Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn tốt nghiệp thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của v...

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của việt nam

.PDF
83
21550
71

Mô tả:

Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương CHƯƠNG I VAI TRÒ CỦA HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ Giới thiệu chung về nghề truyền thống hàng thủ công mỹ nghệ Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam vốn có truyền thống từ lâu đời. Truyền thống đó gắn liền với tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng những sản phẩm thủ công truyền thống, với những nét độc đáo, tinh xảo, hoàn mỹ. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam có nét riêng và độc đáo tới mức tên của sản phẩm luôn kèm theo tên làng làm ra nó. Sản phẩm nổi tiếng cũng làm cho làng nghề tạo ra các sản phẩm ấy nổi tiếng. Nhiều làng nghề truyền thống của ta nổi bật hẳn lên trong lịch sử văn hoá, văn minh Việt Nam. Ở đó không chỉ tập trung một hay nhiều nghề thủ công, trở thành một trung tâm sản xuất lớn hoặc khá lớn, mà còn là nơi hội tụ các thợ và nghệ nhân tài hoa, tạo ra những sản phẩm có bản sắc riêng, nơi khác khó bề bắt chước được. Lịch sử phát triển nền văn hoá và kinh tế của đất nước luôn gắn liền với lịch sử phát triển làng nghề Việt Nam. Bởi những sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là những vật phẩm văn hoá hay vật phẩm kinh tế thuần tuý cho sinh hoạt thường ngày mà nó chính là những tác phẩm nghệ thuật biểu trưng của nền văn hoá xã hội, trình độ phát triển kinh tế, dân trí, đặc điểm nhân văn của dân tộc. Đồng thời, các làng nghề không chỉ đơn thuần là nơi sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá mà còn là một môi trường văn hoá - kinh tế - xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời của dân tộc. Nó bảo lưu cả những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, chung đúc ở các thế hệ nghệ nhân tài năng, với những sản phẩm có bản sắc riêng của mình, nhưng lại tiêu biểu và Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 1 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương độc đáo cho cả dân tộc Việt Nam. Môi trường văn hoá làng nghề cũng chính là khung cảnh làng quê, cây đa, bến nước, đình chùa, đền miếu…, các lễ hội và hoạt động phường hội, phong tục tập quán, nếp sống đậm nét dân gian và chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Truyền thống đó từ lâu đã trở thành một bộ phận không thể thiếu và làm phong phú thêm truyền thống văn hoá Việt Nam. Chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, trước khi có nền sản xuất cơ khí hoá và hiện đại hoá, kể cả tự động hoá như hiện nay, thì mọi sản phẩm trong xã hội đều được làm ra bởi một nền công nghệ duy nhất, đó là công nghệ truyền thống với đôi bàn tay và khối óc sáng tạo của các thế hệ thợ thủ công cùng việc sử dụng các loại công cụ sản xuất thô sơ. Nói khác đi, mọi giá trị vật phẩm vật chất (vật thể) và tinh thần (phi vật thể) trong các thời kỳ lịch sử – xã hội lúc đó của dân tộc ta, cũng như các dân tộc khác trên thế giới, đều là sản phẩm thủ công, đều hội tụ ở các sản phẩm thủ công. Hơn thế nữa, ngay cả ở thời hiện đại, khi mà máy móc đã thay thế phần lớn sức lao động của con người, nền sản xuất và sản phẩm thủ công cũng không mất đi. Chúng tồn tại, phát triển song song với công nghệ và sản phẩm hiện đại. Với sự giúp đỡ của máy móc và thiết bị hiện đại, công nghệ truyền thống sẽ được hiện đại hoá, nền sản xuất thủ công thủ công truyền thống ngày càng phát triển thuận lợi và mạnh mẽ hơn. Nói chung, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, biết bao sản phẩm hiện đại được tạo ra từ những máy móc hết sức thông minh. Bên cạnh đó, tuy được làm từ những đôi bàn tay cần cù chịu khó của những người lao động thủ công, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vẫn tồn tại và bước vào đời sống thường nhật một cách giản dị, tự nhiên, dần phát triển muôn hình vạn dạng, bắt kịp với nhịp sống ngày một cao. Nó như một thứ gia vị không thể thiếu làm tăng thêm sắc màu cho cuộc sống hiện đại ngày nay. Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 2 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương 2. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được sản xuất từ rất nhiều loại nguyên liệu khác nhau và mỗi sản phẩm được tạo ra bằng các quy trình hoàn toàn khác nhau. Dù thế nào các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều có một nét chung là kết quả của lao động nghệ thuật với tay nghề điêu luyện, trí tuệ sáng tạo độc đáo của các tay thợ tài ba. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng. Có thể kể đến, đó là: hàng gốm sứ, hàng đúc đồng, hàng mây tre đan, hàng thêu ren, hàng thổ cẩm, hàng gỗ, hàng sơn mài, hàng kim hoàn, hàng rèn, hàng đá và một số hàng nổi tiếng như nón, tranh dân gian, giấy dó ở các làng nghề truyền thống… Dưới bàn tay khéo léo và khối óc tài hoa của những người thợ thủ công, từ các nguyên liệu thô sơ, họ đã tạo ra biết bao thành phẩm không những có giá trị về kinh tế mà có giá trị về nghệ thuật. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất ra đã có sức thu hút lớn không chỉ với người tiêu dùng Việt Nam mà còn được người tiêu dùng nhiều nước ưa chuộng. Nhiều sản phẩm, mặt hàng đã được xuất khẩu ra thị trường ngoài nước. Dưới đây, khoá luận xin nêu ra một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu tương đối lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. 2.1. Hàng gốm sứ Gốm sứ là loại hàng phổ biến trong cuộc sống của mọi tầng lớp dân cư. Sản phẩm của nghề này có thể dùng phổ biến trong cuộc sống hàng ngày (bát đĩa, ấm chén, nồi, chum vại…), trong xây dựng (chân sứ, vật cách điện…) hay làm đồ thờ (bát hương, lọ đựng hương, các tượng, lọ hoa…), tranh tượng và đồ lưu niệm… Gốm sứ được sản xuất ở mọi nơi trên đất nước ta. Các làng nghề truyền thống sản xuất gốm sứ nổi tiếng là Bát Tràng (Hà Nội), làng Cậy (Hải Dương), Thổ Hà (Bắc Ninh), Móng Cái (Quảng Ninh), Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 3 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương Hương Canh, Hiến Lễ (Vinh Phú), Thanh Hoá, Phước Phú (Huế), Thanh Hà (Quảng Nam), Đồng Nai, Sông Bé, Thủ Dỗu Một… Các sản phẩm nổi tiếng truyền trong dân gian là “Sứ Móng Cái, vại Hương Canh” hay “chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng”… Gốm sứ có nhiều loại: men ngọc, men nâu (hay hoa nâu) xuất hiện từ thời Lý, hoa lam (đời Trần)… Kỹ thuật làm gốm sứ vẫn xoay quanh hai vấn đề lớn là kỹ thuật bàn xoay và lò nung. Ngoài lò hộp (nung bằng than) và lò vồng (nung bằng củi) hiện nay đã xuất hiện kiểu lò tunel đốt gas. Sản phẩm gốm sứ không những tràn ngập trong nước mà còn rất có giá trị ở nước ngoài. Cách đây 200 năm, khúc sông xã Bát Tràng còn có một bến cảng chở đồ gốm sứ sang Nhật Bản. Ngày nay nhiều mặt hàng bị nhái, làng nghề lan tỏa nhưng ở những làng truyền thống vẫn giữ được bí quyết của mình đối với những mặt hàng tinh xảo chẳng hạn Thổ Hà vẫn giữ được sành nâu, Hương Canh, Phù Lãng vẫn giữ được gốm da lươn, Chu Đậu (Hải Dương) vẫn giữ được men hoa lam, gốm Tức Mặc (Nam Định) gọi là “Thiên tường phủ chế”…, gốm Bát Tràng giữ được men ngọc, men rạn. 2.2. Hàng mây tre đan Mây, tre, song rất gần gũi với người Việt Nam. Từ lâu các nghệ nhân đã tạo nên rất nhiều sản phẩm mỹ nghệ độc đáo từ những nguyên liệu sẵn có này (giường, bàn, ghế, lẵng hoa, hình các con vật, đồ lưu niệm..) Hàng mây, tre của làng Phú Vinh (Hà Tây) có tới 500 mẫu mã khác nhau. Hàng mây tre đan được phát triển trong cả nước, nổi tiếng là làng Phú Vinh (Hà Tây), Ngọc Động (Hà Nam), Thượng Hiền (Thái Bình), Hoà Bình (Bình Định), Vĩnh Ba (Phú Yên), Yên Sở (Hà Tây), Nho Quan (Ninh Bình). Nghề mây tre đan ở Phú Nghĩa, Chương Mỹ đã thu hút 80-85% lao động. Ở làng Phú Vinh có 8000 người làm nghề đan lát, thu nhập lên tới 2,2 Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 4 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương tỷ đồng/năm. Có thể nói nghề này đã thu hút hút một khối lượng lớn những người lao động, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống người dân. 2.3. Hàng gỗ thủ công mỹ nghệ Loại hàng này đã xuất hiện từ lâu đời vì gỗ là đồ dùng thông dụng khắp mọi nơi. Người dân Việt Nam dùng sản phẩm đồ gỗ cho thờ cúng (Hoành phi, câu đối, ngai, tượng, mâm bồng, bàn thờ, ống hương…) và gỗ để làm giường tủ, sập, bàn ghế hay tranh gỗ, các con vật bằng gỗ… Hàng Tiện xưa là nơi buôn bán các hàng tiện gỗ như mâm bồng, ống hương, đài rượu, khuôn oản… do người làng Nhị Khê làm (nay là Hàng Hành, phố Tô Tịch ). Phố Hàng khay chuyên bán sản phẩm đồ gỗ của làng Đồng Kỵ. Chạm khắc gỗ nổi tiếng ở Việt Nam có làng Phù Khê, Hương Mạc, Đồng Kỵ, Đồng Quang (Bắc Ninh), Bích Chu (Vĩnh Phú), Vân Hà (Hà Nội), Võ Lăng (Hà Tây), Lý Nhân (Hà Nam), La Xuyên (Nam Định), làng Sinh, Kim Bồng (Quảng Nam), Nhạn Tháp (Bình Định), Phú Lộc (Ninh Bình), Bảo Hà (Hải Phòng), Mỹ Xuyên (Huế). Trong các cơ sở nổi tiếng trên, Đồng Kỵ là cơ sở sản xuất gỗ mỹ nghệ lớn nhất ở nước ta. Mặt hàng của đồ gỗ rất phong phú, nghề mộc là nghề phổ biến trong dân gian. Các thợ sau khi học được nghề có thể tách nhóm để làm ăn ở nơi khác vì mọi nơi đều cần đồ gỗ. Tại những nơi mới đó, người thợ vừa học, vừa làm và lại có cơ hội tách nhóm. Không giống các nghề khác, nghề này được nhân rộng rất nhanh. Quá trình lao động cần cù say mê đó đã tạo nên các lớp thợ giỏi, sáng tạo… (“nhất nghệ tinh, nhất tinh vinh”) và từ đó nhiều mẫu mã hàng mới xuất hiện. Quá trình phát triển của nghề này gắn liền với sự ra đời của nghề điêu khắc, khảm trai. Nhiều mẫu mã của sản phẩm đồ gỗ được lấy từ Trung Quốc, đặc biệt là các hàng gắn với điển tích như tùng cúc trúc mai, Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 5 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương long ly quy phượng, ngai thờ, các loại tượng, tủ chè, sập gụ…Từ các đường lèo, các hoạ tiết khác thường được nảy sinh trong sáng tạo của các nghệ nhân… Vì vậy, trình độ sáng tạo nhanh được nhân lên ở các tay thợ cả, các nghệ nhân. Khi kết hợp với nghệ thuật khảm trai, ốc, giá trị của sản phẩm được tăng lên gấp bội. Khảm trai, ốc làm nổi bật các đường nét của các tác phẩm, đặc biệt là các tác phẩm mang điển tích. Thị trường về sản phẩm gỗ mỹ nghệ lại rất rộng và triển vọng ở nước ngoài. Ngày nay nhiều khâu nặng nhọc như pha cắt gỗ, bào… được cơ giới hoá làm cho năng suất lao động nâng cao và phần quan trọng còn lại dành cho các khâu tinh chế với tài năng sáng tạo của các nghệ nhân. Trong điều kiện khan hiếm về nguyên liệu, ở một số sản phẩm có thể phải thay thế nguyên liệu nhưng cần lưu ý là giá trị sản phẩm sẽ tăng khi được đầu tư thoả đáng về chất xám. Từ đó, cần có kiến thức toàn diện ở nhiều lĩnh vực cho việc tạo nên một sản phẩm hoàn thiện hơn (tạo dáng, hoạ tiết…) 2.4. Hàng thêu ren Thêu ren là một nghề thủ công truyền thống đặc biệt ở nước ta mà mọi sản phẩm của nó đều là những tác phẩm nghệ thuật do bàn tay khéo léo của thợ thủ công tạo nên. Dụng cụ của nghề rất đơn giản nhưng sự khéo léo, sự kiên trì và sáng tạo là vô hạn. Ngày nay ở một số nước, người ta dùng máy trong nghề này mang lại năng suất lao động rất cao, nhưng máy cũng chỉ là máy, chỉ có bàn tay khéo léo của con người mới làm nên những sản phẩm kỳ diệu. Những sản phẩm đồng loạt có thể dùng máy (như thêu chữ, thêu cờ, thêu biểu tượng, khăn…) nhưng nếu muốn có sản phẩm độc nhất vô nhị… thì phải cần đến bàn tay vàng của các nghệ nhân. Hàng thêu ren nổi tiếng ở Lý Nhân, Thanh Liêm (Hà Nam), Minh Lãng (Thái Bình), Văn Lam (Ninh Bình), Quất Động, Ninh Hải… ở các vùng dân tộc Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 6 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương thiểu số, các bà mẹ, cô gái thường thêu những sản phẩm cho riêng mình. Thêu ren là một nghề sớm có ở nước ta, phạm vi sản xuất khá hạn hẹp, thị trường tiêu thụ lại nhỏ so với khả năng sản xuất nên lượng hàng tồn đọng nhiều. 2.5. Hàng thổ cẩm Đây là một loại hàng đặc biệt của đồng bào dân tộc thiểu số. Sản xuất ra hàng thổ cẩm có người Chăm ở Chương Mỹ (Ninh Thuận), Phan Hoà (Bình Thuận). Dệt vải Riêng của người Cà Ho (Lâm Đồng), người Thái, Mường, Tày, Dao, Lự ở miền Bắc, người Khơ me, Xê đăng, Gia rai, Bana, Chăm, Ê đê, Giả Triêng ở miền Nam đều có nghề dệt gia đình. Ở Miền Bắc nổi tiếng dệt thổ cẩm với các làng nghề Nà phồn, Xâm Khoè, Mai Tịch, Chiềng Châu (Hoà Bình) của dân tộc Thái; 4 làng nổi tiếng của dân tộc Mường là Mường Bí, Mường Vang, Mường Thành, Mường Đậu (Hoà Bình). Hàng mỹ nghệ thổ cẩm có rất nhiều loại: quần áo, túi xách, ví… với rất nhiều kiểu dáng kích cỡ khác nhau, tiêu dùng nội bộ theo tập tục của các đạo giáo trong các lễ hội là chủ yếu. Nghề thổ cẩm phát triển với những bước thăng trầm và thị trường hạn hẹp, người thợ thủ công chỉ tận dụng thời gian những lúc nông nhàn. Thu nhập của họ chủ yếu là từ nông nghiệp. Vì vậy, chỉ có những người yêu nghề hơn yêu mình mới gắn bó với nghề. Trong khi đó, nghề này tương đối phát triển ở ngoài Bắc (ở Hoà Bình). Sản phẩm được bán ở các chợ và nhiều người nước ngoài có mặt tại các điểm du lịch thường say sưa ngắm nhìn và mua sắm loại sản phẩm này. 3. Đặc thù của hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống Hàng thủ công mỹ nghệ do các nghệ nhân và thợ thủ công trong các làng nghề sản xuất theo từng công đoạn của toàn bộ dây truyền công nghệ, có sự hợp tác của nhiều người lao động làm ra. Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 7 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương Nếu như người thợ trong nhà máy, xí nghiệp sản xuất hàng hoá trên dây truyền hiện đại chỉ thực hiện đúng thao tác quy chuẩn, càng nhanh và chính xác càng tốt, không được sai khác, thì người thợ thủ công vừa thao tác theo khuôn mẫu đã định, còn tự do sáng tạo theo trình độ và tay nghệ của mình. Người thợ giỏi, nhất là nghệ nhân, họ mặc sức tung hoành, sáng tạo trong quá trình tạo ra sản phẩm. Ở đây, nghệ nhân, thợ cả vừa là người quản lý và chỉ đạo sản xuất, vừa là người trực tiếp làm ra sản phẩm. Trong khi đó, các nhà quản lý và kỹ sư công nghiệp không thể trực tiếp đứng máy như người công nhân. Bởi vậy, trong sản phẩm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ mang những nét rất đặc thù rất riêng: 3.1. Trong sản phẩm thủ công mỹ nghệ, văn hoá tinh thần kết tinh trong văn hoá vật thể Những con Rồng, Phượng, Rùa, Lân được chạm khắc ở các đình chùa, hoa văn trang trí trên các trống đồng, men màu trên đồ gốm sứ, đồ án hoa văn hoạ tiết trên sản phẩm thêu, dệt vải, lụa, thổ cẩm… trước hết đó là văn hoá vật thể, nhưng chúng hàm chứa những quan điểm tư tưởng triết học Phương Đông, triết lý về trời - đất - con - người, quan niệm về tôn giáo và thần quyền, đặc biệt là triết lý đạo Phật, đạo Giáo, đạo Nho (Khổng, Mạnh) và triết lý Kinh Dịch. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam bao giờ cũng phản ánh sâu sắc tư tưởng, tình cảm, quan niệm thẩm mỹ của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hoá Việt Nam. Giá trị mỗi sản phẩm thủ công được khách hàng trong và ngoài nước nhìn nhận chủ yếu từ góc độ văn hoá nghệ thuật dân tộc, sau đó mới đến vấn đề kỹ thuật và kinh tế. 3.2. Hàng thủ công mỹ nghệ mang đậm tính cá biệt, phong cách của mỗi nghệ nhân và nét đặc trưng địa phương, tồn tại trong sự giao lưu với cộng đồng Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 8 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương Hàng chạm trổ trên từng chất liệu khác nhau (gỗ, đá, đồng, sừng, xương…), hàng sơn (sơn quang, sơn then, sơn thếp vàng bạc, sơn mài), hàng thêu, dệt (tơ lụa, chiếu, thảm…) hàng mây tre đan, kim hoàn, đồ chơi… ở mỗi làng nghề đều có màu sắc riêng, từng nghệ nhân cũng có những nét riêng. Những nét riêng đó được thử thách qua thời gian, qua giao lưu, được chọn lọc, được thừa nhận để tồn tại và phát triển, cùng với sự bổ sung lẫn nhau, trở thành những kiểu mẫu hoàn thiện hoàn mỹ cho những sản phẩm cùng loại được sản xuất tiếp theo. 3.3. Hàng thủ công mỹ nghệ là loại sản phẩm nghệ thuật, kết tinh từ những thành tựu kỹ thuật - công nghệ truyền thống, phương pháp thủ công tinh xảo với đầu óc sáng tạo nghệ thuật Sự giao kết giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật của nghệ nhân và người thợ thủ công đã tạo ra hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng và sản phẩm thủ công truyền thống nói riêng. Sự giao kết này kéo theo những đặc thù khác trong sự phát triển hàng thủ công: - Tính riêng, tính đơn chiếc mạnh hơn tính đồng loạt. - Chiều sâu nhiều hơn chiều rộng – mang tính trường phái, gia tộc, giữ bí quyết trong sáng tạo hơn là sự phổ biến rộng rãi. - Đầy chất trí tuệ, tri thức tích tụ lâu đời. - Sử dụng hàng thủ công phải đồng thời thưởng thức nó nữa (thưởng thức nghệ thuật và tư tưởng, trí tuệ) Nghiên cứu và hoạch định chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hàng thủ công mỹ nghệ không thể bỏ qua những nét đặc thù đó. Điều này cũng cần thiết trong việc củng cố và hình thành óc thẩm mỹ của người tiêu dùng. Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 9 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương Với những đặc thù như trên, ngày nay, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng tìm được chỗ đứng vững chắc của mình trong nước cũng như trên trường quốc tế. Nghề thủ công với sản phẩm tinh xảo và “bàn tay vàng” của các nghệ nhân vẫn tiếp tục có vai trò, vị trí quan trọng hơn trong xã hội chúng ta. II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM. Xuất khẩu là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Xuất khẩu là hoạt động chính tạo tiền đề, điều kiện cho quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hoạt động xuất khẩu càng có nghĩa thiết thực hơn. Điều này, không những thu về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn, mà quan trọng hơn còn là cơ hội để chúng ta phát huy các lợi thế so sánh của đất nước, mở rộng các ngành nghề sản xuất, giải quyết công ăn việc làm cho xã hội. Với ý nghĩa đó, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ - một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, có một vai trò vô cùng to lớn đối với phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. 1. Thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Văn kiện Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định con đường phát triển của đất nước là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm xây dựng nước Việt Nam thành nước công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để làm được điều đó, chúng ta cần vốn để nhập máy móc, thiết bị, khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại… Vốn để nhập khẩu có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, hoạt động du lịch, xuất Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 10 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương khẩu sức lao động… Các nguồn vốn đó tuy quan trọng nhưng cũng phải trả bằn cách này hay cách khác vào thời kỳ sau. Như vậy, để thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách có hiệu quả và vững chắc, đạt mục tiêu biến nước ta thành nước công nghiệp vào năm 2020, phải dựa vào một nguồn vốn vô cùng quan trọng – xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đóng một vai trò rất quan trọng. Kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đang có xu hướng tăng. Trong giai đoạn 1991-2000, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có nhịp độ tăng khá nhanh. Nếu năm 1991 mới đạt 6,8 triệu USD, năm 1996 đã đạt 124 triệu USD, năm 1999 là 168 triệu USD, thì đến năm 2000 đã đạt 236 triệu USD, tiếp đó, năm 2001 là 235 triệu USD, 9 tháng năm 2003 đạt triệu USD. Với tốc độ tăng nhanh như vậy, hàng thủ công mỹ nghệ đã trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (đứng thứ 8 trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, vượt kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng khác). Thành công trên tuy còn khiêm tốn, nhưng đã góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung ngày càng tăng trưởng. 2. Tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân Thất nghiệp cao là sự lãng phí lớn về nguồn lực, đồng thời cũng là nguyên nhân thúc đẩy tình trạng bất ổn và tệ nạn xã hội phát triển. Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ – Okun đã thống kế từ năm 1975 đến 1987, tỷ lệ thất nghiệp trung bình ở Mỹ là 9,6%, làm cho nước Mỹ thiệt hại hàng nghìn tỷ USD. Văn kiện Đại hội IX đã đặt ra việc giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% và tăng thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên 75% là mục tiêu chính. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có thể giúp chúng ta thực hiện mục tiêu đó vì đa Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 11 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương phần lao động ở vùng nông thôn. Ở đó, dân đông, trình độ dân trí thấp, dân số không ngừng tăng lên trong khi diện tích đất đai vẫn giữ nguyên, thậm chí còn bị chiếm dụng để sử dụng cho mục đích khác. Vì vậy, nhu cầu tìm việc cho người dân nông thôn và cho những người lao động không có đất canh tác ở những vùng nông thôn hiện nay đã trở thành nhu cầu vô cùng cấp thiết. Sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những biện pháp hữu hiệu giải quyết tình trạng này. Bởi lẽ, hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu được làm bằng tay nên thu hút nhiều lao động có trình độ tay nghề vừa phải, không đòi hỏi cao về chuyên môn kĩ thuật, nghiệp vụ hay ngoại ngữ như những ngành khác. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tạo điều kiện cho hàng nghìn lao động nông thôn có việc làm, tạo đầu ra cho sản xuất và thu nhập ổn định cho người dân. Theo tính toàn, cứ xuất khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo việc làm và thu nhập cho khoảng từ 3000 đến 4000 lao động chủ yếu lao động từ các làng nghề nông thôn. Như vậy, với kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ như hiện nay, đã thu hút và tạo việc làm cho tà 500.000 đến 600.000 lao động có thu nhập khá. Nếu tính cả lao động nông nhàn thì con số này lên tới hơn 1 triệu người. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có tác dụng lớn trong việc tạo ra công ăn việc làm và tăng thu nhập chính đáng cho lao động trong nước, góp phần xoá đói giảm nghèo. Từ đó, giải quyết được vấn đề thất nghiệp, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội, góp phần đảm bảo trật tự an ninh xã hội. 3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, thúc đẩy sản xuất phát triển Xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại kéo theo sự thay đổi của cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới. Để theo kịp và hoà nhập vào xu thế chung đó, chúng ta không thể không tìm một cơ Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 12 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương cấu kinh tế phù hợp. Văn kiện Đại hội IX khẳng định: “muốn tham gia hợp tác quốc tế thật sự bình đẳng và có lợi, tận dụng nguồn lực bên ngoài, khai thác và sử dụng có hiệu quả nội lực, nói cách khác, phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, bảo đảm khả năng giữ vững độc lập, tự chủ kinh tế, chủ động tham gia phân công lao động và hợp tác quốc tế”. Thực tế nhiều nước đã chứng minh rằng xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng chính là một biện pháp tích cực giúp ta chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thứ nhất, xuất khẩu thủ công mỹ nghệ là một phương tiện quan trọng, tao ra vốn để nhập kỹ thuật và công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo năng lực sản xuất mới, hiệu quả hơn. Thứ hai, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ cho hàng thủ công mỹ nghệ, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển và ổn định. Thứ ba, thông qua xuất khẩu, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam sẽ phải tham gia vào cuộc cạnh tranh vô cùng khắc nghiệt trên thị trường thế giới về giá và chất lượng. Trong cuộc cạnh tranh đó, để tìm được chỗ đứng cho mình, doanh nghiệp Việt Nam phải tổ chức lại sản xuất, mở rộng và nâng cao cơ sở vật chất sẵn có, hình thành cơ cấu sản phẩm có hiệu quả, thích nghi với sự biến động của thị trường thế giới, đồng thời đổi mới và hoàn thiện sản xuất quản trị kinh doanh, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ trong ngành. Thứ tư, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tạo điều kiện cho các ngành cùng có điều kiện và cơ hội phát triển. 4. Góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế Đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, du lịch, xuất khẩu lao động … phần nào giúp ta cân bằng cán cân thanh toán quốc tế nhưng khoản tiền đó có Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 13 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương thể giảm và lẽ dĩ nhiên sẽ làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế. Nếu phát triển xuất khẩu, nhất là những ngành có tỷ lệ thực thu ngoại tệ cao như thủ công mỹ nghệ (chiếm từ 95 – 97% giá trị xuất khẩu), Việt Nam không những có vốn để nhập vật tư, thiết bị, công nghệ mới, hiện đại phục vụ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ mà còn có thể tích luỹ thêm vào nguồn thu nhập ngoại tệ của đất nước để thanh toán các khoản nợ đó đến kỳ hạn, tạo uy tín cho các kỳ vay tiếp theo. Nếu không làm như vậy đến một lúc nào đó sẽ phải áp dụng một biện pháp tiêu cực là cắt giảm nhu cầu nhập khẩu của mình. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. 5. Mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại, có thể có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế… Ngược lại, chính các hoạt động kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Ví dụ: phát triển các hình thức tín dụng hay vận tải quốc tế sẽ tạo điều kiện để các nhà xuất khẩu xuất khẩu được dễ dàng hơn. 6. Duy trì các ngành nghề truyền thống, tăng cường giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cũng là điều kiện để duy trì các nghề truyền thống, giữ gìn nét văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam. “Bản sắc văn hoá dân tộc là cái riêng, cái sẵn có của mỗi dân tộc được hình thành và định hình trong quá trình lịch sử lâu dài, là kết quả của sự trải nghiệm, thích ứng của cộng đồng với môi trường, hoàn cảnh tự nhiên, xã hội. Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 14 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương Nó là một bộ phận tinh tuý thể hiện sâu sắc nhất, tập trung nhất bản sắc dân tôc, tạo nên cốt cách bản lĩnh, sức sống nội sinh của mỗi dân tộc”. Bản sắc văn hoá đó lại được thể hiện cụ thể trên từng hoa văn, đường nét của hàng thủ công mỹ nghệ. Vì vậy, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam cũng chính là mở rộng giao lưu văn hoá quốc tế. Qua đó làm cho nước bạn ngày càng hiểu hơn truyền thống văn hoá của con người Việt Nam. III. XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ XÉT TRÊN QUAN ĐIỂM “LỢI THẾ CẠNH TRANH” CỦA MICHAEL PORTER Michael Porter là nhà khoa học về quản lí nổi tiếng ở Mỹ, giáo sư Học viện thương mại Trường Đại học Harvard kiêm cố vấn tư vấn của nhiều công ty lớn và tổ chức chính phủ trên thế giới, là một trong những nhân vật có uy tín về sách lược cạnh tranh và sức cạnh tranh quốc tế trên thế giới ngày nay. Ông là người đầu tiên ở Trường Đại học Harvard mở ra môn học sách lược cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh. Năm 1990, ông cho ra đời cuốn sách “ Lợi thế cạnh tranh quốc gia”. Lĩnh vực nghiên cứu của Porter chủ yếu tập trung vào hai mặt quản lí chiến lược doanh nghiệp và tổ chức ngành. Trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh quốc gia”, Porter vận dụng lí luận về lợi thế cạnh tranh trong nước của ông vào lĩnh vực cạnh tranh quốc tế và đề ra lí luận nổi tiếng là “ Lí luận hình kim cương. Lí luận của Porter về lợi thế cạnh tranh giải thích hiện tượng thương mại quốc tế ở góc độ doanh nghiệp tham gia cạnh tranh quốc tế, vì thế đã lấp được chỗ trống của lí luận về lợi thế so sánh. Trong đa số các công trình lí luận, người đóng vai trò chủ yếu là chính phủ, nhưng Porter lại chú trọng nêu bật vai trò của doanh nghiệp. Ông cho rằng, của cải nhiều hay ít là do năng suất sản xuất quyết định. Năng suất sản xuất phụ thuộc vào môi trường cạnh tranh của mỗi nước. Môi trường cạnh tranh sinh ra trong một khuôn khổ nào đó, khuôn khổ ấy, về kết cấu mà nói, giống như một viên Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 15 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương kim cương có 4 cạnh cơ bản. Do đó thường gọi đó là lí luận hình viên kim cương. Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 16 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương Lý luận này được mô tả qua sơ đồ dưới đây: CHÍNH PHỦ MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH VÀ CƠ HỘI NGÀNH KINH DOANH KHÁCH HÀNG NHÀ CUNG CẤP CÁC YẾU TỐ HỖ TRỢ Theo lí luận này, việc nâng cao năng suất một cách bền vững đòi hỏi bản thân nền kinh tế của mỗi nước phải được nâng cấp không ngừng. Cũng có nghĩa là các doanh nghiệp của mỗi nước phải kiên trì nâng cao năng suất sản xuất ngành bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, làm nổi bật nét đặc sắc của sản phẩm, cải tiến kĩ thuật sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất. Chỉ có như thế mới có thể tao ra được cơ sở chắc chắn để các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh quốc tế. Mỗi nước có thể chuyên kinh doanh những ngành mà các Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 17 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương doanh nghiệp nước mình có năng suất cao hơn và nhập khẩu những hàng hóa và dịch vụ do đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài sản xuất mà trong nước chỉ có thể sản xuất với năng suất thấp, để từ đó nâng cao năng suất bình quân trong nước. Mặt khác, khi một nước trực tiếp tham gia cạnh tranh quốc tế thì tiêu chuẩn về năng suất đối với mỗi ngành trong nước ấy không còn là tiêu chuẩn trong nước nữa mà là tiêu chuẩn quốc tế. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước chẳng những phải cạnh tranh với nhau trong nước mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong lí luận của mình, Porter dành cho chính phủ và doanh nghiệp một vai trò mới, có tính chất xây dựng và khả thi trong tiến trình nâng cao sức cạnh tranh và thực hiện phồn vinh kinh tế. Đỗi với chính phủ thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là tích cực tạo ra môi trường thúc đẩy nâng cao năng suất. Có nghĩa là chính phủ cần phải tạo ra môi trường tốt cho cạnh tranh, chứ không phải là trực tiếp tham gia cạnh tranh. Tóm lại, lí luận của Porter về lợi thế cạnh tranh quốc gia rất giàu tính chất gợi mở, rất có giá trị đối với việc nghiên cứu sức cạnh tranh quốc tế. Khóa luận này cũng xin được phép lấy lí thuyết về lợi thế cạnh tranh của ông làm cơ sở lí luận . Đây cũng chính là cơ sở giúp chúng ta phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của một ngành và những yếu tố tác động đến nó để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm hữu ích và những giải pháp tháo gỡ khó khăn. IV. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 1. Nguồn nguyên liệu Mặt hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng nguồn nguyên liệu chính là nguyên liệu trong nước, đa phần được lấy từ thiên nhiên và khá sẵn có. Đó là các nguyên liệu như: mây, tre, nứa, lá, giang, bông, gỗ, đay, cói, dừa, vỏ ốc, vỏ trứng... Đây là một trong những thuận lợi lớn vì những nguyên liệu này Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 18 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương thường sẵn có trong tự nhiên hoặc có thể trồng khá dễ dàng ở các vùng nông thôn. Tuy nhiên, do sự khai thác bừa bãi, không có kế hoạch nên các nguồn nguyên liệu này cũng đã dần dần bị giảm cả về số lượng và chất lượng. Nếu như không có sự quan tâm đồng bộ kể cả từ phía người dân lẫn Nhà nước để bù đắp lại số nguyên liệu được dùng cho sản xuất thì trong tương lai tất cả các nguồn nguyên liệu đều có nguy cơ thiếu hụt. Khi bước sang cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp đã gặp phải không ít khó khăn khi vẫn áp dụng lối làm ăn cũ theo kiểu “có gì bán nấy”. Giờ đây, trước nhu cầu vô cùng đa dạng của thị trường thế giới, doanh nghiệp không chỉ sản xuất những mặt hàng chỉ sử dụng những nguồn nguyên liệu trong nước mà còn phải nhập về một số nguyên liệu từ nước ngoài để phục vụ cho xuất khẩu. Điều này cũng gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp khi nguồn nguyên liệu phải phụ thuộc vào nước ngoài. Các doanh nghiệp thường phải nhập khẩu một số nguyên liệu như phẩm nhuộm, bột màu, sơn, dầu bóng, len chất lượng cao, chỉ màu, sợi.... Đơn cử về thực trạng nguồn nguyên liệu gốm sứ. Hiện nay nhiều nhà sản xuất gốm sứ trong nước vẫn còn phải nhập nguyên liệu cao lanh, đất sét, men, tràng thạch… trong khi trữ lượng nguyên liệu trong nước cao gấp nhiều lần nhu cầu. Riêng năm 2000, kim ngạch nhập khẩu các nguyên liệu trên khoảng gần 50 triệu USD. Nguyên nhân chính là do trong mấy năm qua, chúng ta chỉ tập trung xây dựng các nhà máy sản xuất gốm sứ hiện đại với tốc độ sản lượng tăng chóng mặt nhưng lại chưa quan tâm đến đầu tư khai thác, chế biến nguyên liệu. Theo hiệp hội gốm sứ Việt Nam, với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp gốm sứ hiện nay, nhu cầu nguyên liệu để sản xuất không ngừng tăng lên. Nếu như năm 2002 là 960.000 tấn nguyên liệu và 52.000 tấn men màu thì dự báo năm 2005 sẽ là 1.4 triệu tấn nguyên liệu, Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 19 Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế Ngoại thương 80.000 tấn men màu và năm 2010 sẽ lên đến 1.7 triệu tấn nguyên liệu và 100.000 tấn men màu. Phần lớn mỏ nguyên liệu ở nước ta có trữ lượng lớn nhưng lại chưa được khai thác hợp lý. Công nghệ khai thác, chế biến còn quá lạc hậu, chủ yếu khai thác thủ công, bán cơ giới, phân tán và manh mún, chưa đáp ứng được nhu cầu công nghệ sản xuất gốm sứ hiện đại. Phần lớn nguồn nguyên liệu khi đưa vào nhà máy sản xuất đều tiếp tục phải gia công xử lý. Về cao lanh, ta có 105 mỏ với trữ lượng 639 triệu tấn, nhưng đến nay chỉ có 20 mỏ đang khai thác với công suất nhỏ từ 10.000 – 30.000 tấn/năm với công nghệ khai thác, tuyển lọc cao lanh ở mức thấp, chất lượng chưa cao, lẫn nhiều tạp chất. Về men màu, các cơ sở sản xuất trong nước tự sản xuất mới chỉ đáp ứng 10 % nhu cầu và các doanh nghiệp đang phải nhập khẩu với giá đắt. Nguyên liệu không đáp ứng nhu cầu là một nguyên nhân đẩy giá thành gốm, sứ nước ta lên cao. Nếu giải quyết được vấn để này ngành gốm sứ mới có thể nâng cao được chất lượng, hạ giá thành. Có thể nói, nguyên liệu chính là một trong những bộ phận mấu chốt cấu thành nên giá trị của sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ. Những nguyên liệu tốt, đủ tiêu chuẩn kết hợp với bàn tay tài hoa của người thợ sẽ cho ra đời những sản phẩm có giá trị cao. Nhưng có một điều đáng mừng là giờ đây các nguồn nguyên liệu ngoại nhập cũng rất sẵn có trên thị trường nên chỉ cần đặt hàng là có thể mua được với số lượng lớn, giá cả cũng phải chăng. 2. Nguồn vốn Vũ Hùng Kiên Trung 2 - K38 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan