Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự việt nam từ th...

Tài liệu Luận văn tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

.PDF
89
395
144

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI ĐẶNG DUY TÙNG TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI ĐẶNG DUY TÙNG TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ người hướng dẫn khoa học là TS. Nguyễn Trung Thành. Các nội dung nghiên cứu, số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đặng Duy Tùng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ........................................................................ 7 1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm ma túy .................. 7 1.2. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy ..................... 23 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI TỈNH QUẢNG NINH ......................................................................................................... 35 2.1. Khái quát tình hình xét xử các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Quảng Ninh .................................................................................... 35 2.2. Đánh giá thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hình sự trong xét xử các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy của tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh ...................................................................................................... 36 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ................................................................................................................... 57 3.1. Yêu cầu ...................................................................................................... 57 3.2. Các giải pháp ............................................................................................. 61 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự KHXH : Khoa học xã hội Nxb : Nhà xuất bản TAND : Toà án nhân dân TANDTC : Toà án nhân dân tối cao TANDCC : Toà án nhân dân cấp cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, ”Đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN” [22, tr 190]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Dưới sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế....Tình hình tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói riêng xảy ra phổ biến, diễn biến cực kỳ phức tạp và nghiêm trọng có nhiều hướng gia tăng trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương. Quảng Ninh là một tỉnh ven biển có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, có vị trí chiến lược về quốc phòng và an ninh, có đường biên giới với nước láng giềng Trung Quốc và đặc biệt là hết sức thuận lợi về giao thông, giao thương buôn bán. Chính vì vậy, bọn tội phạm về ma túy chọn Quảng Ninh là một trong những địa bàn tiêu thụ và chung chuyển ma túy sang một số nước khác. Thực tế ở Quảng Ninh cho thấy, các đối tượng mua bán trái phép ma túy ngày càng hoạt động tinh vi, liều lĩnh hơn, hình thành đường dây mua bán ma túy lớn trong nội địa cũng như ra nước ngoài. Trước tình hình đó, các cơ quan chức năng của tỉnh đã và đang tập trung lực lượng, phương tiện, áp dụng nhiều biện pháp đấu tranh với tội phạm ma túy, nhất là tội mua bán trái phép ma túy, nhờ đó đem lại kết quả nhất định, bước đầu đã hạn chế, kiểm soát được tình hình tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, do tội phạm về ma túy hoạt động hết sức tinh vi, manh động nên việc phát hiện, xử lý vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy mà thực tiễn đặt ra. Việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong khi đó, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều quy định mới về các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy; chính sách hình sự, nhất là chính sách xử lý các tội phạm này có nhiều thay đổi, thể hiện nguyên tắc xử lý tội phạm về ma túy có phân biệt, phân hóa của pháp luật hình sự Việt Nam. Trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện một số chất ma túy mới chưa có trong danh mục của Chính phủ đang là loại “hàng hóa đặc biệt” được 1 mua bán trái phép. Với mong muốn nghiên cứu góp phần làm phong phú thêm lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy, đánh giá thực trạng lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, trên cơ sở đó kiến nghị những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự mới về tội mua bán trái phép chất ma túy, học viên lựa chọn đề tài: “Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tội phạm về ma tuý nói chung, tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng là một trong những tội xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội. Do vậy, có nhiều công trình khoa học quan tâm nghiên cứu về tội phạm này ở nhiều phương diện, cấp độ khác nhau, nhất là phương diện luật hình sự và tội phạm học. Các công trình nghiên cứu về chủ đề này đã có những đóng góp quan trọng vào việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm này. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn bổ ích mà học viên tiếp thu để thực hiện luận văn của mình. Trong các công trình đã công bố mà học viên có điều kiện tiếp cận, tiêu biểu là các công trình cụ thể sau đây: + Các giáo trình Luật hình sự Việt Nam - phần các tội phạm của những cơ sở đào tạo ngành luật như: Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật Đại học Quốc gia, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh..., đặc biệt là giáo trình Luật hình sự Việt Nam - phần các tội phạm do GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên, được NXB khoa học xã hội phát hành năm 2013. Trong các giáo trình này, các nhà nghiên cứu đều đề cập đến những vấn đề lý luận và quy định của luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy ở mức độ khái quát nhất. Ngoài hệ thống giáo trình, đề cập đến tội phạm này dưới góc độ lý luận và quy định của BLHS là các cuốn Bình luận khoa học BLHS, đặc biệt là cuốn “Bình luận khoa học BLHS 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần các tội phạm) - Quyển 2” của GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà, do NXB Tư pháp phát hành năm 2018. Trong các cuốn bình luận khoa học BLHS (phần các tội phạm), các tác giả đều có bình luận quy định của BLHS về tội mua bán trái phép chất ma túy, làm rõ các yếu tố cấu thành cũng như hình phạt được BLHS quy định đối với tội phạm này. 2 + Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ (chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự; hoặc chuyên ngành tội phạm học) có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Luận án tiến sĩ “Phòng ngừa các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016; luận án tiến sĩ “Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Đỗ Thành Trường, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017; Luận án tiến sĩ “Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Bùi Thị Phương Quỳnh, Học viện Khoa học xã hội 2018; Luận văn thạc sĩ “Định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Huỳnh Như Thương, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019; Luận văn thạc sĩ “Tội mua bán trái phép chất ma túy trong pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định” của tác giả Nguyễn Thị Mai, Học viện Khoa học xã hội năm 2016… Các luận án, luận văn này đề cập đến tội phạm về ma túy hoặc dưới góc độ tội phạm học, hoặc dưới góc độ luật hình sự từ thực tiễn của một địa bàn cụ thể với những nội dung rộng hẹp khác nhau nhưng đều tập trung vào ba vấn đề: lý luận, thực tiễn và giải pháp. Đây cũng là những tài liệu tham khảo quý giá để học viên thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình. + Sách chuyên khảo: có công trình nghiên cứu về “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma túy” của tiến sĩ Trần Văn Luyện, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, cuốn “Tìm hiểu về tội phạm và các tội phạm về ma túy” của các tác giả Trần Minh Hưởng và Nguyễn Văn Niêm, NXB Lao động, Hà Nội - 2002 ... Những cuốn sách chuyên khảo này đi sâu phân tích vấn đề trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm ma túy. + Những bài báo khoa học bàn đến các khía cạnh cụ thể có liên quan đến tội phạm về ma túy rất phong phú, nhưng tiêu biểu là các bài báo sau đây: “Ma tuý và chất ma túy theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Xuân Thiện; “Những bất cập trong việc giám định hàm lượng chất ma túy” của tác giả Nguyễn Thành Long; “Một số ý kiến trong việc sửa đổi Thông tư liên tịch số 17/2007/TTCT-BCA-VKSNDTCTANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII 3 các tội phạm về ma túy” của tác giả Trần Mạnh Hà; “Những điểm mới của Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSDNTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 đối với tội phạm về ma tuý” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh; “Những quy định của BLHS năm 1999 đối với các tội phạm về ma tuý” của tác giả Phạm Minh Tuyên; “Những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án về ma tuý” của tác giả Đỗ Văn Kha; “Bàn về sửa đổi, bổ sung Điều 194 BLHS năm 1999” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh; “Một số vướng mắc khi xét xử các tội phạm về ma túy và những vấn đề cần hướng dẫn, hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Văn Trượng; “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý” của tác giả Mai Bộ; “Hoàn thiện một số quy định của BLHS về tội phạm ma tuý theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Văn Trượng... Như vậy, mặc dù có khá nhiều công trình khoa học đề cập đến các tội phạm về ma túy ở các phương diện, cấp độ, phạm vi nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Qua đây có thể xác định luận văn này không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài luận văn của học viên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh, luận văn hướng tới mục đích xây dựng các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của BLHS năm 2015 về tội phạm này, qua đó góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm về ma tuý có hiệu quả trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: + Phân tích làm rõ thêm những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy trên các bình diện: khái niệm, dấu hiệu pháp lý đặc trưng, phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác có liên quan. 4 + Bình luận, nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm ma tuý; chỉ ra những hạn chế, bất cập của những quy định đó gây khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. + Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Quảng Ninh của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (chủ yếu là TAND), rút ra những kết quả đạt được và những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân. + Đưa ra yêu cầu, giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của BLHS năm 2015 về tội mua bán trái phép chất ma túy trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy và thực tiễn áp dụng của quy định đó tại tỉnh Quảng Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Về lý luận: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi lý luận chuyên ngành luật hình sự Việt Nam. + Về thực tiễn: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, nhưng trong giới hạn định tội danh và quyết định hình phạt của TAND tỉnh Quảng Ninh là cơ bản. + Về không gian, thời gian: Số liệu, tài liệu được thu thập ở địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018 gồm số liệu thống kê và một số bản án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm về tội mua bán trái phép chất ma tuý. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về pháp luật hình sự và đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy. Ngoài ra, luận văn còn dựa trên lý luận chuyên ngành luật hình sự về tội phạm ma túy để làm rõ đối tượng nghiên cứu. 5 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia... để làm rõ từng nội dung nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn có tác dụng góp phần làm rõ và phong phú thêm lý luận chuyên ngành luật hình sự về một tội phạm cụ thể - Tội mua bán trái phép chất ma túy. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp cơ sở thực tế có thể tham khảo để sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS hiện hành về tội mua bán trái phép ma túy cũng như giúp các chủ thể áp dụng đúng quy định của BLHS về tội mua bán trái phép chất ma túy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án về tội phạm này. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành luật hình sự ở các cơ sở đào tạo luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma túy. Chương 2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Quảng Ninh. Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy trong thời gian tới. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm ma túy 1.1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm ma túy giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) 1.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành bộ luật hình sự đầu tiên năm 1985 Sau khi giành được chính quyền về tay giai cấp công nông, ngoài việc tạm thời sử dụng luật lệ của chế độ cũ không trái với nền độc lập của nước Nam và chính thể dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đã từng bước xây dựng hệ thống pháp luật mới làm cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng chống, chống tội phạm, trong đó có tội phạm về ma túy. Nhận thức rõ thuốc phiện là loại độc dược đặc biệt cần hạn chế, từng bước xóa bỏ, ngày 05/03/1952 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 150 quy định việc xử lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Theo các điều 1,2,3,4 của Nghị định này thì cây thuốc phiện chỉ được trồng ở thượng du Bắc bộ, Liên khu 4; người trồng cây thuốc phiện phải nộp thuế hiện vật bằng 1/3 nhựa thuốc phiện thu được và bán toàn bộ số thuốc phiện còn lại cho mậu dịch quốc doanh. Điều 5, Nghị định 150 còn quy định: “Ngoài cơ quan chuyên trách, không ai được tàng trữ và vận chuyển nhựa thuốc phiện hay thuốc phiện đã nấu rồi” [15]. Tiếp đó, ngày 22/12/1952, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 225-TTg quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện sẽ phải chịu các chế tài như sau: - Tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép; - Phạt tiền từ 1 đến 5 lần trị giá thuốc phiện lậu. Ngoài ra người phạm pháp còn có thể bị truy tố trước tòa án. Nghiên cứu các nghị định nêu trên, chúng tôi thấy, Nhà nước ta (Chính phủ) mới chỉ đề cập đến việc xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển trái phép thuốc phiện, không đề cập đến việc xử lý hành vi “sản xuất hoặc mua bán trái phép thuốc phiện”. 7 Đây có thể là những thiếu sót của công tác lập pháp lúc bấy giờ, nên không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống việc buôn lậu thuốc phiện. Chính vì vậy, Nghị định số 580-TTg ngày 15/09/1955 của Thủ tướng Chính phủ đã bổ sung Nghị định số 150TTg, trong đó có một nội dung quan trọng là: “Những người vi phạm Nghị định số 150-TTg ngày 05/03/1952 trong các trường hợp sau đây có thể bị đưa ra TAND để xét xử: 1. Buôn thuốc phiện lậu có nhiều người tham dự và có thủ đoạn để gian dối; 2. Tang vật trị giá trên 1 triệu đồng; 3. Buôn nhỏ hoặc làm môi giới nhưng có tính chất thường xuyên, đã thành chuyên môn hoặc đã bị phạt tiền nhiều lần; 4. Các vụ liên quan đến nhân viên chính quyền hoặc bộ đội; 5. Không thi hành quyết định phạt tiền của cơ quan thuế hoặc hải quan. Người có hành vi phạm tội nêu trên có thể bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm, phạt tiền, tịch thu tang vật và các phương tiện dùng vào việc phạm tội” [15]. Trong giai đoạn này Bộ Tư pháp còn ban hành một số Thông tư hướng dẫn đường lối truy tố và xét xử những vụ án về buôn lậu thuốc phiện như: Thông tư số 635-VHH/HS ngày 29/03/1958; Thông tư số 33-VHH/HS ngày 05/07/1958. Theo hướng dẫn tại các Thông tư này thì: “Trường hợp việc buôn lậu thuốc phiện gây tác hại lớn làm cản trở việc thực hiện chính sách và kế hoạch Nhà nước thì có thể áp dụng Sắc lệnh số 267-SL ngày 15/06/1956 để xử phạt trên 5 năm tù. Đối với bọn cầm đầu những tổ chức buôn lậu có thể phạt tù từ 5 năm đến 10 năm tù, bọn tay chân chuyên nghiệp phạt từ 3 đến 5 năm tù, bọn cơ hội đã giáo dục nhiều lần mà còn vi phạm thì phạt từ 1 đến 3 năm tù, trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì vẫn có thể phạt dưới 1 năm tù hoặc cho hưởng án treo...” [49]. Như vậy, qua nghiên cứu một số văn bản pháp luật trong những năm đầu thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân cho thấy nổi lên một số nét đặc trưng cơ bản sau đây: + Các vi phạm pháp luật được áp dụng để xử lý tội phạm liên quan đến thuốc phiện chỉ được quy định trong các văn bản dưới luật là nghị định hoặc thông tư, chứ không phải là luật hoặc sắc lệnh, sắc luật. 8 + Đối tượng đấu tranh mới chỉ là thuốc phiện chứ chưa đề cập đến các chất ma túy. + Hành vi bị coi là tội phạm lúc đầu mới chỉ là hành vi tàng trữ, vận chuyển trái phép, sau đó là hành vi buôn bán trái phép (buôn lậu thuốc phiện); không xử lý hành vi trồng cây thuốc phiện. + Về đường lối, chính sách xử lý theo hướng kết hợp tuyên truyền, giáo dục, vận động với nghiêm trị kẻ cố tình phạm tội buôn lậu thuốc phiện và có thể xử phạt tù đến 10 năm, trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ có thể cho hưởng án treo. Sau khi miền Nam được giải phóng, căn cứ vào Nghị định số 76/CP ngày 25/03/1977 của Hội đồng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ đã ra Thông tư liên ngành hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong cả nước. Tại điểm 2 mục H của Thông tư này đã xác định là Nghị định số 580-TTG về trừng trị tội buôn lậu thuốc phiện tiếp tục có hiệu lực thi hành và cho áp dụng thống nhất trong cả nước. Đến những năm của thập kỷ 80 - thế kỷ thứ 19, tình hình trồng cây thuốc phiện, buôn bán thuốc phiện, hút thuốc phiện, tiêm chích ma túy có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải xử lý nghiêm khắc hơn. Do vậy, quy định của Nghị định số 580-TTg về trách nhiệm hình sự của người phạm tội buôn lậu thuốc phiện không còn phù hợp nữa, không đủ tác dụng đấu tranh với tội phạm này. Do đó, Nhà nước ta đã quy định hành vi buôn bán, tàng trữ trái phép chất ma túy phải chịu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm theo quy định của Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982 với hình phạt cao nhất là tử hình và phạt tiền đến 10 lần trị giá hàng phạm pháp hoặc thu lợi bất chính. 1.1.1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới, ngày 27/06/1985 Quốc hội nước ta đã chính thức thông qua BLHS đầu tiên (sau đây gọi là BLHS năm 1985). Trong Bộ luật này lúc mới ban hành có 2 điều luật đề cập đến tội phạm về ma túy, đó là: Điều 166 quy định tội buôn bán, tàng trữ hàng cấm (trong đó có ma tuý) và Điều 203 quy định tội tổ chức dùng chất ma túy. Do đánh giá 9 không đúng tính chất đặc biệt nguy hiểm của hành vi buôn bán, tàng trữ trái phép chất ma túy nên nhà làm luật đã coi ma túy ngang hàng với kim khí quý, đá quý, ngoại tệ và chỉ quy định mức phạt cao nhất đối với tội buôn lậu là 20 năm tù. Mặt khác, Điều 166 BLHS năm 1985 cũng chỉ đề cập đến việc xử lý hình sự hành vi, buôn bán, tàng trữ hàng cấm, trong đó có ma túy, cho nên hành vi sản xuất, vận chuyển trái phép chất ma túy xảy ra trong thực tiễn không được xử lý hình sự (không bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Đây là một bất cập lớn của BLHS năm 1985 lúc mới ban hành. Trước tình hình đó, ngày 28/12/1989, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985, theo đó có bổ sung Điều 96a quy định tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy ở mục B, Chương 1 “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”. Điều 96a quy định 3 khung hình phạt hết sức nghiêm khắc đối với tội phạm này; hình phạt nghiêm khắc nhất áp dụng trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng là tử hình. Tháng 04/1992, Quốc hội nước ta thông qua Hiến pháp mới (Hiến pháp năm 1992) mở đầu cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tại Điều 61 Hiến pháp 1992 đã quy định: “Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma túy khác. Nhà nước quy định chế độ cai nghiện bắt buộc và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm”. [40]. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan lập pháp và áp dụng pháp luật cũng như các cơ quan hữu quan khác phối hợp đấu tranh có hiệu quả với tội phạm về ma túy và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về kiểm soát, phòng chống ma tuý (tệ nạn ma tuý và tội phạm về ma tuý). Để triển khai thực hiện Hiến pháp năm 1992 ngày 29/01/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 60/CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng chống và kiểm soát ma túy. Cùng với đó, ngày 05/12/1992, TANDTC, VKSNDTC, Bộ nội vụ cũng ra Thông tư liên ngành số 07/TTLN hướng dẫn áp dụng Điều 96a và Điều 203 BLHS năm 1985 nhằm cụ thể hoá Điều 61 Hiến pháp năm 1992. Trong Thông tư này, lần đầu tiên các cơ quan có thẩm quyền đã định lượng thuốc phiện và các chất ma túy 10 khác làm căn cứ để xác định ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính, cũng như xác định trách nhiệm hình sự theo các khoản của Điều 96a. Đồng thời, trong Thông tư này còn hướng dẫn cụ thể tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi tổ chức sử dụng chất ma túy. Theo quy định tại Thông tư này thì những hành vi sản xuất, vận chuyển, tàng trữ trái phép thuốc phiện từ 100 gam trở lên và hành vi mua bán trái phép thuốc phiện với bất kỳ số lượng nào đều bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 96a BLHS năm 1985. Đối với hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thì dù là lần đầu và dưới bất cứ hình thức nào đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 203 BLHS năm 1985. Thực tiễn 5 năm áp dụng Thông tư 07/TTLN cho thấy, Thông tư này đã góp phần quan trọng vào việc đấu tranh phòng, chống ma túy. Tuy nhiên qua thực tiễn áp dụng cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập mà thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy đòi hỏi phải tháo gỡ, sửa đổi, bổ sung, đó là: + Thông tư liên ngành số 07/TTLN chỉ quy định vấn đề “định lượng” đối với thuốc phiện, còn các chất ma túy khác thì hướng dẫn “tính theo giá trị tương đương của thuốc phiện”. Hướng dẫn này có nhiều hạn chế, bất cập, đúng như một nhà nghiên cứu đánh giá và đặt ra vấn đề phải giải quyết khi áp dụng là “Giá trị tương đương nói trong Thông tư số 07/TTLN là giá trị tương đương tính bằng tiền hay căn cứ vào tính độc hại, độ gây nghiện hay một đại lượng gì khác để quy đổi tương đương” [26, tr 13]. + Thông tư 07/TTLN vẫn chưa hướng dẫn cụ thể, thỏa đáng về hành vi trái pháp luật của người có trách nhiệm quản lý thuốc gây nghiện; về hành vi chiếm đoạt chất ma túy và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại Điều 203 BLHS năm 1985. Do một số vấn đề hướng dẫn tại Thông tư số 07/TTLN không còn phù hợp với tình hình tội phạm về ma túy diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, manh động nên TANDTC, VKSNDTC, Bộ nội vụ sau khi trao đổi ý kiến với Bộ y tế đã ban hành Thông tư số 05/TTLN ngày 31/08/1996 và Thông tư số 09/TTLN ngày 10/10/1996 hướng dẫn áp dụng Điều 96a và Điều 203 BLHS năm 1985. Trong Thông tư số 09/TTLN ngày 10/10/1996, đề cập đến nhiều vấn đề mà thực tiễn đấu tranh phòng, chống ma túy đặt ra như: 11 + Xác định các chất ma túy thường gặp; + Các trường hợp cần giám định để xác định chất ma túy; + Giải thích từ ngữ (đưa ra khái niệm) đối với các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy và tổ chức sử dụng chất ma túy; + Xác định đường lối xử lý cũng như trách nhiệm hình sự của người quản lý thuốc gây nghiện mà cố ý làm trái quy chế quản lý thuốc; + Quy định trách nhiệm hình sự trong các trường hợp chiếm đoạt chất ma túy; + Quy định số lượng chất ma túy làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo các khoản của Điều 96a BLHS và các trường hợp có thể xử lý bằng biện pháp hành chính. Đặc biệt là lần đầu tiên Thông tư số 09/TTLN đã đề cập đến vấn đề xác định cụ thể số lượng của nhiều loại ma túy thường gặp, đồng thời xác định rõ số lượng chất ma túy mà người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán bị xử phạt tù chung thân hoặc tử hình. Cụ thể là: người sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép dưới 20kg thuốc phiện phải chịu hình phạt tù có thời hạn, chỉ khi số lượng hàng phạm pháp vượt quá 25 kg thuốc phiện hoặc trên 1kg heroin (côcain) thì người phạm tội có thể phải chịu hình phạt tử hình. Mặc dù hình phạt quy định đối với những trường hợp này cũng khá nghiêm khắc nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy đang có xu hướng tăng đột biến vào những năm 1996, 1997. Trước tình hình đó, qua nghiên cứu kinh nghiệm đấu tranh chống ma túy của một số nước trên thế giới, tổng kết thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật nhiều năm qua, ngày 10/05/1997, Quốc hội Khoá IX đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985, trong đó quy định một chương riêng (Chương VIIA) “Các tội phạm về ma tuý”. Chương này gồm 14 điều (từ Điều 185a đến Điều 185o), trong đó có 13 Điều quy định các tội phạm về ma tuý cụ thể (từ Điều 185a đến Điều 185n) và một số điều quy định hình phạt bổ sung (Điều 185o). So với trước đây, Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS lần thứ tư này đã quy định 9 tội danh mới về ma túy, ngoài việc tách các tội phạm quy định tại Điều 96a BLHS năm 1985 (Trước khi sửa đổi, bổ sung lần thứ tư này) thành 4 tội danh độc lập quy định tại các Điều 185a, 185b, 185c, 185đ. Nghiên cứu các điều luật này thấy rằng trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các tội sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma 12 túy nghiêm khắc hơn so với quy định tại Điều 96a BLHS và hướng dẫn áp dụng pháp luật tại Thông tư liên ngành số 09/TTLN ngày 10/10/1996. Sau khi ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLHS năm 1985 ngày 10/05/1997, TANDTC, VKSNDTC, Bộ nội vụ (nay là Bộ công an) đã có Thông tư liên ngành số 01/1998/TTLN ngày 02/01/1998 hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS năm 1985 (sửa đổi). Trong Thông tư này đã giải thích, hướng dẫn tương đối đầy đủ về các tội sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy và một số tội phạm khác của Chương VIIA. Mặc dù BLHS năm 1985 trong hơn chục năm thi hành đã có 4 lần sửa đổi, bổ sung, đặc biệt là lần thứ 4 vào năm 1997 đã có đầy đủ những quy định cụ thể về tội phạm ma túy, xong về cơ bản thì Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985 chỉ là giải pháp tình thế nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về ma túy. Do vậy, trong bối cảnh đất nước ta đang chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế mới - cơ chế thị trường định hướng XHCN giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa hợp tác rộng rãi với các nước trong khu vực và trên thế giới nên BLHS năm 1985 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, không còn phù hợp với tình hình mới, cần phải sửa đổi, bổ sung toàn diện. Trên tinh thần đó, BLHS năm 1999 được ban hành thay thế BLHS năm 1985. Trong BLHS năm 1999, các tội phạm về ma túy được quy định tại Chương XVIII gồm 10 điều (từ Điều 192 đến Điều 201). So với BLHS năm 1985, quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm ma túy có những điểm mới sau đây: Một là, nhập 4 tội quy định tại các điều Điều 185c (tội tàng trữ trái phép chất ma tuý); Điều 185d (tội vận chuyển trái phép chất ma tuý); Điều 185đ (tội mua bán trái phép chất ma tuý) và Điều 185e (Tội chiếm đoạt chất ma tuý) thành một tội danh mới quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 (Thực chất đây là điều luật quy định tội phạm ghép). Do có việc nhập 4 tội quy định ở 4 điều luật khác nhau vào một điều luật, bởi vậy từ 13 điều quy định tội phạm về ma túy trong BLHS năm 1985, nay chỉ còn 10 điều luật quy định các tội phạm này trong BLHS năm 1999. Chúng tôi cho rằng, việc 13 BLHS năm 1999 nhập 4 tội quy định ở 4 điều luật và 1 điều luật có cùng chế tài là có cơ sở, vì các tội phạm này có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không khác biệt nhau lớn. Mặt khác, thực tế cho thấy, các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán chiếm đoạt chất ma túy thường đan xen nhau, hành vi này được thực hiện là tiền đề để thực hiện hành vi kia. Chẳng hạn, vận chuyển, tàng trữ là để mua bán chất ma túy. Chính vì vậy, nhiều nhà thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho rằng: “Nhiều vụ án tuy đã được khám phá, song rất khó phân biệt, bóc tách xem đâu là hành vi vận chuyển, đâu là hành vi mua bán, tàng trữ” [59, tr 7]. Do vậy, việc nhập các tội phạm này vào một điều luật cũng có bất cập nhất định. Hai là, bỏ hình phạt tử hình đối với một tội; điều chỉnh mức xử phạt tù của từng khung hình phạt cho phù hợp với các loại tội phạm được phân loại ở phần chung của BLHS; hình phạt bổ sung không còn quy định ở một điều luật riêng mà đưa vào từng điều luật quy định các tội phạm. Cụ thể là: Nếu Điều 185m, BLHS năm 1985 có quy định hình phạt tử hình đối với tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy thì Điều 200 BLHS năm 1999 không còn quy định hình phạt tử hình đối với tội phạm này. Việc bỏ hình phạt tử hình đối với tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ phù hợp với trào lưu chung của nhân loại về tôn trọng, bảo vệ quyền sống của con người, mà còn phù hợp với chính sách, đường lối xử lý nhân đạo, phù hợp với thực tế điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này ở nước ta. Về hình phạt tiền, BLHS năm 1999 cũng điều chỉnh mức phạt tiền khởi điểm từ 10 triệu (Theo quy định của BLHS năm 1985) xuống 5 triệu đối với một số tội có quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Việc sửa đổi như vậy, có ý kiến cho rằng: “Điều này, thể hiện BLHS năm 1999 đã đề cao hình thức xử lý bằng hình phạt tù, còn hình phạt tiền chỉ là hình phạt bổ sung mà không có tính bắt buộc như BLHS năm 1985. Thực tế việc quy định hình phạt tiền mang tính bắt buộc và mức khởi điểm của phạt tiền là 10 triệu đồng theo BLHS năm 1985 là không mang tính khả thi. Có nhiều đối tượng phạm tội bản thân là con nghiện và gia đình thực chất không hề có khả năng để chấp hành phán quyết của tòa án về hình phạt tiền” [59, tr 8]. 14 Ba là, BLHS đã sửa đổi, bổ sung một số tình tiết định khung hình phạt như: Bỏ tình tiết định khung “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 điều này” và tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 điều này” ở các khung hình phạt tăng nặng của một số tội phạm về ma túy. Việc BLHS năm 1999 bỏ các tình tiết định khung nêu trên là có cơ sở, bởi vì trong mỗi khung hình phạt của các tội phạm về ma túy, nhà làm luật đều quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt để Toà án có thể lựa chọn quyết định một mức hình phạt phù hợp trong giới hạn đó. Nếu có nhiều tình tiết định khung tăng nặng được quy định trong từng khoản của điều luật cụ thể thì đương nhiên mức hình phạt cụ thể được quyết định áp dụng với người bị kết án có thể tới mức tối đa được quy định trong khung hình phạt đó. Do vậy, nếu áp dụng tình tiết “có nhiều tình tiết quy định ở khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này” để tiếp tục tăng nặng hình phạt được áp dụng là bất hợp lý, vì đã áp dụng hai lần các tình tiết định khung tăng nặng. Điều đó không đảm bảo nguyên tắc xử lý có lợi cho người phạm tội, nguyên tắc công bằng. Cùng với việc bỏ một số tình tiết định khung tăng nặng, BLHS năm 1999 còn bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội đối với trẻ em” tại điểm c khoản 2 điều 198 (tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý). Điều này đã đáp ứng được yêu cầu bảo vệ trẻ em của Đảng, Nhà nước ta, đồng thời phù hợp với Công ước quốc tế về Quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên. Ngoài ra, BLHS năm 1999 còn sửa đổi các tình tiết tăng nặng định khung một cách cụ thể, rõ ràng hơn để đảm bảo áp dụng thống nhất như: tình tiết “gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác hoặc gây cố tật nặng cho người khác” quy định tại điểm e khoản 2 Điều 185i và tại điểm h của khoản 2 Điều 185m BLHS năm 1985. Đây là những tình tiết tăng nặng định khung gây không ít khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng dẫn tới việc áp dụng tình tiết này thiếu sự thống nhất và không được chính xác. Để khắc phục hạn chế, thiếu sót này, BLHS năm 1999 đã quy định tỷ lệ thương tật cụ thể đối với những trường hợp này là “gây tổn hại cho sức khỏe người khác và tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên”. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan