thơ) giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020” và các bài viết khác của
các tác giả đăng tải trên tạp chí, báo, trang web trong nước và quốc tế có liên quan. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận cũng
như thực tiễn việc xác định và phát triển các sản phẩm công, nông, nghiệp và thủy sản chủ
lực thuộc vùng ĐBSCL. Với Luận án này, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu và giải quyết vấn
đề bức xúc đó nhằm góp phần phát triển nền kinh tế ĐBSCL một cách bền vững.
5. Tính mới của Luận án
So với các công trình nghiên cứu cũng như chương trình phát triển sản phẩm chủ
lực của các địa phương đã nêu trên, Luận án này có những điểm mới cơ bản sau:
1) Hoàn thiện hơn về mặt cơ sở lý luận đối với sản phẩm chủ lực cũng như phương
pháp xác định sản phẩm chủ lực để vận dụng vào giải quyết các vấn đề có tính lý luận
cũng như thực tiễn trong việc xác định sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long
đến năm 2020.
2) Từ cơ sở lý thuyết đã xây dựng, Luận án đưa ra bộ tiêu chí xác định sản phẩm
chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long từ nay đến năm 2020 với 2 hệ thống đánh giá, xét
chọn sản phẩm hàng hóa chủ lực và sản phẩm dịch vụ chủ lực. Các hệ thống này vừa bảo
đảm các điều kiện cần, vừa bảo đảm đảm điều kiện đủ; vừa có tiêu chí định lượng và vừa
có tiêu chí định tính; đầy đủ hơn, thực tế hơn nhưng đơn giản, dễ thực hiện hơn.
3) Cũng với cơ sở lý thuyết đã hoàn thiện, Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho
việc công nhận sản phẩm chủ lực ĐBSCL đối với các sản phẩm đã từ lâu giữ vị trí chủ lực
một cách tự nhiên do lợi thế đặc thù của vùng như lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thông qua
đó, Luận án cũng chứng minh tính chủ lực không thể chối cải của các sản phẩm này bằng
một số chỉ tiêu định lượng quan trọng.
4) Dựa trên Bộ tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực đã xây dựng, Luận án thực hiện
việc xem xét, tính toán và cân nhắc đối với từng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có triển
vọng trong vùng để từ đó lập ra bảng Danh mục những sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến
năm 2020.
8
5) Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xác định và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL
thời gian qua cũng như quan điểm, định hướng mục tiêu phát triển sản phẩm chủ lực của
vùng thời gian tới, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải pháp chủ yếu, khả thi và đồng bộ
nhằm hỗ trợ các sản phẩm chủ lực phát triển một cách bền vững đến năm 2020.
6. Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu của đề tài
6.1 Phương pháp tiếp cận vấn đề
Để tiếp cận vấn đề, tác giả thực hiện thông qua các phương pháp chủ yếu như:
+ Tiếp cận hệ thống: Trong quá trình nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực của
Đồng bằng sông Cửu Long, những loại hàng hóa, dịch vụ không có tính đặc thù hoặc tính
đặt thù không cao, tác giả đặt chúng trong mối quan hệ hỗ tương với hàng hóa, dịch vụ
cùng loại trong cả nước. Nghĩa là xem hàng hóa, dịch vụ đó của Đồng bằng sông Cửu
Long như là một bộ phận hữu cơ trong mối quan hệ tổng thể của cả nước.
+ Tiếp cận logic: Từ việc nghiên cứu, thu thập các dữ liệu, thông tin thông qua tài
liệu, sách báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng để xây dựng các mô hình lý thuyết
về sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long, xem đây là giả thuyết để làm cơ sở
chứng minh cho tính đúng đắn của nó hoặc loại trừ nó.
+ Các phương pháp hỗ trợ khác: Sử dụng các phương pháp mô hình hóa, sơ đồ
hóa, phương pháp thống kê, phương pháp hồi qui tuyến tính…, đặc biệt trong phân tích
cạnh tranh sẽ áp dụng mô hình kim cương (diamond model) của Michael M. Porter để xác
định lợi thế cạnh tranh ngành hàng.
6.2 Phương pháp nghiên cứu định tính
Để thực hiện đề tài này, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp định tính để thu
thập phân tích và diễn giải dữ liệu nhằm mục đích khám phá các nhân tố và mối quan hệ
đến tính chủ lực của hàng hóa, dịch vụ. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu này chủ yếu là để xây
dựng cơ sở lý thuyết một cách khoa học và khách quan về sản phẩm chủ lực. Công cụ
được sử dụng phổ biến trong giai đoạn này là: Khảo sát thực tế tại các địa phương, thảo
luận nhóm; Thảo luận tay đôi; Quan sát ...
6.3 Phương pháp nghiên cứu định lượng
Các chỉ tiêu định lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực như:
Hệ số lợi thế hiển thị ngành (RCA); Hệ số thương mại ròng (NTR); Hệ số địa phương hóa
(LQ); Hệ số bảo hộ hiệu dụng (EPR); Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC)...
9
7. Khung nghiên cứu
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN
PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC
Cơ sở lý luận xác định SP chủ lực
và phát triển sản phẩm chủ lực
Lý luận chung về SP chủ lực
Thuyết lợi thế tuyệt đối (A.Smith)
và lợi thế so sánh của (D.Ricardo)
Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia
và Cụm phát triển của M. Porter
Phương pháp xác định và phát
triển SP chủ lực
Các tiêu chí đánh giá và thang
điểm đánh giá xét chọn SP chủ lực
Qui trình xác định SP chủ lực
Các nội dung và nguyên tắc cơ
bản hỗ trợ phát triển SP chủ lực
Chương 2. THỰC TRẠNG XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ
PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL THỜI GIAN QUA
Đánh giá tiềm năng
phát triển sản phẩm
chủ lực ĐBSCL
Vận dụng mô hình
kim cương (M.Porter)
và các lý thuyết đã
khác trình bày
Thực trạng phát triển
sản phẩm chủ lực
Lĩnh vực nông nghiệp
và thủy sản
Lĩnh vực công nghiệp
Lĩnh vực thương mại
và dịch vụ
Thực trạng xác định
sản phẩm chủ lực
Xây dựng tiêu chí và
qui trình xác định
Danh mục sản phẩm
chủ lực
Nhận xét, đánh giá
Chương 3. XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT
TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL ĐẾN NĂM 2020
Xây dựng Hệ thống
tiêu chí xác định sản
phẩm chủ lực ĐBSCL
Hệ thống tiêu chí
Thang điểm và phương
pháp tính toán
Xây dựng Danh mục
SP chủ lực ĐBSCL
Sản phẩm chủ lực
ĐBSCL 20062010
Sản phẩm chủ lực
ĐBSCL đến năm 2020
Giải pháp triển sản
phẩm chủ lực ĐBSCL
Giải pháp phát triển
sản phẩm chủ lực
ĐBSCL đến 2020
10
8. Kết cấu chung của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo..., Luận án
được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học cho việc xác định sản phẩm chủ lực và phát triển
sản phẩm chủ lực
Chương này chủ yếu trình bày các quan điểm, khái niệm, định nghĩa về sản phẩm
chủ lực; phương pháp xác định hàng sản phẩm chủ lực; và vai trò ý nghĩa của sản phẩm
chủ lực trong phát triển kinh tế vùng, địa phương; các lý thuyết có liên quan và kinh
nghiêm phát triển sản phẩm chủ lực ở một số quốc gia và địa phương trong nước.
Chương 2: Thực trạng xác định và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng
sông Cửu Long thời gian qua
Chương này chủ yếu thực hiện việc phân tích, đánh giá thực trạng xác định sản
phẩm và phát triển sản phẩm chủ lực ở ĐBSCL thời gian qua. Đưa ra nhận xét ưu, nhược
điểm trong việc xác định sản phẩm chủ lực của các địa phương trong vùng để làm cơ sở
cho việc tiến hành xác định sản phẩm chủ lực cấp vùng đến năm 2020.
Chương 3: Xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 2020
Chương ba chủ yếu giải quyết 3 vấn đề cơ bản là: xây dựng Hệ thống tiêu chí xác
định sản phẩm chủ lực ĐBSCL; đề xuất Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm
2020 và đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL một
cách bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM
CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC
1.1. Tổng quan về sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực
1.1.1. Định nghĩa về sản phẩm chủ lực
1.1.1.1. Một số quan điểm khác nhau về sản phẩm vụ chủ lực
11
Quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới luôn gắn liền với sự trỗi dậy
của những ngành hàng hoặc sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Những ngành hoặc sản phẩm
này đã trở thành yếu tố dẫn đạo tăng tưởng và phát triển kinh tế của quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ. Điển hình nhất là Nhật bản, 20 năm sau thế chiến thứ 2 (1951 – 1973) đã trở
thành nền kinh tế lớn của thế giới với GDP tăng trưởng gấp 20 lần. Các sản phẩm được
xem là thế mạnh cạnh tranh của Nhật giai đoạn này là tàu biển, xe máy, máy khâu, máy
ảnh, ti vi, thép, ô tô, sản phẩm hóa chất, hàng dệt,... Kế đến là Trung Quốc, trong ba thập
kỷ (từ 1978 đến 2007) với việc chuyển đổi từ nền công nghiệp không dựa vào lợi thế sang
nền công nghiệp dựa trên lợi thế nguồn nhân công dồi dào với các sản phẩm cấp thấp, giá
rẻ... đã đưa nền kinh tế Trung quốc tăng trưởng một cách thần kỳ, đạt tốc độ trung bình
hàng năm 9,5%. Kết quả là từ một nước kém phát triển, Trung quốc đã vươn lên tốp bốn
nền kinh tế hàng đầu thế giới (WB, 2007). Tương tự, thông qua hai cuộc “Cách mạng
xanh” với các sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm), công nghiệp phục vụ nông
nghiệp,... Ấn độ đã trở thành hiện tượng đặc biệt trong phát triển kinh tế nhờ vào xác định
và phát triển các ngành sản phẩm chủ lực phù hợp với lợi thế của mình [48], [49], [53]
Ở Việt Nam, sản phẩm chủ lực hay sản phẩm công nghiệp chủ lực là khái niệm mới
và thường xuất hiện trong một số văn bản quản lý Nhà nước vào thập niên đầu tiên thế kỷ
XXI. Lúc đầu, đây chỉ là thuật ngữ dùng để chỉ những sản phẩm có khả năng xuất khẩu
mạnh, chiếm tỷ trọng kim ngạch cao hoặc có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế của
đất nước. Gần đây, khái niệm này được sử dụng khá phổ biến và đã trở thành thuật ngữ
kinh tế quen thuộc không những với các nhà quản lý mà còn với cả các doanh nghiệp và
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu về sản phẩm chủ lực của mỗi người, mỗi địa phương
lại có những điểm khác nhau khá rõ rệt. Dưới đây là những điểm khác nhau điển hình khi
nói về sản phẩm chủ lực.
v Thể hiện trong các chủ trương, chính sách nhà nước
+ Trước hết là khái niệm “sản phẩm chủ lực” của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) là sản phẩm giúp gia tăng kim ngạch và
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản
phẩm có hàm lượng công nghệ cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ cũng như tạo điều kiện
đẩy nhanh áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất theo phương châm lấy tiết kiệm
năng lượng, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm làm trọng tâm (Quyết định
12
số: 21/2001/QĐbKHcnmt về việc “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản
phẩm xuất khẩu và sẩn phẩm chủ lực”) [1].
+ Kế đến là Chương trình "Phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ
Chí Minh giai đoạn 20022005" đã giới hạn sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp
với thuật ngữ “sản phẩm công nghiệp chủ lực”. Theo Chương trình, những sản phẩm này
phải có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao
đối với người sản xuất, đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội địa và phát triển kinh tế
của Thành phố. Ngoài ra, sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ Chí Minh giai đoạn
20022005 phải vừa có tính hiện đại, vừa có tính văn hóa truyền thống; vừa sử dụng nhiều
nguyên liệu trong nước vừa có thương hiệu mạnh và đặc biệt, phải bảo đảm về lao động và
thân thiện với môi trường (Quyết định số: 153 /2002/QĐUB) [2].
+ Một khái niệm khác có thể tham khảo là “sản phẩm công nghiệp chủ lực” của Tp
Hà Nội ghi trong “Qui chế đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực Thành phố
Hà Nội”, Theo cách mô tả của Qui chế này thì “sản phẩm chủ lực” đã được giới hạn trong
phạm vi ngành công nghiệp với các đặc trưng cơ bản là: Có sức cạnh tranh trên thị trường
trong và ngoài nước; Được tạo ra trên dây chuyền thiết bị có công nghệ ngang tầm khu
vực, phù hợp với trình độ sản xuất và chiến lược phát triển của Thành phố trong từng thời
kỳ; Đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; Tạo ra mức tăng trưởng ổn định
ở mức cao và thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực với tỷ trọng đóng góp vào tổng
GDP công nghiệp lớn (Quyết định số 03/2006/QĐUB) [17].
+ Cùng một quan niệm với Tp Hồ Chí Minh và Tp Hà Nội, tỉnh Đồng Nai với
“Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh Đồng Nai giai đoạn
20062010” cũng tập trung giới hạn ở “Sản phẩm công nghiệp chủ lực” và cho rằng, sản
phẩm công nghiệp chủ lực phải là sản phẩm đóng vai trò then chốt, quyết định đối với việc
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong một thời kỳ nhất định. Đây là những sản
phẩm công nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành công nghiệp có nhịp độ tăng
trưởng và tỷ lệ giá trị gia tăng cao, có vị trí chi phối và ảnh hưởng đến sự phát triển đối
với nhiều sản phẩm công nghiệp khác cũng như có sức cạnh tranh cao trên thị trường
trong nước và xuất khẩu (Quyết định số 955/QĐUBND). Nói cách khác, đối với tỉnh
Đồng Nai thì sản phẩm chủ lực là sản phẩm công nghiệp có thế mạnh về giá trị sản lượng
và giá trị gia tăng; có sức tác động hay lan tỏa đến các sản phẩm công nghiệp khác, đồng
thời có khả năng tiêu thụ tốt trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước [9].
13
v Thể hiện trong các bài viết, tác phẩm nghiên cứu
+ Với GS.TS Võ Thanh Thu, Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh,
Chuyên gia nghiên cứu khu công nghiệp, trong một bài viết của mình cũng đã sử dụng
khái niệm “sản phẩm chủ lực” và cho rằng nó phải có các đặc trưng như: Phải có tương lai
phát triển mạnh về công nghệ, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong
nước; Phải khai thác được lợi thế của địa phương , là đặc trưng cho địa phương; Phải có
tính lan tỏa, kích thích các ngành khác, sản phẩm khác phát triển; Phải là những mặt hàng
mang hàm lượng chất xám cao, cũng như có khả năng xuất khẩu cao; Có thể là hữu hình
hoặc là vô hình. Ở đây GS.TS Võ Thanh Thu đã đưa ra thêm 2 điểm khác quan trọng là
sản phẩm chủ lực phải có sự lan tỏa đến các ngành khác, sản phẩm khác và lôi kéo chúng
cùng phát triển, đồng thời sản phẩm chủ lực không chỉ là hữu hình mà còn có thể là vô
hình nữa.
+ Với TS Lê Tấn Bửu, Trưởng khoa Thương mạiDu lịchMarketing, trường Đại
học Kinh tế TP.HCM thì sản phẩm chủ lực phải là sản phẩm trong công nghiệp chế biến
nông, thủy sản vì đây là thế mạnh của Việt Nam mà trọng điểm là ĐBSCL, đồng thời
chúng còn là nguồn cung sản phẩm thiết yếu thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho toàn xã hội.
Như vậy, trong thực tế nghiên cứu cho thấy, ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi
thời kỳ khác nhau việc nhận thức về sản phẩm chủ lực có khác nhau. Chính từ sự nhận
thức khác nhau như vậy mà việc lựa chọn sản phẩm chủ lực và chính sách hỗ trợ phát triển
sản phẩm chủ lực ở mỗi địa phương thời gian qua cũng có khác nhau. Tuy nhiên, có một
vấn đề mà mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và mọi thời đại đều thống nhất với nhau chính là
lợi ích của việc xét chọn sản phẩm chủ lực, đồng thời xem việc tìm ra sản phẩm chủ lực để
tập trung đầu tư phát triển là nhiệm vụ có tính chiến lược đối với mỗi quốc gia, địa
phương và vùng lãnh thổ. Chính vì điều này mà trước tiên, Luận án cần đi đến một nhận
thức chung, nhất quán về sản phẩm chủ lực.
1.1.1.2. Nhận thức chung về sản phẩm chủ lực
Trước hết, cần bắt đầu với thuật ngữ “chủ lực”. Theo Từ điển tiếng Việt thông
dụng, Nhà xuất bản Giáo dục 2003 thì đây là lực lượng chính, giữ vị trí nòng cốt và có tác
dụng quyết định. Ứng với tiếng Anh là “driving force” (lực lượng có tính dẫn đạo) hay
“main force” (lực lượng chính). Thuật ngữ này được dùng phổ biến trong quân sự để chỉ
lực lượng quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định chiến trường như “quân chủ lực”, “bộ
đội” chủ lực...Lực lượng này được sử dụng khi cần giải quyết các mục tiêu chiến lược,
14
quyết định đến phạm vi toàn cục. Đặc trưng của chủ lực là tập trung với số lượng lớn,
được huấn luyện chính qui, chuyên nghiệp, trang bị hiện đại và có khả năng cơ động tác
chiến trên diện rộng.
Vậy sản phẩm chủ lực là gì? Có thể nói, sản phẩm trong Luận án này là khái niệm
dùng để chỉ sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được thương mại hóa, tức là sản phẩm hữu
hình hoặc vô hình được sản xuất và cung ứng nhằm mục đích thương mại. Khái niệm sản
phẩm ở đây còn được mở rộng đến ngành hàng hay một nhóm các sản phẩm có cùng tính
năng, mục đích sử dụng hay qui trình công nghệ sản xuất. Ví dụ, ngành hàng thực phẩm
chế biến có thịt đóng hộp, cá đóng hộp, thịt đông lạnh, cá đông lạnh..., ngành hóa mỹ
phẩm có bột giặt, nước xả, chất tẩy rửa gia dụng, mỹ phẩm....Khi tham khảo các tài liệu
tiếng Anh, tác giả thường thấy xuất hiện các từ hoặc cụm từ có thể được xem là tương ứng
với sản phẩm chủ lực hay ngành hàng chủ lực như: key products, main products, major
products hoặc key sectors, main sectors.
Main products: Là sản phẩm chính, sản phẩm chủ yếu của một công ty, giữ vị trí
chủ yếu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu hoặc tạo nên hình ảnh doanh nghiệp. Ví dụ main
products của Seaprodex gồm: Fresh (cá tươi), Frozen (đông lạnh), Processed (chiến biến),
Canned (đóng hộp)...
Key products: Sản phẩm chủ yếu của công ty. Ví dụ sản phẩm chủ yếu của Công
ty TNHH điện tử Nam Phương gồm có: Design and install all of Distributor Board (Thiết
kế và cài đặt tất cả các bảng phân phối điện), Control Board (Bảng kiểm soát điện),
Electric Box (Hộp điện), Capacitor Bank medium and low Voltage (Tụ bù trung áp và
thấp áp)….
Major Products: Sản phẩm chính của công ty, doanh nghiệp hay quốc gia. Ví dụ
sản phẩm chính của Sumikin Bussan Special Steel Co., Ltd là: Tubes and Pipes (ống
nước, ống kết cấu cho xe ô tô, máy móc và ống thép đặc biệt cho các nhà máy hóa dầu);
Steel Sheets and Plates (thép tấm); Construction Materials (thép xây dựng); Bar and Wire
Rods (thanh thẳng, thanh cuộn) và Raw Materials (thép nguyên liệu thô). Hay sản phẩm
chính của Nhật: Xe máy, Xe hơi, Thiết bị điện và Máy vi tính…Trong đó, xe gắn máy với
nhãn hiệu Honda, Suzuki, Yamha hay xe hơi với nhãn hiệu Toyota hoặc thiết bị điện tử,
điện lạnh của Sony… là biểu tượng, là nét văn hóa của nước Nhật xưa và nay.
Key sectors: Ngành hàng hoặc lĩnh vực sản xuất quan trọng, chủ yếu của một địa
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia. Ví dụ, để qui hoạch phát triển Ấn Độ đã xác định có
15
các key sectors như: Agriculture (Nông nghiệp); Commerce & Industries (Công nghiệp và
thương mại); Finance (Tài chính); Communication & IT (Công nghệ thông tin và truyền
thông); Education (Giáo dục); Health & Family welfare (Y tế và phúc lợi gia đình)....
Từ những kết quả phân tích đã trình bày ở phần trên, có thể nhận diện sản phẩm
chủ lực thông qua định nghĩa như sau: “Sản phẩm chủ lực là sản phẩm hàng hóa hoặc
dịch vụ chủ yếu, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn và năng lực cạnh
tranh cao; là trung tâm lan tỏa, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển; đồng thời
nó còn có thể là sản phẩm thể hiện tính đặc thù riêng, mang ý nghĩa văn hóa của một
quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ” 1 .
1.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm chủ lực
Từ sự nhận thức như đã trình bày ở phần trên, có thể rút ra năm đặc trưng cơ bản
của sản phẩm chủ lực như sau:
1) Sản phẩm có qui mô khối lượng lớn và tính đồng nhất cao
Một sản phẩm muốn trở thành chủ lực trước tiên phải là sản phẩm được sản xuất ra
để trao đổi mua bán với khối lượng lớn và đạt được độ đồng nhất cao. Nói cách khác, hàng
hóa chủ lực phải được sản xuất theo qui mô tập trung, công nghiệp với công nghệ tiên tiến
nên có thể đảm bảo được khối lượng cung ứng lớn cho thị trường đồng thời chất lượng,
mẫu mã kiểu dáng và các tính năng khác phải giống nhau giữa các cá thể. Rõ ràng, sản
phẩm không thể trở thành chủ lực nếu chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún với phương pháp thủ
công, mang tính cá biệt cao. Bởi, nếu như vậy không thể có được thị trường rộng lớn, mãi
lực yếu, sức cạnh tranh không cao.
2) Sản phẩm có năng lực cạnh tranh quốc tế
Sản phẩm chủ lực phải là những sản phẩm đảm bảo các yêu cầu về mặt chất lượng,
thiết kế kỹ thuật, mẫu mã, kiểu dáng…theo tiêu chuẩn quốc tế; có khả năng tiêu thụ tốt
không những trên thị trường trong nước mà còn xuất khẩu, đồng thời luôn chiếm được ưu
thế cạnh tranh trước các đối thủ quốc tế khác. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, môi trường cạnh tranh không còn đơn giản với không gian nhỏ hẹp trong nước
mà cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh mang tính toàn cầu với nhiều phương thức phức tạp.
Do vậy, một sản phẩm trở thành chủ lực của một quốc gia nhất thiết phải có được năng lực
cạnh tranh tốt trên phạm vi quốc tế để có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững.
3) Sản phẩm có sức lan tỏa mạnh
1
Tác giả tổng hợp và chọn lọc từ các định nghĩa trong nhiều tài liệu đã có
16
Có thể nói, sản phẩm chủ lực là những sản phẩm có sự liên hệ mật thiết với nhiều
ngành hàng hay sản phẩm khác, ảnh hưởng trực tiếp lên các sản phẩm, ngành hàng khác
và lôi kéo chúng cùng phát triển theo. Mặt khác, quá trình phát triển của sản phẩm chủ lực
cũng thường xuyên chịu sự tác động bởi các ngành hàng hoặc sản phẩm khác. Sự liên hệ
này được thể hiện thông qua các mối liên hệ chuỗi giá trị (sự kết nối liên tiếp về mặt công
nghệ trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) hoặc các mối liên hệ bổ trợ (mối liên hệ tương
hỗ tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm). Với tính chất
lan tỏa như vậy, thực tế cho thấy khi sản phẩm chủ lực phát triển sẽ tạo ra nhu cầu hỗ trợ,
nhu cầu liên kết…từ đó kích thích, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển theo.
4) Sản phẩm mang tính đặc thù của quốc gia, vùng lãnh thổ
Một sản phẩm chủ lực còn là sản phẩm thể hiện lợi thế đặc trưng của quốc gia,
vùng lãnh thổ mà không nơi nào khác có thể sánh kịp. Người tiêu dùng bỏ tiền mua sản
phẩm ấy chính bởi những giá trị đặc trưng mà họ thấy được từ sản phẩm, đồng thời đối thủ
cạnh tranh khó lòng bắt chước vì thiếu những điều kiện mang tính lợi thế cạnh tranh của
quốc gia hay vùng lãnh thổ (vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động…). Ngoài ra,
nhiều sản phẩm chủ lực còn là biểu tượng văn hóa của quốc gia hay vùng lãnh thổ, góp
phần tạo nên thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế.
5) Sản phẩm có tính an toàn và thân thiện với môi trường
Sản phẩm chủ lực nhất thiết phải là sản phẩm mà trong quá trình khai thác nguyên
liệu, sản xuất, tồn tại, sử dụng và sau khi thải bỏ không gây hại hoặc ít gây hại hơn cho
môi trường so với sản phẩm cùng loại và được các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc
quốc tế công nhận. Hoặc, sản phẩm được tạo ra có khả năng thay thế cho các nguyên liệu
tự nhiên mà trong quá trình tồn tại, sử dụng hoặc sau khi thải bỏ gây hại ít hơn cho môi
trường so với sản phẩm được thay thế.
1.1.1.4. Điểm khác cơ bản của khái niệm sản phẩm chủ lực trong Luận án
Có thể thấy, về cơ bản Luận án đã kế thừa có chọn lọc các khái niệm mà các tài liệu
trước đây đưa ra. Tuy nhiên, nếu xét ở phạm vi nội dung và ý nghĩa cũng như so sánh với
từng tài liệu riêng rẻ thì Luận án đã đưa ra nhiều điểm mới.
Bảng 1.1. Điểm khác nhau giữa Luận án với các tài liệu về sản phẩm chủ lực
Khái niệm trong Luận án
Các khái niệm trước đây
17
Nêu bật mục đích chính của sản phẩm Chỉ cho biết sản phẩm nói chung chứ chưa
được tạo ra là để trao đổi mua bán, đặc thể hiện rõ mục đích tạo ra là để trao đổi mua
biệt là mua bán quốc tế.
bán, nhất là mua bán quốc tế.
Xác định rõ sản phẩm của vùng, miền dựa Xác định sản phẩm của địa phương, dựa vào
trên tiềm năng, lợi thế chung của vùng, điều kiện sản xuất đặc thù của địa phương và
miền quyết định một cách khách quan.
do doanh nghiệp quyết định theo chủ quan
Bao gồm cả sản phẩm công nghiệp, nông Thường chỉ đề cập chủ yếu đến sản phẩm
nghiệp thủy sản và dịch vụ
công nghiệp, hoặc nông nghiệp
Sản phẩm vừa giữ vị trí chủ yếu tạo ra giá Chú trọng đến khía cạnh tạo ra giá trị sản
trị sản lượng vừa là trung tâm lan tỏa đến lượng, tốc độ tăng trưởng, hiệu quả... riêng
các ngành nghề khác
của sản phẩm chủ lực mà thôi.
Sản phẩm không những mang giá trị vật Chỉ chú trọng đến việc nhấn mạnh giá trị vật
chất, giá trị kinh tế mà nó còn mang cả giá chất, giá trị kinh tế mà thôi
trị phi vật thể: nhân văn, văn hóa…
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng
1.1.2. Ý nghĩa của việc xác định sản phẩm chủ lực
Việc xác định đúng sản phẩm chủ lực của một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh
thổ có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể:
1) Xác định đúng sản phẩm chủ lực đồng nghĩa với việc xác định được năng lực
cạnh tranh cốt lõi của quốc gia, vùng lãnh thổ…, để từ đó có chính sách đầu tư đúng
hướng, tập trung và có chiều sâu.
Xác định đúng sản phẩm chủ lực là cơ sở để tập trung nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ đầu
tư phát triển một cách có trọng tâm, trọng điểm và theo chiều sâu trên cơ sở lợi thế so
sánh, không dàn trải làm lãng phí vốn đầu tư. Qua đó, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng
suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh cho từng loại sản phẩm và qua
đó tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất phát triển, đảm bảo cho những sản phẩm được
chọn có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế
xã hội của địa phương và hội nhập kinh tế quốc tế.
18
2) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa xác định đúng trung tâm lan tỏa,
nguồn phát tác hấp lực từ tập trung chuyên môn hóa – hiện đại hóa sản xuất và cung ứng,
có tác động lôi kéo các ngành nghề liên quan, dịch vụ bổ trợ phát triển.
Xác định đúng sản phẩm chủ lực nghĩa là đã xem xét một cách đầy đủ các ngành
nghề có liên quan trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa, khi tập trung đầu tư phát triển một
ngành hàng chủ lực nào đó sẽ đồng thời phải đầu tư cho các ngành có liên quan khác làm
cho chúng có điều kiện phát triển theo. Ngược lại, cũng thông qua quá trình xem xét này,
có thể xác định được những ngành nào có khả năng lan tỏa đến nó để có chính sách
khuyến khích đầu tư và qui hoạch phát triển một cách tương ứng và đồng bộ.
3) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng đồng nghĩa với việc định vị đúng nền kinh
tế trong chiến lược cạnh tranh toàn cầu.
Sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương thể hiện đẳng cấp,
thực trạng và tương lai phát triển kinh tế của quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đó.
Căn cứ vào định vị này, các quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp và hiệu quả nhất, nhằm góp phần giải quyết các bất ổn
kinh tế vĩ mô và đảm bảo tăng trưởng một cách bền vững.
4) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa là xác định đúng đối tượng
khách hàng và thị trường tiêu thụ để tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý và thực
hành chất lượng phù hợp.
Để đối mặt với sự cạnh tranh mang tính quốc tế, các doanh nghiệp phải tạo ra được
những sản phẩm bảo đảm chất lượng, thương hiệu và uy tín, được khách hàng ưa chuộng.
Muốn vậy, các nhà sản xuất phải đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất
tiên tiến, hiện đại cũng như áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng một cách toàn
diện theo chuẩn quốc tế, đáp ứng với những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng.
1.1.3. Một số lý thuyết liên quan đến xác định và phát triển sản phẩm chủ lực
1.1.3.1. Thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (17231790)
Adam Smith được coi là cha đẻ của kinh tế học hiện đại. Tác phẩm lớn nhất của
ông là 'The Wealth of Nations' xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ông nhấn mạnh lợi ích của
chuyên môn hoá và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường, phản hồi qua hệ thống giá.
Có lẽ tư tưởng gắn liền với ông là Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage). Trong
mô hình kinh tế cổ điển, các nhà học giả cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi
nhu cầu lương thực tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm
19
bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Trong điều kiện đó,
A. Smith cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với giá
rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi
thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương.
Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí
nguồn lực để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Khi một nước sản xuất sản phảm có chi
phí cao hơn (do hạn chế về nguồn lực) có thể nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí
sản xuất thấp hơn (do có ưu thế về nguồn lực). Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối
với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi
bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao
sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem
lại hiệu quả. Điều này gọi là bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước.
Ngày nay, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam việc khai thác lợi thế
tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm,
đặc biệt là công nghệ sản xuất với chi phí chấp nhận được mà phải nhập khẩu công nghệ.
Khi nhập công nghệ sản xuất, lao động trong nước sẽ học được cách sử dụng máy móc
thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này,
vai trò đóng góp của ngoại thương giữa các nước công nghiệp phát triển (có lợi thế tuyệt
đối về công nghệ) và các nước đang phát triển (có lợi thế tuyệt đối về nguồn lực) thông
qua bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất tư liệu sản xuất và yếu kém về kiến thức
công nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối [55].
1.1.3.2. Thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (17721823)
Học thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các
quốc gia dựa trên nền tảng học thuyết về giá trị lao động. Theo học thuyết này thì ngoại
thương có lợi cho mọi quốc gia miễn là xác định đúng lợi thế so sánh. Nghĩa là việc
chuyên môn hóa của mỗi nước phải dựa trên lợi thế khi đối chiếu so sánh hao phí lao động
cho mỗi đơn vị sản phẩm giữa các quốc gia. Muốn xác định lợi thế so sánh ta phải xác lập
lợi thế tuyệt đối. Toàn bộ phân tích của D. Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự
khác nhau giữa các nước trong công nghệ sản xuất dẫn đến năng suất vật chất và đòi
hỏi lao động đơn vị khác nhau.
Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công
nghệ như nhau: các nước phát triển có cung về tư bản nhiều hơn các nước đang phát
20
triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên
một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy
giá thuê tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại
ở các nước đang phát triển giá thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản.
Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước
đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công.
Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế
so sánh cao một cách tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có
lợi thế so sánh về những hàng hóa này. Điều này lý giải vì sao Việt Nam lại xuất
khẩu nhiều sản phẩm thô hoặc sơ chế như dầu thô, than đá, thủy sản đông lạnh... hoặc
hàng hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc,
thiết bị từ các nước phát triển [3].
1.1.3.3. Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal E. Porter (17721823)
Michael E. Porter là người đã đưa ra môn học về chiến lược cạnh tranh và mô hình
phân tích cấu trúc ngành. Về lý luận cạnh tranh, ông đã xuất bản ba cuốn sách nổi tiếng
thế giới và được sử dụng trong hầu hết các chương trình đào tạo MBA của các nước. Đó là
cuốn ''Chiến lược cạnh tranh'' xuất bản năm 1980, cuốn ''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và
cuốn ''Lợi thế cạnh tranh quốc gia” vào năm 1990. Trong tác phẩm Lợi thế cạnh tranh
quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh
vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình “Kim cương”. Theo Porter
thì không một quốc gia nào có được khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết
các ngành mà chỉ có thể thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi
thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Theo ông, khả năng cạnh tranh của
một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành
của quốc gia đó. Khi nền tảng của cạnh tranh càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri
thức mới thì vai trò của quốc gia càng tăng lên. M. Porter cho rằng các nền kinh tế đều
phải trải qua 3 giai đoạn phát triển cạnh tranh, đó là: cạnh tranh dựa vào yếu tố sản xuất,
cạnh tranh dựa vào đầu tư, cạnh tranh dựa vào đổi mới và sáng tạo. Các giai đoạn cạnh
tranh phản ánh nguồn lợi thế đặc trưng, bản chất và quy mô của những ngành phải đối mặt
với cạnh tranh quốc tế.
Việc phân chia các giai đoạn cạnh tranh chỉ mang tính chất tương đối và các quốc
gia hay các địa phương không nhất thiết phải đi qua tất cả các giai đoạn, nhưng việc xác
- Xem thêm -