Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn tốt nghiệp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại ngân hàng liên doanh shi...

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại ngân hàng liên doanh shinhan vina

.PDF
70
58
119

Mô tả:

Năm học 2010 - 2012 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Đề tài: “ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG LIÊN DOANH SHINHAN VINA” Tác giả: Đinh Văn Thiện Giáo viên hướng dẫn : PGS. TS. Hoàng Trần Hậu Hà Nội, tháng 11 năm 2011 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình cao học và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của các thầy cô giáo, Ban lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp của Ngân hàng Liên doanh Shinhan Vina và các thành viên trong gia đ ình. Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn các giáo sư, tiến sỹ, các thày, cô giáo của Đại Học Quốc gia Hà Nội và Đại học Nantes, Pháp đã tr ực tiếp giảng dạy, truyền đạt kiến thức và trao đổi những kinh nghiệm quý báu trong Khóa Cao học Tài chính, Ngân hàng và Bảo hiểm. Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư – Tiến sĩ Hoàng Trần Hậu, Phó Giám đốc Học Viện Tài chính, Hà Nội đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành tốt luận văn này. Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn Ban lãnh đạo Ngân hàng Liên doanh Shinhan Vina đã tạo điều kiện cho tôi tham gia khóa học và thu thập số liệu cho luận văn. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn các thành viên trong gia đình đã thu x ếp công việc và động viên tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Hà Nội, tháng 11 năm 2011 Tác giả Đinh Văn Thiện TÓM TẮT NỘI DUNG Luận văn này nghiên cứu hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Liên doanh Shinhan Vina (SVB), sử dụng các số liệu về tốc độ tăng trưởng, quy mô và cơ cấu vốn huy động, nhằm mục đích đưa ra các giải pháp khả thi và kiến nghị thiết thực để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của SVB. Số liệu được thu thập từ các Báo cáo Tài chính, Báo cáo Tổng kết Hoạt động của SVB và một số NHTM. Số liệu cũng được tập hợp trên cơ sở thăm dò ý kiến của khách hàng gửi tiền. Các phương pháp nghiên cứu như tổ ng hợp , phân tích, so sánh và phương pháp biểu đồ được sử dụng. Luận văn đánh giá thực trạng hoạt động huy động vốn của SVB, những kết quả đạt được những vấn đề tồn tại, điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với hoạt động huy động vốn. Năm giải pháp được đưa ra để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của SVB. Các từ khóa: hoạt động huy động vốn, quy mô vốn huy động, cơ cấu vốn huy động, lãi suất tiền gửi, các sản phẩm và dịch vụ huy động vốn, mạng lưới ngân hàng. ABSTRACT This thesis is about the fund mobilization activity of Shinhan Vina Joint-Venture Bank (SVB). Data on growth rate, size and structure of fund mobilization is used to find out feasible solutions and practical proposals to strengthen fund mobilization activity of SVB. Data is collected from the Financial Statements, Annual Business Reports of SVB and some other banks. Data is also collected from customer opinion survey on deposit services of SVB. Such research methods as generalizing, analyzing, comparing, SWOT analysis, diagrammatizing are used. The actual situation of fund mobilization activity of SVB including achievements, outstanding problems, strengths, weaknesses, opportunities and threads to fund mobilization activities are identified and reflected in this thesis. Five solutions are given to strengthen fund mobilization activity of SVB. Keywords: Fund mobilization activity, Size of mobilized fund, Structure of mobilized fund, Deposit interest rates, Products and services for fund mobilization, Bank network. MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 1.Bối cảnh nghiên cứu 1 2.Lý do nghiên cứu 2 3.Mục tiêu nghiên cứu 3 4.Câu hỏi nghiên cứu 3 5.