BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN XUÂN NGỌC
YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA LÝ TRẦN QUỲNH
GIANG, ĐINH Ý NHI VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60210102
Khóa: 18 (2015 – 2017)
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRANG THANH HIỀN
Hà Nội – 2017
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Nxb
TS
PGS
Tr.
H
Nhà xuất bản
Tiến sĩ
Phó giáo sư
Trang
Hình
1
MỤC LỤC
Trang
Bảng chữ cái viết tắt
Mục lục ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .... 12
1.1. Khái niệm về “Yếu tố Biểu hiện trong tranh” ......................................... 12
1.2. Những yếu tố cơ bản của ngôn ngữ hội họa và vai trò của nó trong
khuynh hướng hội họa Biểu hiện ................................................................... 14
1.3. Khái quát về chủ nghĩa Biểu hiện trên thế giới và bối cảnh của sự xuất
hiện phong cách hội họa Biểu hiển ở Việt Nam ........................................... 19
1.4. Khái quát về tạo hình nghệ thuật của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,
Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong ............................................................ 25
Tiểu kết ............................................................................................................ 28
CHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU YẾU TỐ BIỂU HIỆN TRONG TRANH CỦA
LÝ TRẦN QUỲNH GIANG, ĐINH Ý NHI VÀ ĐINH THỊ THẮM POONG
......................................................................................................................... 30
2.1. Yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang ............................... 30
2.2. Yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Ý Nhi ................................................ 40
2.3. Yếu tố biểu hiện trong tranh Đinh Thị Thắm Poong ............................... 52
Tiểu kết ............................................................................................................ 59
CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU YẾU TỐ
BIỂU HIỆN TRONG TRANH ...................................................................... 61
3.1. Sự tương đồng và khác biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của ba nữ họa
sĩ ..................................................................................................................... 61
3.2. Giá trị của yếu tố biểu hiện trong tranh Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý
Nhi và Đinh Thị Thắm Poong.........................................................................67
3.3.Vai trò của giới tính trong việc bộc lộ ý tưởng ở tác phẩm của Lý Trần
Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong ................................... 68
3.4. Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài ............................................ 70
Tiểu kết ........................................................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 75
PHẦN PHỤ LỤC ........................................................................................... 78
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi đứng trước một tác phẩm hội họa, người xem thường nảy sinh tình
cảm hoặc một cảm xúc nào đó, họ thấy hay, thấy được ý tưởng và nội dung
của tác phẩm thông qua cách trình bày trên tranh. Hội họa ngoài khả năng tạo
ra hiệu quả thị giác còn có thể nảy sinh được hiệu quả tâm lý đối với người
xem tranh. Như vậy khi xem tranh, người thưởng thức bị tác động tâm lý bởi
hình thức và nội dung bức tranh.
Nghệ thuật hội họa là nghệ thuật của sự kết hợp các yếu tố như màu sắc,
đường nét, hình mảng, không gian… , các họa sĩ dùng các yếu tố ấy để thể
hiện ý tưởng của mình. Với vai trò của mình, ngôn ngữ của hội họa giúp cho
họa sĩ biểu đạt ra được cảm xúc, nó được coi như là một yếu tố hình thành
nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Một khía cạnh khác làm nên giá trị nghệ
thuật trong tác phẩm là sự biểu cảm của ngôn ngữ hội họa có được gọi là một
yếu tố hay không, giá trị của nó như thế nào trong tác phẩm hội họa. Để trả
lời cho câu hỏi này thì phải nghiên cứu tập trung vào hội họa Biểu hiện vì nó
chỉ rõ ra được giá trị của yếu tố biểu cảm trong tranh. Song, để nhìn thấy
được giá trị của yếu tố biểu hiện thì cần phải nghiên cứu những tác phẩm của
họa sĩ cụ thể.
Nếu như ở trên thế giới, các họa sĩ Biểu hiện sự lo lắng, bất an trước
những vấn nạn của xã hội hiện đại thì các họa sĩ Biểu hiện Việt Nam cũng thể
hiện thái độ của mình vào tranh với tính chất tương tự , các họa sĩ cũng thể
hiện sự lo lắng của mình về thời đại mà họ đang sống. Lịch sử xuất hiện của
hội họa Biểu hiện ở Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới, năm 1986, khi đất nước
mở cửa để phát triển. Điều này làm cho nền mỹ thuật Việt Nam trở nên phong
phú hơn . Ở giai đoạn từ 1990 – 1995, phong cách trong sáng tác hội họa của
các họa sĩ Việt Nam chủ yếu là Biểu hiện – trừu tượng. Những họa sĩ vẽ theo
4
lối biểu hiện và đã có những thành công nhất định. Những họa sĩ yêu thích và
tìm tòi, thể nghiệm theo khuynh hướng Biểu hiện hoặc có yếu tố Biểu hiện
trong tranh ở Việt Nam giai đoạn sau Đổi mới như họa sĩ Lê Quảng Hà, Doãn
Hoàng Lâm, Lê Anh Quân, Nguyễn Xuân Tiệp, Vũ Thăng… Trong đó ba nữ
họa sĩ tiêu biểu là Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong và Lý Trần Quỳnh
Giang. Điểm đặc biệt ở nghệ thuật của ba nữ họa sĩ này là đều sử dụng ngôn
ngữ của hội họa Biểu hiện để nói lên vấn đề lo lắng hoặc khát vọng của con
người trong thâm tâm của mình một cách mạnh mẽ nhất, trực tiếp nhất. Chính
những cách sử dụng chất liệu, ngôn ngữ của hội họa biểu hiện của ba họa sĩ
trong các tác phẩm là những dấu hiệu bộc lộ tình cảm, thái độ, cảm xúc trong
nội tâm của mình, nó cũng được coi như là một yếu tố tạo nên giá trị nghệ
thuật trong tranh của ba họa sĩ này. Đây cũng là lý do ba họa sĩ này được
chọn cho đề tài nghiên cứu.
Nghiên cứu về các tác giả cũng đã có khá nhiều bài viết, bài báo giới
thiệu về những sáng tác của họ, nêu lên phong cách vẽ biểu hiện của họ. Tuy
nhiên, nghiên cứu chuyên biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của ba họa sĩ
Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong và Lý Trần Quỳnh Giang thì chưa có
công trình nào đặt vấn đề sâu sắc và thấu đáo.
Vì những lý do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài Yếu tố biểu hiện trong
tranh của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong làm
đề tài nghiên cứu.
5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để nghiên cứu đề tài Yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh
Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong cần phải phân loại, phân tích,
tổng hợp những công trình nghiên cứu về nghệ thuật biểu hiện, những công
trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử mỹ thuật ở Việt Nam giai đoạn sau đổi
mới 1986 và các bài viết về ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi,
Đinh Thị Thắm Poong. Các bài viết về ba họa sĩ này đã có nhiều, tuy nhiên
cho đến nay chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu chuyên biệt. Cụ
thể là về vấn đề Yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh
Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong.
Về các công trình nghiên cứu bối cảnh lịch sử mỹ thuật Việt Nam giai đoạn
sau đổi mới 1986:
Lịch sử mỹ thuật luôn song hành với lịch sử xã hội. Ở Việt Nam giai
đoạn sau đổi mới, mỹ thuật đã có những thay đổi, nhưng lý do nào đưa đến sự
thay đổi này thì phải kể đến lịch sử đất nước trước và sau năm 1986. Điều này
được thể hiện trong các cuốn sách Đổi mới để tiến lên của Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh [6]; sách Đổi mới và chính sách xã hội văn hóa của tác giả
Trần Độ[4]. Ở sách Đổi mới để tiến lên hay Đổi mới và chính sách xã hội văn
hóa chỉ ra lý do nền mỹ thuật Việt Nam có sự thay đổi so với trước đó, có sự
giao lưu trở lại với những nền mỹ thuật trên Thế giới.
Với bối cảnh lịch sử như vậy thì cũng có một số công trình nghiên cứu
về mỹ thuật Việt Nam giai đoạn sau đổi mới, nghiên cứu và chỉ ra sự thay đổi
trong mỹ thuật giai đoạn này. Các cuốn sách đó như: Họa sĩ trẻ Việt Nam của
tác giả Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng [10]. Cuốn sách này đã đưa ra được
yếu tố quan trọng thúc đẩy Hội họa Việt Nam giai đoạn 1990 – 1995. Sách
nói về xu hướng sáng tác của họa sĩ trẻ Việt Nam ở giai đoạn 1990 – 1995 là
Biểu hiện – Trừu tượng, trong đó chỉ ra lối vẽ biểu hiện là một thủ pháp, giá
trị của nghệ thuật tạo hình theo lối biểu hiện nằm ở giữa bút pháp và nội
6
dung, hoàn toàn xuất phát từ nội tâm của họa sĩ. Cũng trong sách này, họa sĩ
Đinh Ý Nhi được nêu là ví dụ cho họa sĩ trẻ những năm 1990 – 1995 có
phong cách sáng tác theo khuynh hướng biểu hiện.
Cuốn Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20 của tác giả Nguyễn Quân được xuất
bản năm 2010 [11], đã đề cập đến sự phát triển về Hội Họa với phong cách
mới, xu hướng làm việc độc lập của nghệ sĩ trong tình hình chung của lịch sử
mỹ thuật Việt Nam. Thực chất, đây cũng chỉ là một cuốn sách khái quát
chung về mỹ thuật Việt Nam trong thế kỷ 20 nên việc khảo cứu sâu riêng về
hội họa biểu hiện là không thể. Nhưng công trình này đã đưa đến một cái nhìn
tổng quan nhất về tiến trình phát triển của mỹ thuật Việt Nam từ sự tác động
của xã hội đến việc định hình phong cách.
Về mặt những kiến thức liên quan đến hội họa biểu hiện và những yếu tố hội
họa có những công trình sau:
Cuốn Giáo trình lịch sử nghệ thuật của tác giả Trần Văn Tâm [12] giới
thiệu sự ra đời của chủ nghĩa biểu hiện vào giai đoạn thế kỷ 20. Sách này nói
đến trường phái biểu hiện với đặc điểm dùng bảng màu rực rỡ, nội dung tập
trung sâu vào tình cảm, bút pháp bạo liệt, nội dung nói về sự bất bình và phản
ánh xã hội, có phần đau thương, mất mát.
Cuốn Giáo trình lịch sử nghệ thuật của tác giả Đặng Thái Hoàng,
Nguyễn Văn Đính [3] nói về chủ nghĩa Biểu hiện đề cao tính chủ quan của
người nghệ sĩ, đề cao việc diễn tả tinh thần, tình cảm cá nhân. Trong đó việc
mô tả lại sự vật ấn tượng trước mắt đều không quan trọng, chủ nghĩa Biểu
hiện phải thể hiện một sự trần trụi của sự chân thực, phải thể hiện trạng thái
chủ quan và được tự do phá vỡ cấu trúc của hình thể. Khuynh hướng hội họa
biểu hiện tại Đức có hai nhóm đại diện tiêu biểu là nhóm Cây Cầu (được
thành lập ở Dresden năm 1905 và giải thể năm 1913) và nhóm Kỵ Sĩ Lam.
Qua cách phân tích tác phẩm cụ thể, sách chỉ rõ tư tưởng sáng tác trong
khuynh hướng biểu hiện có sự thống nhất với nhau, nhưng cách thể hiện khác
7
nhau ở mỗi họa sĩ. Tư tưởng chung của khuynh hướng biểu hiện ở Đức là thể
hiện tình cảm bên trong nội tâm của họa sĩ. Đó là thể hiện sự lo lắng hoặc sự
khát khao, phải thể hiện bản chất của sự việc mà nó là sự thật theo đúng
nghĩa. Ý đồ sáng tạo nghệ thuật và cách thể hiện hoàn toàn do sự chủ quan
của người nghệ sĩ ấn định. Hai cuốn sách Giáo trình lịch sử nghệ thuật của
tác giả Trần Văn Tâm và sách Giáo trình lịch sử nghệ thuật của tác giả Đặng
Thái Hoàng, Nguyễn Văn Đính đã chỉ ra được lịch sử hình thành của chủ
nghĩa Biểu hiện cũng như một số đặc trưng của hội họa biểu hiện.
Về sự xuất hiện của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị
Thắm Poong được nói đến trong các cuốn sách và bài viết:
Cuốn Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990 – 2010 [5], nói về các nghệ
sĩ đương đại Việt Nam, trong đó có nói về ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,
Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong. Ba họa sĩ này được giới thiệu khái quát
về nghệ thuật của họ và sự nghiệp sáng tác. Ở cuốn sách này, Lý Trần Quỳnh
Giang được giới thiệu là một họa sĩ hướng nội, lấy hình ảnh bản thân để thể
hiện trên tác phẩm, bất chấp những gì bên ngoài cuộc sống của mình nhưng
lại thỏa mãn với thế giới riêng biệt của họa sĩ để rồi họa sĩ thể hiện lên những
tác phẩm của mình với phong cách biểu hiện, bộc lộ ra cái tôi nguyên bản,
bộc lộ sự cô độc, trống rỗng. Bên cạnh Lý Trần Quỳnh Giang, họa sĩ Đinh Ý
Nhi được nói tới là một họa sĩ có lối vẽ ào ạt, tự nhiên, nhiều khi là sơ khai.
Và hội họa của Đinh Ý Nhi là hội họa bản năng mà mang sức biểu cảm mãnh
liệt, khẳng định về sự tồn tại của con người trong xã hội hiện đại, một xã hội
tiến bộ về văn minh vật chất nhưng chẳng vì thế mà quyết được vấn đề tinh
thần của con người, dường như con người vẫn đang chịu thương tổn, đau khổ,
man dại, quay cuồng bức bối. Họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong vẽ tranh với cảm
xúc con người sống hòa mình vào với tự nhiên, dày đặc các motif trang trí,
đan lồng hình ảnh với những yếu tố siêu thực. Tranh của Đinh Thị Thắm
8
Poong có sự hồn nhiên cùng niềm vui sống của tộc người thiểu số ở bờ bên
kia của xã hội hiện đại.
Những luận văn và khóa luận liên quan đến đề tài nghiên cứu:
Khóa luận Cá tính qua sáng tác hội họa của ba nữ họa sĩ Việt Nam:
Đinh Thị Thắm Poong, Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang của tác giả Trần
Hương Ly [27]. Khóa luận này nghiên cứu về cá tính qua sáng tác hội họa
của ba họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong, Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang,
phần nội dung của khóa luận chỉ nói về biểu hiện cá tính của ba họa sĩ, cũng
như phong cách của ba họa sĩ này mà không nói đến nghiên cứu yếu tố biểu
hiện trên tranh của ba họa sĩ.
Luận văn Tính Biểu hiện của hình thể trong hội họa của tác giả Đặng
Đình Nguyên [28] nói về tính biểu hiện của hình thể trong hội họa, tuy không
nói gì đến ba nữ họa sĩ này, nhưng đã chỉ ra được những vấn đề cơ bản của
biểu hiện, tính biểu hiện của hình thể trong hội họa, giúp cho người viết luận
văn này có thêm sự hiểu biết về khả năng biểu đạt nội dung bằng hình thể
trong hội họa, qua đó đối chiếu về tính biểu hiện trong tạo hình của ba họa sĩ
Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong.
Ngoài những sách, luận văn, khóa luận như trên đã nêu còn có những bài
viết trên một số tạp chí, trang web có uy tín như tạp chí Văn hóa nghệ thuật
của Bộ văn hóa, thể thao và du lịch, Tạp chí Mỹ thuật của hội Mỹ thuật Việt
Nam nói về yếu tố, biểu hiện cũng như giới thiệu về ba họa sĩ này. Trên tạp
chí Văn hóa nghệ thuật cũng có các bài viết về ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh
Giang, Đinh Ý Nhi. Trong bài viết Tranh Đinh Ý Nhi và câu chuyện hậu hiện
đại được in trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 299 tháng 5/2009 của nhà phê
bình mỹ thuật Trang Thanh Hiền [26], họa sĩ Đinh Ý Nhi nói tới giá trị của
con người bên trong cái vỏ ngoài và sự lo lắng nội tâm về quan hệ giữa những
con người trong xã hội. Điều đó được nhận ra trong loạt tác phẩm Câu chuyện
Châu Á Cũng ở tạp chí Văn hóa nghệ thuật , bài viết Lý Trần Quỳnh Giang,
9
độc thoại cùng thời gian của tác giả Bùi Như Hương, số 304, tháng 10 năm
2009 [28], giới thiệu về họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang như là một họa sĩ tạo ra
bước ngoặt trong lĩnh vực tranh in khắc gỗ ở Việt Nam. Họa sĩ chọn ngôn ngữ
nghệ thuật theo khuynh hướng Biểu hiện, chị sáng tác tranh từ những vấn đề
nội tâm bên trong của chị, về những ám ảnh ốm đau bệnh tật, về sự sống và
cái chết… có phần hoang tưởng, ảo giác và siêu thực. Trong bài viết Đinh Ý
Nhi và những khoảng tĩnh lặng trên trang antgct.com.vn ngày 01/ 06/ 2015
[24] có ý nói đến cách vẽ của họa sĩ Đinh Ý Nhi vẫn luôn vẽ từ nội tâm của
mình, vẫn biểu hiện những biểu cảm của cuộc sống, biểu hiện khát vọng bên
trong con người mình, biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân và cuộc sống và
biểu hiện những thân phận người trong đời sống đương đại. Trong bài viết
Đinh Thị Thắm Poong - người con của núi rừng trên báo nhandan.com.vn,
ngày 22/8/2007 [27], họa sĩ Đinh Thị Thắm Poong được giới thiệu là họa sĩ,
người con của núi rừng, chị thể hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với núi rừng
của con người vào trong tác phẩm của mình, chị thể hiện trong tác phẩm của
mình không phải chỉ là cái nhìn về cuộc sống của con người dân tộc, mà đằng
sau đó còn nói lên câu chuyện của đất nước. Qua những tác phẩm, Thắm
Poong thể hiện thái độ, tình cảm của mình với thiên nhiên, với đất nước, với
con người. Hội họa đã giúp cho chị biểu hiện ra những thái độ và tình cảm
của cá nhân chị, chị cũng mong truyền cảm xúc của mình tới người xem. Bài
Cảm nỗi buồn của Lý Trần Quỳnh Giang trong “Này, ốm à” trên báo
hanoimoi.com ngày 27/12/ 2010 của tác giả Đào Vân [31] viết về triển lãm
này của họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang. Vẽ về nỗi buồn trong tranh của họa sĩ
một phần bị chi phối bởi cá tính bên trong con người chị: thích sống lặng lẽ
và ẩn mình. Việc cô đơn của họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang khiến chị thoải
mái, đặc biệt là trong sáng tác. Bài Đinh Thị Thắm Poong: lặng lẽ với thiên
nhiên trên báo Thể thao & Văn hóa (thethaovanhoa.vn) ngày 25/04/2010 của
tác giả Đỗ Tường Linh [29]. Bài viết này là một bài phỏng vấn với họa sĩ
10
Đinh Thị Thắm Poong nhân dịp họa sĩ triển lãm tranh chủ đề Hòa nhập với
thiên nhiên, họa sĩ khẳng định đề tài chị ưa thích là thiên nhiên và cuộc sống,
qua triển lãm này, chị muốn thể hiện quy luật của tự nhiên và phản ánh những
vấn đề của môi trường hiện tại.
Tóm lại, vấn đề nghiên cứu về nghệ thuật biểu hiện và nghiên cứu về các
tác giả Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong đã có nhiều công trình nghiên cứu,
song vấn đề nghiên cứu về Yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh
Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong chưa có công trình nào nghiên
cứu chuyên biệt, điều này là cơ sở cũng như là sự gợi mở để tôi mạnh dạn đưa
ra việc tìm hiểu nghiên cứu về nội dung này.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh của ba họa sỹ, Lý Trần Quỳnh
Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, thể hiện qua nội dung và hình
thức của các tác phẩm. Từ những phân tích trên luận văn sẽ rút ra những nhận
định về sự tương đồng và khác biệt về yếu tố biểu hiện trong tranh của nữ họa
sĩ. Chỉ ra những đóng góp của ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi
và Đinh Thị Thắm Poong trong mỹ thuật Việt Nam đương đại, rút ra những
bài học kinh nghiệm cho bản thân từ việc nghiên cứu này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong các sáng tác
hội họa của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong.
- Phạm vi nghiên cứu: Một số tác phẩm tiêu biểu có yếu tố biểu hiện của
ba họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi và Đinh Thị Thắm Poong giai
đoạn sau năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh của Lý Trần Quỳnh Giang,
Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, luận văn này sử dụng các phương pháp
sau:
11
- Phương pháp nghiên cứu văn bản học: hệ thống, thống kê từ các nguồn
tư liệu, phân tích tài liệu và tổng hợp tài liệu. Hệ thống, tổng hợp các tư liệu
ảnh, văn bản về yếu tố, yếu tố biểu hiện, về các họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang,
Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, về mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới.
- Phương pháp so sánh: So sánh hình thức thể hiện của các họa sĩ khác
cũng vẽ biểu hiện để chỉ ra được ba họa sĩ này dùng hình thức nghệ thuật như
thế nào, mục đích gì.
- Phương pháp liên ngành: Để thấy rõ được yếu tố biểu hiện được bộc lộ
ra như thế nào trong tranh của Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị
Thắm Poong, luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử mỹ thuật,
mỹ học, tâm lý học.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn tổng hợp hệ thống các công trình, bài viết liên quan đến yếu
tố biểu hiện trong nghệ thuật hội họa.
- Luận văn làm sáng tỏ về những yếu tố Biểu hiện trong tranh của ba họa
sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong.
- Luận văn đưa ra những nhận định sự tương đồng và khác biệt về yếu tố
biểu hiện trong tranh của ba nữ họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Ý Nhi,
Đinh Thị Thắm Poong.
- Đóng góp của luận văn về mặt thực tiễn làm tài liệu nghiên cứu cho
việc giảng dạy và sáng tác trong các trường đào tạo nghệ thuật ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu (09 trang), nội dung (56 trang), kết luận
(02 trang). Phần nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung để nghiên cứu đề tài (16 trang).
Chương 2: Nghiên cứu yếu tố biểu hiện trong tranh của ba nữ họa sĩ (29
trang).
Chương 3: Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài (11 trang).
Ngoài ra luận văn còn có tài liệu tham khảo (02 trang), phụ lục ảnh minh
họa (26 trang).
12
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm về “Yếu tố Biểu hiện trong tranh”
Để xác định khái niệm “Yếu tố Biểu hiện trong tranh”, ta cần làm rõ
khái niệm “Yếu tố”, “Biểu hiện”. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ học [10], “Yếu tố” là: “1. Bộ phận cấu thành một sự vật, sự việc, hiện
tượng. 2. Như nhân tố”. Theo định nghĩa này, yếu tố được hiểu là chi tiết,
thành phần cấu tạo nên một sự vật, hiện tượng. Nói cách khác, yếu tố là một
thành phần của một toàn thể. Yếu tố có thể hiểu là điều kiện để tạo nên một
sự vật, hiện tượng bởi yếu tố còn được giải thích là nhân tố, yếu tố cần thiết
gây ra, tạo ra. Trong nghệ thuật hội họa, đồ họa, tác phẩm được hợp thành bởi
nhiều yếu tố như chất liệu tạo ra tác phẩm, kỹ thuật thể hiện, tâm trạng của
chủ thể sáng tạo và sự phối hợp các đường nét, hình khối, màu sắc, sắc độ…
Đây là những yếu tố cơ bản trong tác phẩm và chất lượng nghệ thuật của tác
phẩm được tạo nên từ việc sử dụng và kết hợp hài hòa giữa các yếu tố [32,
Tr.4]
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì “Biểu hiện”
có nghĩa là “tỏ ra, để lộ ra”. Còn trong Từ điển Thuật ngữ mỹ thuật phổ thông,
“Biểu hiện” có nghĩa là những dấu hiệu (cử chỉ, hành động bên ngoài hay
trong nội tâm) thể hiện một tình cảm hay một sự xúc động nào đó [8, Tr 27].
Biểu hiện và biểu cảm thường mang ý nghĩa giống nhau. Trong hội họa, biểu
hiện là họa sĩ bộc lộ, biểu đạt một dạng cảm xúc, nội dung tư tưởng nào đó
thông qua (từ) hình thức của tác phẩm. Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, phong
cách biểu hiện là những thuật ngữ được dùng để chỉ những ý tưởng nghệ thuật
sử dụng hình thể, đường nét thái quá hoặc màu sắc lạ thường, nhằm bộc lộ
ngay được cảm xúc của họa sĩ với đối tượng.
13
“Yếu tố biểu hiện” là yếu tố tạo ra những dấu hiệu thể hiện về tình cảm,
cảm xúc, tâm trạng, trạng thái tâm lý của con người. Nó có vai trò to lớn, làm
tăng thêm vẻ xúc động về sự vật, sự việc, trong mỹ thuật yếu tố biểu hiện
được bộc lộ qua ngôn ngữ hội họa, sự kết hợp bút pháp và kỹ thuật thể hiện
để tác phẩm nghệ thuật gây được xúc cảm tới người xem, tác động tới người
thưởng thức. “Yếu tố biểu hiện trong tranh” được hiểu là những dấu hiệu
bộc lộ tâm trạng, trạng thái tình cảm, cảm xúc trong tranh mà trong đó, người
nghệ sĩ đã sử dụng tất cả những phương pháp, ngôn ngữ hội họa, kỹ thuật để
thể hiện. Yếu tố biểu hiện được bộc lộ qua ngôn ngữ hội họa, sự kết hợp bút
pháp và kỹ thuật thể hiện để tác phẩm nghệ thuật gây được xúc cảm tới người
xem, tác động tới người thưởng thức.
Một tác phẩm nghệ thuật hội họa là tổng hòa của sự kết hợp ý tưởng,
nội dung và cách thể hiện ý tưởng trên tranh. Trong tác phẩm hội họa luôn có
sự đồng hành của nội dung và hình thức. Ở phần hình thức, nghệ sĩ sử dụng
những hiểu biết về mặt tạo hình và kỹ năng làm chủ chất liệu của mình để
đem đến cho người xem sự hấp dẫn về mặt thị giác. Qua đó, người xem có thể
cảm nhận được những cảm xúc, hiểu được những ý tứ sâu xa, tiếp nhận được
những thông điệp được thể hiện bằng hình thể, màu sắc, không gian mà họa sĩ
muốn bộc lộ, truyền tải. Những sự thể hiện ngôn ngữ của hội họa, kỹ thuật
trên tranh là những dấu hiệu giúp người xem cảm nhận rõ hơn ý đồ của họa sĩ
muốn trình bày. Cụ thể, trong khuynh hướng hội họa biểu hiện, sự vận dụng
cách thể hiện ngôn ngữ hội họa cho phép họa sĩ truyền đạt trực tiếp cảm xúc,
tình cảm, thái độ, ý tưởng tới người xem một cách chân thực nhất, nhanh
nhất. Nếu như ở trường phái Ấn tượng, người xem cảm nhận được những ấn
tượng của sự vật trước mắt mà họa sĩ đã trải nghiệm thì ở khuynh hướng hội
họa biểu hiện, họa sĩ không đi sâu vào diễn tả cái Ấn tượng trước mắt mà
muốn đưa người xem đến tiếp cận với những tình cảm bên trong con người,
cảm xúc và thái độ của mình. Để đưa người xem chạm tới những cảm xúc sâu
14
sắc và chân thực nhất của mình, họa sĩ biểu hiện phải thể hiện ngôn ngữ hội
họa một cách chọn lọc, cô đọng nhất, hình thể, đường nét, màu sắc phải mang
tính tượng trưng, biểu tượng. Chẳng hạn, để cảnh báo một vấn đề giao thông
thì con người phải cô đọng hình vẽ trên biển báo để ai cũng có thể hiểu được
một cách dễ dàng nhất, nhanh chóng nhất. Ví dụ trên tác phẩm The Scream –
Tiếng Thét [H.1, Tr81] của họa sĩ Edvard Munch, sự sử dụng mảng màu đỏ,
cam, xanh lam là mảng hình lớn chứa nhiều nét vận động xoắn vặn cộng với
việc bóp méo hình thể, diễn tả một con người đang hét trên cầu nhằm biểu lộ
ra cảm giác căng thẳng thần kinh trong con người. Chính cách thể hiện đó là
dấu hiệu cho người thưởng thức biết được tâm trạng của họa sĩ, nội tâm của
họa sĩ. Với tranh của ba nữ họa sĩ Đinh Ý Nhi, Đinh Thị Thắm Poong, Lý
Trần Quỳnh Giang, yếu tố biểu hiện được thể hiện qua cách tạo hình, kỹ thuật
thể hiện, kỹ năng sử dụng chất liệu để giúp người xem cảm nhận được cảm
nhận được cảm xúc bên trong nội tâm của tác giả, hiểu được ý đồ có trong nội
dung của bức tranh. Cụ thể là những vấn đề về con người và cuộc sống được
các họa sĩ quan tâm, hiểu được suy nghĩ, tình cảm của họa sĩ và vấn đề họa sĩ
muốn nói. Như vậy trong tranh vẽ thuộc khuynh hướng biểu hiện, họa sĩ phải
vận dụng tất cả những phương pháp thể hiện, kết hợp các ngôn ngữ của hội
họa để bộc lộ ý tưởng cá nhân và sáng tạo ra những dấu hiệu mang tính biểu
cảm nhất để người xem cảm nhận được ý tưởng, nội dung một cách dễ hiểu
nhất, tác động tới người xem một cách hiệu quả nhất.
1.2. Những yếu tố cơ bản của ngôn ngữ hội họa và vai trò của nó trong
khuynh hướng hội họa biểu hiện
Nghệ thuật tạo hình biểu thị và truyền đạt những cảm xúc thẩm mỹ trước
hiện thực thông qua ngôn ngữ riêng. Các yếu tố cơ bản của ngôn ngữ hội họa
là: đường nét, hình mảng, màu sắc, đậm nhạt, chất cảm … Có thể nói những
yếu tố này là phương tiện giúp họa sĩ truyền đạt được ý tưởng, cảm xúc của
mình với người xem.
15
* Đường nét
Đường nét là một yếu tố quen thuộc trong nghệ thuật tạo hình, nó là một
dấu hiệu tượng trưng cho một tiết diện của của mảng hoặc khối, tách rời một
sự vật với không gian xung quanh … Đường nét là một khái niệm được kết
hợp bởi hai yếu tố “ đường” và “nét”.
Đường nét là thủ pháp biểu hiện của hội họa, rất đa năng, do con người
sáng tạo ra.Thị giác của con người đã kết hợp lại cảm quan hình thức của
đường nét với tính năng của sự vật, từ đó dẫn tới muôn vàn liên tưởng, cho
nên, có thể nói “đường nét là biểu hiện sự thống nhất giữa cảm tính thị giác và
lý tính phân tích” [8, Tr 57]. Như vậy tính năng của đường nét là đem đến khả
năng liên tưởng.
Ví dụ như “đường thẳng đứng” tạo cảm giác chắc chắn, cứng rắn, trang
nghiêm…; “Đường thẳng ngang” tạo cảm giác tĩnh lặng, yên bình…; “Đường
chéo, xiên” tạo cảm giác bất ngờ, sống động…; “Đường cong” cho thấy sự
uyển chuyển, mềm mại, duyên dáng hay sự rung động về tình cảm…; “Đường
gẫy, gấp khúc” tạo ra sự chuyển hướng, thay đổi, hỗn loạn hay rạn vỡ….
Những tính chất của đường nét có thể được mô tả bằng những từ thông
thường của cảm giác như trên, nhưng cũng giống như tình cảm của con người
đôi khi khó xác định rõ được đường nét ấy tạo cảm giác gì. Có nhiều sự thay
đổi tinh tế được họa sĩ biểu đạt qua đường nét vì vậy nhiều khi người xem và
họa sĩ cũng cần có những kinh nghiệm thị giác tương đồng ở một mức độ nào
đó. Đường nét vừa giúp người xem phân biệt được ranh giới giữa các hình,
vừa giúp người xem phân biệt được không gian trong tranh. Nếu sử dụng linh
hoạt đường nét kết hợp với những diện mảng thích ứng sẽ làm tăng hiệu quả
biểu hiện của hình thể trong tranh.
* Hình và nền
Hình và nền cũng đóng vai trò quan trọng trong thực hành nghệ thuật tạo
hình. Hình: có tính nhô nổi, mật độ cao, có cảm giác đầy, chặt, có hình dạng
16
rõ ràng, có đường bao hoặc đường ranh giới. Nền: có tính lùi sau, mật độ
thấp, không có cảm giác đầy chặt, hình dạng tương đối rời rạc, không có
đường ranh giới cố định. Tóm lại, hình có tính ngưng tụ, đem lại cho người ta
ấn tượng mạnh; nền thì ngược lại [25, Tr 43]. Trong hội họa, còn có sự phân
chia hình và mảng, hình mảng gợi ra hình thể của sự vật được thể hiện trên
tranh. Hiệu quả của hình mảng là gợi ra sự liên tưởng đến sự vật với tính chất
như thế nào, hình mảng trong tranh có thể gợi ra được ý nghĩa nhất trên cơ sở
sử dụng ít thông tin nhất.
* Màu sắc
Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn luôn tiếp xúc với màu sắc,
với sự đa dạng và phong phú của nó. Màu sắc cũng là một yếu tố phổ biến và
rất được xem trọng trong hội họa. Khi đứng trước một bức tranh người ta
thường bị lôi cuốn bởi màu sắc hơn là các yếu tố khác, nó có tính hấp dẫn và
kích động ghê gớm đến thị giác của chúng ta. Sự nhận biết về màu thường
gắn liền với các hiệu quả tâm lý, cảm xúc do màu tạo ra. Màu sắc tác động rất
phức tạp, tinh vi và rất nhạy vào tâm lý tạo ra xúc cảm, liên tưởng, xây dựng
nên tình cảm trong con người một cách mạnh mẽ. Tâm lý màu dựa trên những
thói quen thị giác không ổn định của con người về màu. Mỗi dân tộc, trong
quá trình lịch sử phát triển của mình, do điều kiện khí hậu, tự nhiên, tư tưởng,
tập tục văn hóa… đã dần tạo nên một tâm lý màu riêng biệt , độc đáo, có tính
bản sắc. Mỗi con người cũng vậy, tâm lý màu cũng được hình thành do kinh
nghiệm màu trong quá trình cuộc sống. Nhưng có một số tác động tâm lý của
màu mang tính quy luật được mọi người, mọi họa sĩ, các nhà nghiên cứu công
nhận đó là:
- Nóng – lạnh
- Xa – gần
- Nặng – nhẹ..
17
Và màu sắc cũng được dùng phù hợp để tạo ra tâm trạng, tượng trưng
cho ý tưởng và thể hiện cảm xúc cá nhân. Ngoài chức năng thẩm mỹ, màu sắc
cũng là một ngôn ngữ tượng trưng. Màu sắc tạo ra tính liên tưởng tùy theo
môi trường văn hóa và kinh nghiệm sống. Ví dụ màu đỏ cho cảm giác nóng,
ấm, nồng nhiệt và kích động trong khi màu xanh gợi ra một tâm trạng buồn bã
hoặc yên ả, nhưng cũng màu xanh mà cường độ màu của nó mạnh mẽ, chói
gắt thì lại tạo ra sự liên tưởng tới sự phấn khích…
Đậm nhạt:
Một yếu tố quan trọng trong hội họa không thể không nói đến đó là đậm
nhạt. Có nhiều lối dùng đậm nhạt trong hội họa tùy vào mục đích của tác
giả.Ở lối dùng đậm nhạt có tính mô tả, họa sĩ thường quan tâm đến việc diễn
tả ánh sáng tác động lên các sự vật, con người theo những quy luật vật lý trên
trái đất và thường chỉ có một nguồn sáng nhất định. Theo đó thì cảm giác
chiều sâu không gian trong tranh như thực với hiện thực trước mắt. Còn ở lối
dùng đậm nhạt mang tính chủ quan thì họa sĩ thường chủ động dùng đậm nhạt
với diện tích tỉ lệ rõ ràng tạo ra những cảm giác khác nhau như: một tác phẩm
có nhiều vùng tối tạo không khí bí ẩn, rung rợn, kịch tính, đe dọa hoặc buồn
thảm trong khi một tác phẩm chủ yếu là vùng sáng sẽ cho hiệu quả ngược lại.
Dùng đậm nhạt chủ quan hơn nhằm để đẩy cao hơn nữa cung bậc cảm xúc nơi
người thưởng thức.
* Chất cảm
Chất cảm thường được sử dụng trong nghệ thuật tạo hình để chỉ khả
năng cảm thụ bề mặt sự vật nói chung (bao gồm cả xúc giác và thị giác) của
nghệ sĩ và hiệu quả cấu trúc bề mặt một tác phẩm mà họa sĩ đã xử lý… Bề
mặt của tác phẩm có những độ gồ ghề, thô ráp hay láng mịn.. để tạo ra hiệu
quả cảm xúc với người xem. Đây cũng là một yếu tố ngôn ngữ của hội họa
nếu được kết hợp khéo léo với hình thể, màu sắc, đậm nhạt sẽ tạo hiệu quả
biểu hiện trực tiếp và mạnh mẽ đến cảm xúc của người xem.
18
Bên cạnh những yếu tố đã nói ở trên, yếu tố bố cục và không gian cũng quan
trọng trong nghệ thuật tạo hình. [31, Tr 30]
*Không gian
Không gian trong nghệ thuật tạo hình thực chất là không gian ảo.
Những hệ thống không gian trong tranh bao gồm: Không giant rang trí, chứa
đựng những hình ảnh có tính chất hình học, gọi chung là không gian hai
chiều. Không gian mang lại cảm giác như thực gọi là không gian ba chiều. Sự
kết hợp của không gian hai chiều và ba chiều tạo cảm giác vừa thực vừa hư,
tạm gọi là không gian “hai chiều rưỡi”. Trong nghệ thuật tạo hình, không
gian dù có là không gian tả thực hay không gian trang trí , nó cũng mang lại
hiệu quả mang lại cảm xúc cho người xem về chiều sâu không gian, tạo cảm
giác về không gian không thực sự tồn tại trên mặt phẳng hai chiều của bức
tranh [31, Tr 30].
*Bố cục
Bố cục là sự sắp xếp hài hòa giữa những hình mảng, màu sắc, đường nét,
không gian trong tranh. Nói cách khác, bố cục là sự sắp xếp tất cả các yếu tố
ngôn ngữ tạo hình để xây dựng một tác phẩm, làm nổi rõ ý đồ sáng tác của
họa sĩ
*Vai trò của yếu tố ngôn ngữ hội họa trong khuynh hướng hội họa Biểu
hiện.
Chủ nghĩa Biểu hiện với đặc trưng đề cao thế giới nội tâm con người,
thể hiện tình cảm, cảm xúc cực đoan bên trong của họa sĩ , thể hiện sự lo lắng
hay khát vọng của họa sĩ đối với xã hội. Cảm xúc chủ quan mạnh mẽ này sẽ
quyết định hình thức của tác phẩm, nó cũng quyết định các yếu tố ngôn ngữ
của hội họa được thể hiện như thế nào trong tranh. Do đó, người ta thường
thấy hình thể con người trong tranh hay có vẻ bị biến dạng thái quá, màu sắc
với cường độ mạnh, nét viền thường dày và đậm. Nét vẽ gãy góc tạo cảm giác
- Xem thêm -