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 6.Giả thuyết nghiên cứu 3 7.Phương pháp nghiên cứu 4 8. Kết cấu của luận văn 4 Chương I: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NHTM 5 1.1 Tổng quan về NHTM 5 1.1.1 Khái niệm NHTM 5 1.1.2 Hoạt động chủ yếu của NHTM 6 1.1.3 Hệ thống các NHTM tại Việt Nam 8 1.2. Hoạt động huy động vốn của NHTM 10 1.2.1 Vốn tự có 10 1.2.2 Vốn vay 10 1.2.3 Vốn tiền gửi 12 1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM 13 1.3.1 Nhóm yếu tố khách quan 14 1.3.2 Nhóm yếu tố chủ quan 15 Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI SVB 18 2.1 Giới thiệu về SVB 18 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển c ủa SVB 18 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của SVB 18 2.1.3 Mạng lưới hoạt động của SVB 20 2.1.4 Khái quát hoạt động kinh doanh của SVB 20 2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn của SVB 26 2.2.1 Giới thiệu về dịch vụ huy động vốn của SVB 26 2.2.2 Quy mô vốn huy động của SVB 28 2.2.3 Cơ cấu vốn huy động của SVB 30 2.2.4 Cơ cấu khách hàng của SVB 33 2.2.5 Tình hình phát triển dịch vụ hỗ chợ cho hoạt động huy động vốn 34 2.2.6 Đánh giá của khách hàng về chất lượng hoạt động huy động vốn 35 2.3 Đánh giá về hoạt động huy động vốn của SVB 36 2.3.1 Các loại sản phẩm 37 2.3.2 Lãi suất huy động vốn 37 2.3.3 Mạng lưới ngân hàng 39 2.3.4 Các hoạt động truyền thông 40 2.3.5 Phân tích SWOT về hoạt động huy động vốn của SVB 41 Chương III: GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẨY MẠNH HOẠ T ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN 46 CỦA SVB 3.1 Định hướng hoạt động huy động vốn của SVB 46 3.2 Giải pháp để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của SVB 46 3.2.1 Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ 46 3.2.2 Áp dụng chính sách lãi suất huy động linh hoạt 48 3.2.3 Phát triển mạng lưới giao dịch 49 3.2.4 Tăng cường các hoạt động truyền thông 51 3.2.5 Đổi mới chính sách nhân sự 52 3.3 Kiến nghị 54 3.3.1 Kiến nghị với NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước 54 3.3.2 Kiến nghị với SVB 55 PHẦN KẾT LUẬN 57 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ PHẦN PHỤ LỤC DANG MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU 1. Bối cảnh nghiên cứu Ngân hàng Shinhan Vina (SVB) là ngân hàng liên doanh giữa Ngân hàng Shinhan, Hàn Quốc và Ngân hàng T MCP Ngoại thương Việt Nam. SVB được thành lập năm 1993, với sứ mệnh là tăng cường quan hệ ngoại giao, xúc tiến quan hệ thương mại, đẩy mạnh hoạt động đầu tư giữa Hàn Quốc và Việt Nam. Hoạt độ ng chủ yếu của SVB là huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và cá n hân, cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho các tổ chức và cá nhân, cung cấp các dịch vụ ngân hàng như thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, séc, thẻ tín dụng, nhờ thu, bảo lãnh… Khi mới thành lập và hoạt động tại Việt Nam, hầu hết khách hàng của Ngân hàng là các tổ chức và cá nhân Hàn Quốc đang hoạt động, công tác tại Việt Nam . SVB huy động vốn chủ yếu từ nhóm khách hàng này thông qua tài khoản của họ mở tại Ngân hàng bằng Đô la Mỹ. Các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam với số vốn đầu tư lên đến hàng chục triệu Đô l a Mỹ như Samsung, Daewoo, LG, Hyundai, Posco, Doosan... là những khách hàng lớn của Ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng cũng huy động được vốn bằng nội tệ và các loại ngoại tệ khác của các doanh nghiệp này qua doanh thu c ủa họ. Những năm gần đây, SVB đã thu hút được một số khách hàng là các cá nhân và các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, nhóm khách hàng này chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số khách hàng của Ngân hàng. Nói chung, nhóm khách hàng có yếu tố Hàn Quốc chủ yếu mở tài khoản và giao dịch với các ngân hàng có vốn đầu tư Hàn Quốc như SVB và các chi nhánh Ngân hàng của Hàn Quốc tại Việt Nam như Ngân hàng Woori, Ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc... Tuy vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống NHTM của Việt Nam đã không ngừng phát triển về số lượng các ngân hàng, các chi nhánh ngân hàng, các phòng giao dịch; về quy mô vốn của các ngân hàng; về chất lượng dịch vụ ngân hàng; về hoạt động marketing ngân hàng... Vì thế, nguồn vốn từ nhóm khách hàng Hàn Quốc có xu hướng dịch chuyển sang các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài khác. Do mảng khách hàng truyền thống và đầy tiềm năng của SVB đã bị chia s ẻ bởi các NHTM khác, hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng của SVB ngày càng khó khăn hơn. Trong khi đó, thị trường tiền tệ của Việt Nam lại không ổn định, tính liên kết và tương trợ trong hệ thống ngân hàng còn hạn chế, sự cạnh tranh là không lành mạnh, thông tin về thị trường thiếu minh bạch, khách hàng giảm sút niềm tin vào chính sách tiền tệ nói chung và vào hệ thống ngân hàng nói riêng. Hơn nữa, nguồn lực về vốn của nền kinh tế bị phân tán qua nhiều kênh đầu tư khác nhau như đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản, đầu tư vào vàng và kim loại quý… Thực tế này l àm cho hoạt động huy động vốn của các ngân hàng càng thêm khó khăn. Theo báo cáo tài chính năm 2007, năm 2008, năm 2009 và năm 2010 của SVB, tốc độ tăng trưởng vốn huy động bình quân qua các năm là 6%, 17% và 16%. Trong khi đó, theo số liệu được công bố bởi NHNN (Nguồn: website http://www.sbv.gov.vn), tăng trưởng vốn huy động của ngành ngân hàng qua các năm tương ứng là 23,33%, 28,6% và 27,2%. Thêm vào đó, trong cơ cấu vốn huy động của SVB cuối năm 2010, vốn huy động b ằng VND chiếm khoảng 35%, vốn huy động bằng các loại ngoại tệ chiếm khảng 65% trong tổng vốn huy động; vốn huy động của 100 khách hàng lớn đã chiếm 53,6% tổng số vốn huy động. Như vậy, hoạt động huy động vốn của SVB bộc lộ những vấn đề nội tại như t ốc độ tăng trưởng vốn huy động thấp , cơ cấu vốn huy động theo loại tiền huy động còn chưa cân đối , vốn huy động lại rất phụ thuộc vào số dư tiền gửi của một số khách hàng lớn. 2. Lý do nghiên cứu Hoạt động huy động vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các NHTM. Trong bối cảnh hiện nay, việc tìm ra các giải pháp để duy trì và phát triển nguồn vốn huy động cho các NHTM là một yêu cầu rất cấp bách. Cho đến nay, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt động huy động vốn tại các NHTMNN, NHTMCP… song các đề tài nghiên cứu về hoạt động huy động vốn tại NHLD còn hạn chế. Đặc biệt, chưa có đề tài nào nghiên c ứu về hoạt động huy động vốn của SVB. Tăng cường nguồn vốn huy động cho Ngân hàng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Hội Đồng Quản trị của SVB giao cho Ban lãnh đạo của Ngân hàng nghiên cứu và tìm ra giải pháp. Đó cũng chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng của tác giả, với tư cách là một phó Giám đốc, với nhiều năm công tác và phụ trách mảng kinh doanh của SVB Chi nhánh Hà Nội. Hơn nữa, Chương trình Thạc sỹ Tài chính, Ngân hàng và Bảo hiểm do Khoa Quốc tế -Đại học Quốc gia, Hà Nội và Đại Học Nantes của Pháp cung cấp các khối kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực tài chính, ngân hàng vào bảo hiểm thông qua 22 môn học của chương trình, với sự tham gia giảng dạy của các giáo sư, tiến sỹ quốc tế và Việt Nam . Chọn đề tài về lĩnh vực huy động vốn, tác giả có thể tận dụng được những kiến thức đã học của chương trình để nâng cao chất lượng của luận văn. Xuất phát từ những thực tế trên đây, tác giả lựa chọn đề tài “Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Liên doanh Shinhan Vina” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sĩ của mình. Đề tài được hướng dẫn bởi PGS. TS. Hoàng Trần Hậu, phó Giám đốc Học viện Tài chính, Hà Nội, Việt Nam. 3. Mục tiêu nghiên cứu Trước hết, thông qua việc nghiên cứu về các hoạt động nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng của các NHTM, tác giả muốn đưa ra các yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến hoạt động huy động vốn của các ngân hàng trong bối cảnh hiện nay. Tiếp theo, tác giả tập trung phân tích thực trạng hoạt động huy động vốn của SVB nhằm mục đích tìm ra các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với hoạt động này. Sau cùng, tác giả đưa ra những giải pháp khả thi và kiến nghị thiết thực để đẩy mạnh hoạt động h uy động vốn của SVB. 4. Câu hỏi nghiên cứu Tại sao tốc độ tăng trưởng vốn huy động của SVB thấp ? Tại sao vốn huy động chủ yếu từ các tổ chức và bằng Đô la Mỹ? Tại sao vốn huy động chỉ tập trung vào một số khách hàng lớn? Phải áp dụng những giải pháp gì để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của SVB (nâng cao tỉ lệ tăng trưởng, t ăng tỷ lệ huy động vốn bằng Đồng Việt Nam , đa dạng hóa khách hàng tiền gửi…)? 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động huy động vốn, chủ yếu là huy động tiền gửi từ khách hàng của SVB. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong hệ thống SVB, giới hạn trong những năm 2008, 2009, 2010 và chiến lược đến năm 2015 . 6. Giả thuyết nghiên cứu Luận văn có giả thuyết là với việc áp dụng các giải pháp kh ả thi như giải pháp về phát triển mạng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, tăng cường hoạt động truyền thông, đổi mới chính sách nhân sự, SVB sẽ đẩy mạnh được hoạt động huy động vốn, mở rộng được đối tượ ng khách hàng. 7. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu được thu thập từ các Báo cáo Tài chính, Báo cáo Tổng kết Hoạt động của SVB và một số NHTM khác như Indovina, Vidpublic Bank, Vinasiam Bank, Vietnam Rusia Bank, Vietcombank, ACB…trong những năm gần đây. Số liệu cũng được tập hợp trên cơ sở thăm dò ý kiến của khách hàng tiền gửi tại SVB. Phương pháp tổng hợp: tổng hợp số liệu về tình hình hoạt động kinh doanh và hoạt động huy động vốn của SVB qua các năm 2008, 2009 và 2010; tổng hợ p các số liệu về hệ thống mạng lưới giao dịch của một số NHTM đến tháng 09 năm 2011; tổng hợp đánh giá của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ huy động vốn của SVB; Phương pháp biểu đồ: xây dựng các bảng, biểu dựa trên biến chuỗi thời gian. Sử dụng các bảng , biểu để phản ánh thực trạng hoạt động huy động vốn của SVB. Phương pháp phân tích, so sánh: Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của các NHTM, phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của SVB qua các năm 2008, 2009 và 2010; so sánh hoạt động huy động vốn của SVB với một số NHTM khác; Phân tích theo mô hình SWOT về hoạt động huy động vốn của SVB. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chương Chương I: Hoạt động huy động vốn của các NHTM Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại SVB Chương III: Giải pháp để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của SVB Chương I HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NHTM 1.1 Tổng quan về NHTM 1.1.1 Khái niệm NHTM Theo Điều 4.2, Luật các Tổ chức Tín dụng của Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010, ngân hàng được định nghĩa như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”. Liên quan đến khái niệm NHTM, do tính đặc thù trong các nền văn hóa, phong tục, tập quán hay luật lệ của các quốc gia, do tính đa dạng của các loại hình ngân hàng, do tính phức tạp của các nghiệp vụ ngân hàng, do cả sự thay đổi thường xuyên của các nghiệp vụ ngân hàng, các khái niệm về NHTM không hoàn toàn giống nhau g iữa các quốc gia trên thế giới: Theo Luật Ngân hàng của Đài Loan , thuật ngữ NHTM được hiểu là một ngân hàng mà các chức n ăng chính là nhận tiền gửi tài khoản phát séc và cấp tín dụng ngắn hạn. Theo Pháp Luật của Mỹ, NHTM được hiểu là một tổ chức cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại. Theo Điều 4.3, Luật các Tổ chức Tín dụng của Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010, “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định Luật này nhằm mục tiêu lợi nhu ận”. Qua các khái niệm về NHTM ở trên ta thấy để phân biệt với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác, tên giao dịch của một NHTM nhất thiết phải có cụm từ “ngân hàng” hoặc “NHTM” để chỉ ra NHTM là một tổ chức kinh tế kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên là huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân, rồi sử dụng nguồn vốn đã huy động được để cấp tín dụng cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản và các d ịch vụ tài chính ngân hàng khác cho khách hàng của mình. NHTM luôn lấy lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu cần đạt được khi giao dịch với khách hàng. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa NHTM với ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách. 1.1.2 Hoạt động chủ yếu của NHTM Có nhiều cách để phân chia hoạt động của các NHTM, tuy nhiên t heo Điều 4 .12, Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010: “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản ”. Vì NHTM là tổ chức được thực hiện tất cả các hoạt động này và các hoạt động kinh doanh khác nên ta sẽ lần lượt xem xét các nghiệp vụ cơ bản này . Nhận tiền gửi là nghiệp vụ đầ u tiên của NHTM, nghiệp vụ này ra đời gắn liền với sự phát triển của các NHTM. Tiền gửi là bộ phận quan trọng nhất và thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của một NHTM. NHTM mở tài khoản và giữ tiền cho các tổ chức và các cá nhân. Qua đó, NHTM có được nguồn vốn dồi dào để phục vụ cho các hoạt động cho vay và đầu tư . Về mặt pháp lý, n hận tiền gửi là thỏa thuận giữa ngân hàng -tổ chức nhận tiền và khách hàng người gửi tiền thông qua hợp đồng tiền gửi về việc người gửi tiền sẽ đưa tiền cho ngân hàng vay trong một thời gian nhất định, ngân hàng sẽ phải trả lãi tiền gửi và gốc cho người gửi tiền theo lãi suất đã thỏa thuận. Theo Điều 4.13, Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010: “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận ”. Sau khi nhận tiền gửi từ khách hàng, NHTM sẽ làm gì với số vốn huy động được, NHTM lấy đâu ra tiền để trả lại cho khách hàng cả vốn và lãi tiền gửi? Câu trả lời chính là hoạt động “cấp tín dụng” - một nghiệp vụ quan trọng của các NHTM. Theo Điều 4.14, Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thu ê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.” Trong các hình thức cấp tín dụng này, cho vay là hình thức cấp tín dụng phổ biến nhất và luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong dư nợ tín dụng của một NHTM. Thực hiện nghiệp vụ cho vay nghĩa là NHTM sử dụng số vốn đã huy động được cho các tổ chức và cá nhân cần vốn vay để mở rộng sản xuất, kinh doanh, đầu tư hay đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu dùng cá nhân. Có thể phân ra thành nhiều loại hình cho vay tùy theo tiêu chí phân loại như cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; cho vay vốn lưu động, cho vay đầu tư dự án; cho vay mua nhà, cho vay mua ô tô, cho vay tiêu dùng…Ngoài các sản phẩm cho vay truyền thống trong ngắn hạn, các NHTM ngày càng tài trợ nhiều cho các dự án đầu tư, xây d ựng, mua sắm tài sản cố định với thời hạ n vay khá dài. Vì các khoản cho vay dài hạn có mức độ rủi ro cao hơn các khoản cho vay ngắn hạn nên lợi nhuận mà các NHTM thu được cũng lớn hơn. Chiết khấu là việc ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau để ngân hàng ứng trước một số tiền nhất định theo tỷ lệ để đổi lấy quyền sở hữu các thương phiếu, giấy tờ có giá (gọi là trái quyền) do khách hàng chuyển giao cho ngân hàng với giá cả luôn thấp hơn giá trị thực tế của trái quyền được giao dịch. Chiết khấu có thể hiểu là việc mua bán giấy tờ có giá giữa ngân hàng và khách hàng, theo đó khách hàng cam kết chuyển nhượng trái quyền chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để ngân hàng trả cho một số tiền bằng số tiền của thương phiếu trừ đi lợi tức chiết khấu. Chiết khấu là một hoạt động mang lại lợi nhuận ổn định cho ngân hàng thông qua lãi suất chiết khấu và phí dịch vụ. Cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng cho khách hàng của NHTM. Tuy nhiên, không phải NHTM nào cũng được phép thực hiện nghiệp vụ này. Nghiệp vụ này chủ yếu được thực hiện bởi các công ty cho thuê tài chính. Không giống như cho vay và chiết khấu, bảo lãnh là hình thức cấp tín dụng đặc biệt, ngân hàng không cho khách hàng vay tiền ngay thời điểm ký kết thỏa thuận. Thay vào đó, n gân hàng dùng uy tín và tiềm lực tài chính của mình để cam kết với người thụ hưởng bảo lãnh về việc ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (người yêu cầu phát hành thư bảo lãnh) khi khách hàng thực hiện không đầy đủ hay không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Tất nhiên, sau khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng thì khách hàng phải nhận nợ, trả gốc, lãi và các chi phí phát sinh cho ngân hàng theo thỏa thuận . Ngoài hai nghiệp vụ quan trọng của NHTM là nhận tiền gửi và cấp tín dụn g, các NHTM còn thực hiện nghiệp vụ cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Theo Điều 4.15, Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010: “ Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng” . Trước đây, phần lớn thu nhập của các NHTM, khoảng 65 -75% là thu nhập từ l ãi; thu nhập từ phí của các NHTM thường chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 20-25% tổng thu nhập của ngân hàng. Điều này cho thấy, thu nhập của NHTM phụ thuộc nhiều vào số lượng và chất lượng các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng. N ó cũng đồng nghĩa với việc chất lượng hoạt động của NHTM tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất cao. Chính vì vậy, các NHTM hiện nay có xu hướng giảm dần tỷ lệ thu nhập từ lãi, tăng tỷ lệ thu nhập từ phí dịch vụ để giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Như vậy, các hoạt động của NHTM có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Quy mô nguồn vốn sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu cấp tín dụng lại đặt ra yêu cầu đối với quy mô và cơ cấu của vốn huy động. Nguồn vốn huy động có chi phí thấp tạo điều kiện cho việc cung cấp các khoản tín dụng với lãi suất cạnh tranh và ngược lại. Hoạt động cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản không mang lại nhiều thu nhập cho ngân hàng như hoạt động tín dụng nhưng thông qua hoạt động cung ứng c ác dịch vụ , ngân hàng duy trì được các khách hàng hiện tại và thu hút thêm các khách hàng mới, từ đó tạo điều kiện cho các hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn. 1.1.3 Hệ thống các NHTM tại Việt Nam Theo số liệu của N HNN, được công bố trên website: http:/ /www.sbv.gov.vn, tính đến tháng 6 năm 2011, hệ thống ngân hàng Việt Nam gồm có 5 NHTMNN, 5 NHLD, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 37 NHTMCP và 48 chi nhánh của ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Đây là cách phân chia các NHTM dựa trên loại hình sở hữu ngân hàng. Chi tiết xem Phụ lục A: Danh sách các NHTM. NHTM NN là ngân hàng được Nhà nước cấp vốn để thành lập và hoạt động theo sự quản lý của Nhà nước. NHTMNN bao gồm NHTM do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và NHTMCP do Nhà nước sở hữu trên 5 0% vốn điều lệ . Vì thế, ngoài việc tiến hành các hoạt động kinh doanh bình thường như các NHTM khác, các ngân hàng này còn phải thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội được Nhà nước giao cho. Các NHTM NN bao gồm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu long, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam … (Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Công thương đã cổ phần hóa nhưng Nhà nước vẫn là chủ sở hữu chính). NHTMCP là NHTM được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, do các cổ đông thành lập. Hoạt động của NHTMCP cũng giống như hoạt động của các NHTM khác và mục tiêu chủ yếu của ngân hàng là lợi nhuận. Các cổ đông có thể là pháp nhân hay thể nhân. Khi mới thành lập, các NHTMCP chủ yếu được góp vốn bởi các tổ chức và cá nhân Việt Nam. Sau này, cổ phần của các ngân hàng này được mua bán và chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán cho các cá nhân và pháp nhân nước ngoài. Tuy nhiên, tổng số cổ phần của các cổ đông nước ngoài trong mỗi NHTMCP bị khống chế ở một tỷ lệ nhất định. NHLD là NHTM được thành lập dựa trên hợp đồng liên doanh bằng vốn góp của Bên nước ngoài (gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) và Bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt N am). Thông thường, vốn điều lệ được các bên thỏa thuận góp nhưng mỗi bên chỉ được góp tối đa 50% tổng số vốn. NHLD là một pháp nhân được thành lập và hoạt động tại Việt Nam nên các hoạt động của ngân hàng này cũng chịu sự chi phối của pháp luật Việt Nam. Các NHLD đang hoạt động tại Việt Nam gồm có S hinhanVina Bank, Vidpublic Bank, Indovina Bank, Vietnam-Russia Bank, Vinasiam Bank. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài là NHTM được thành lập và hoạt động tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam với 100% vốn điều lệ thuộ c sở hữu nước ngoài ; trong đó phải có một ngân hàng nước ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ (Ngân hàng mẹ). Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc từ hai thành viên trở lên. Đến nay, đã có năm ngân hàng 100 vốn nước ngoài tại Việt Nam: HSBC, Standard Chartered Bank, Hongleong Bank, Shinhan Bank và ANZ Bank. Trước đây, đa số các ngân hàng từng là chi nhánh của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trước khi Việt Nam thực hiện chính sách kinh t ế mở, trong lĩnh vực ngân hàng chỉ có ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng được sở hữu bởi nhà nước. Các loại hình ngân hàng khác như NHLD, NHTMCP, ngân hàng 100% vốn nước ngoài là những loại hình ngân hàng mới đã và đang phát triển cùng với sự phát triển của mô hình kinh tế thị trường tại Việ t Nam và sự mở cửa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. 1.2. Hoạt động huy động vốn của NHTM Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ quan trọng của NHTM. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, các ngân hàng phải đảm bảo được nguồn vồn huy động dồi dào, với mức chi phí hợp lý. Tổng nguồn vốn của NHTM bao gồm những yếu tố chính như vốn tự có, vốn tiền gửi, vốn đi vay và các nguồn vốn khác. 1.2.1 Vốn tự có Vốn tự có là vốn riêng của ngân hà ng do các chủ sở hữu đóng góp và được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 của NHNN, vốn tự có của NHTM bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ (vốn đã được cấ p, vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia, thặng dư cổ phần được tính vào vốn theo quy định của pháp luật trừ đi phần để mua cổ phiếu quỹ (nếu có). Vốn cấp 2 bao gồm tổng các khoản: 50% số dư có t ài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của pháp luật, 40% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính theo quy định của pháp luật, quỹ dự phòng tài chính, trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín dụng phát hành, các công cụ nợ khác thỏa mãn một số điều kiện nhất định. Thông tư này cũng đưa ra những giới hạn khi xác định vốn cấp 2. Vốn tự có cung cấp nguồn lực cho ngân hàng hoạt động, nhất là trong thời gian đầu ngân hàng mới đi vào hoạt động. Nó được sử dụng cho việc mua quyền sử dụng đất, xâ y dựng trụ sở ngân hàng, mua máy móc thiết bị, công nghệ. Vốn tự có góp phần không nhỏ vào việc tạo nên uy tín cho ngân hàng, củng cố niềm tin của khách hàng vào ngân hàng. Vốn tự có là nguồn vốn có tính ổn định cao, có thể sử dụng cho những khoản cho vay, đầu tư dài hạn. Vốn tự có còn quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hàn h các hoạt động kinh doanh, huy động các nguồn vốn khác và cho vay. Nếu hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn có lãi thì vốn tự có sẽ tăng trưởng theo quá trình hoạt động của ngân hàng. 1.2.2 Vốn vay Trong quá trình hoạt động kinh doanh, đôi khi NHTM bị thiếu hụt tạm thời vốn hoạt động. Khi đó, NHTM có thể vay ngắn hạn của các NHTM khác qua thị trườ ng liên ngân hàng. Đây chính là các khoản vay và cho vay lẫn nhau giữa các ngân hàng để đáp ứng những nhu cầu ngân quỹ khẩn cấp, bị thiếu hụt. Nguồn tiền vay này không phải dự trữ bắt buộc, không cần phải bảo hiểm tiền gửi và ngân hàng cũng biết trước kỳ hạn trả nợ nhưng thời hạn vay ngắn và lãi suất thường rất cao so với các nguồn huy động vốn khác. Ngoài việc vay lẫn nhau giữa các NHTM, t ất cả các tổ chức tín dụng bao gồm các NHTM, các công ty tài chính đều có thể vay của NHTƯ khi thiếu hụt dự trữ hoặc có khó khăn về thanh khoản. Các khoản vay này được thự c hiện thông qua hình thức chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho vay thế chấp hay ứng trước. Lãi suất cho vay của NHTƯ bị tác động bởi tình hình của thị trường tiền tệ, bởi chính sách tiền tệ đang được áp dụng. Khi NHTƯ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất chiết khấu sẽ tăng lên và ngược lại khi NHTƯ áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng thì lãi suất chiết khấu sẽ giảm suống. Dù NHTƯ áp dụng lãi suất và phí cho vay cao như thế nào đi nữa thì NHTƯ vẫn phải cho NHTM vay khi các NHTM gặ p khó khăn về thanh toán, để phòng ngừa những phản ứng dây truyền lên cả hệ thống ngân hàng. Trong suốt quá trình hoạt động, NHTM nào cũng từng vay của NHTƯ, dù ít hay nhiều, dù ngắn hay dài, dù thỉnh thoảng hay thường xuyên. Vì thế, các khoản vay của NHTƯ luôn đóng vai trò là kênh huy động vốn dự phòng của các NHTM. Hơn nữa, các NHTM cũng có thể vay từ thị trường tài chính trong nước thông qua việc phát hành trái phiếu ngân hàng và chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng . Trái phiếu ngân hàng là một loại công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường chứng khoán, có thời hạn từ hai năm trở lên. Trong khi đó, chứng chỉ tiền gửi là loại giấy tờ có giá, có thời hạn ngắn thường không quá sáu tháng, có thể mua bán trên thị trường. Phát hành trái phiếu ngân hàng là hình thức huy động vốn được các NHTM nhất là những NHTM lớn, có uy tín trên thị trường thực hiện để huy động nguồn vốn với quy mô lớn, với thời hạn dài chủ yếu phục vụ cho các hoạt động đầu tư, cho các khoản cho vay tài trợ dự án. Trong khi đó, phát hành chứng chỉ tiền gửi là hình thức mà ngân hàng sử dụng để huy động vốn ngắn hạn trên thị trường tài chính. Ngoài ra, vốn của các NHTM còn có nguồn gốc từ vốn vay từ nước ngoài, vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn ủy thác đầu tư, vốn hình thành trong quá trình hoạt động của NHTM như tiền ký quỹ mở L/C, phát hành bảo lãnh, phát hành thẻ tín dụng… 1.2.3 Vốn tiền gửi Vốn tiền gửi là vốn mà NHTM huy động được từ số dư các tài khoản tiền gửi mà ngân hàng mở cho khách hàng. Vốn tiền gửi chủ yếu bao gồm tiền gửi không kỳ hạn , tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi thêm vào và rút ra bất cứ lúc nào. Do tính bất định về thời gian nên loại hình tiền gửi này thường không được trả lãi hoặc được trả lãi với lãi suất rất thấp so với lãi suất tiền gửi có kỳ hạn. Một số NHTM còn yêu cầu khách hàng phải duy trì số dư tối thiểu trên tài khoản hoặc thu phí quản lý tài khoản của khách hàng. Loại hình tiền gửi này rất thích hợp với các doanh nghiệp nhất là các d oanh nghiệp sản suất hay thương mại. Bởi vì họ thường quan tâm đến sự an toàn của khoản tiền gửi, sự thuận tiện và sẵn s àng trong việc sử dụng để phát hành séc, ủy nhiệm chi, lệnh chuyển tiền; họ ít quan tâm đến khả năng sinh lời của khoản tiền gửi, tức mức lãi suất tiền gửi mà họ nhận được từ ngân hàng. Tiền gửi không kỳ hạn được thể hiện dưới các tên gọi như tiền gửi theo yêu cầu, tiền gửi có thể phát hành séc, tiền gửi thanh toán. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà ngân hàng và người gửi tiền thỏa thuận với nhau về kỳ hạn tối thiểu của khoản tiền gửi. Các kỳ hạn phổ biến l à một tháng, ba tháng, sáu tháng, chín tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng. Thông thường, người gửi tiền không được rút tiền ra trước kỳ hạn đã thỏa thuận. Bởi vì việc gửi tiền là mộ t thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng rằng ngân hàng đồng ý vay và khách hàng đồng ý cho vay một số tiền cụ thể, trong một khoảng thời gian xác định , với lãi suất đã thỏa thuận. Nếu khách hàng rút tiền trước ngày đến hạn, khách hàng đã phá vỡ hợp đồng, gây thiệt hại cho ngân hàng. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, một số ngân hàng vẫn đồng ý cho khách hàng được rút tiền trước thời hạn kèm theo điều kiện. Các điều kiện này phụ thuộc vào chính sách của từng ngân hàng như: khách hàng phải thông báo trước khi rút tiền một số ngày nhất định, khách hàng chỉ nhận được lãi suất có kỳ hạn cho những kỳ hạn ngắn hơn kỳ hạn đã gửi, khách hàng chỉ được trả lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn luôn luôn có lãi suất cao hơn nhiều tiền gửi không kỳ hạn; trên lý thuyết, kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại. Sở dĩ lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn nhiều lãi suất tiền gửi không kỳ hạn là vì tiền gửi có kỳ hạn có tính ổn định cao. Theo thống kê, 80% các thỏa thuận gửi tiền có kỳ hạn được thực hi ện nghiêm túc. Nhờ vậy, ngân hàng có được nguồn vốn huy động ổn định, với kỳ hạn xác định để sử dụng cho các hoạt động cho vay và đầu tư. Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào trong ngân hàng nhằm mục đích tiết kiệm và hưởng lãi tiền g ửi. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm không được sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Khách hàng gửi tiết kiệm muốn cất giữ tiền an toàn trong ngân hàng, muốn dự phòng cho các nhu cầu chi tiêu trong tương lai và cũng muốn hưởng lãi tiền gửi. Hình thức phổ biến của tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm có sổ. Khi khách hàng đến ngân hàng gửi tiền, ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một cuốn sổ. Nó được gọi là sổ tiết kiệm, được dùng để gh i nhận các giao dịch gửi vào, rút ra và là xác nhận của ngân hàng về việc đã nhận tiền gửi của khách hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại như tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm tích lũy định kỳ, tiết kiệm có mục đích. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn bao gồm những kỳ hạn phổ biến như một tháng, ba tháng, sáu tháng, chín tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng. Tuy nhiên, hiện nay do sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động huy động vốn của các NHTM, các kỳ hạn gửi tiền ngắn hơn m ột tháng như một tuần, hai tuần, ba tuần cũng được sử dụng. Đối với loại tiền gửi này khách hàng chỉ có thể gửi vào một lần và rút ra một lần cả vốn lẫn lãi khi đến hạn. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là giống như tiền gửi không kỳ hạn; điểm khác biệt là nó luôn được hưởng lãi nhưng không được hưởng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm định kỳ là loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn mà trong thời hạn đó, khách hàng được gửi thêm tiền nhiều lần vào tài khoản với số tiền gửi như nhau. Như vậy, tổng nguồn vốn của NHTM được hình thành từ vốn tự có, vốn tiền gửi của khách hàng và vốn vay từ các nguồn khác. Trong đó, vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng luôn chiếm một tỷ lệ lớn và có vai trò rất quan trọng trong tổng nguồn vốn. Vì thế, trong luận văn này, tác giả muốn giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài trong hoạt động huy động vốn từ tiền gửi của khách hàng. 1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM Như đã đề cập ở trên, nguồn vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt đ ộng kinh doanh của các NHTM. Mặc dù các NHTM luôn tìm cách để duy trì và phát triển quy mô nguồn vốn, nguồn vốn của các ngân hàng này vẫn thường xuyên b iến động. Lý do là hoạt động huy động
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan