VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
TỘI MUA BÁN NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH MIỀN NÚI TÂY BẮC
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
TỘI MUA BÁN NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH MIỀN NÚI TÂY BẮC
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN NGỌC HẢI
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh
vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN NGƯỜI ............................................. 6
1.1. Khái quát về tội phạm mua bán người ....................................................... 6
1.2. Lý luận về hoạt động áp dụng pháp luật hình sự ..................................... 13
1.3. Lý luận về hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán người
......................................................................................................................... 28
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH
MIỀN NÚI KHU VỰC TÂY BẮC .............................................................. 32
2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan .............................................................. 32
2.2. Tình hình tội phạm mua bán người trên địa bàn một số tỉnh miền núi phía
Bắc ................................................................................................................... 37
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán người tại các tỉnh miền
núi khu vực Tây Bắc ....................................................................................... 38
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN NGƯỜI ............................... 66
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật hình sự về tội mua bán người ................... 66
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán người
......................................................................................................................... 68
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự trong xử lý tội mua
bán người ......................................................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL
Áp dụng pháp luật
ANTT
An ninh trật tự
BLHS
Bộ luật hình sự
CTTP
Cấu thành tội phạm
HĐXX
Hội đồng xét xử
MBN
Mua bán người
QĐHP
Quyết định hình phạt
QPPL
Quy phạm pháp luật
TNHS
Trách nhiệm hình sự
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XDPL
Xây dựng pháp luật
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Số vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội mua bán người 39
ở khu vực Tây Bắc từ năm 2015 đến năm 2019 ....................................... 39
Bảng 2.2. Số vụ án được xét xử sơ thẩm về tội mua bán người ở khu vực
Tây Bắc giai đoạn 2015 đến năm 2019 theo địa bàn các tỉnh .................. 40
Bảng 2.3. Số bị cáo được xét xử sơ thẩm về tội mua bán người ở khu vực
Tây Bắc giai đoạn 2015 đến năm 2019 theo địa bàn các tỉnh .................. 40
Bảng 2.4. Hình phạt chính áp dụng đối với bị cáo phạm tội mua bán người
từ năm 2015 đến năm 2019 của khu vực Tây Bắc ................................... 52
Bảng 2.5. Hình phạt chính áp dụng đối với bị cáo phạm tội mua bán người
giai đoạn 2015 - 2019 của các tỉnh khu vực Tây Bắc............................... 53
Bảng 2.6. Hình phạt bổ sung áp dụng đối với bị cáo phạm tội mua bán người
từ năm 2015 đến năm 2019....................................................................... 54
Bảng 2.7. Hình phạt bổ sung áp dụng đối với bị cáo phạm tội mua bán người
................................................................................................................... 54
giai đoạn 2015 - 2019 theo địa phương .................................................... 54
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình đất nước phát triển nền kinh tế thị trường, bên cạnh
những thành tựu to lớn đã đạt được cũng còn tồn tại những mặt trái mà phát
triển kinh tế mang lại đó là vấn đề gia tăng tội phạm, trong đó tội phạm mua
bán người bao gồm phụ nữ, trẻ em và nam giới không còn là hiện tượng mới
mà ngày càng gia tăng với quy mô lớn, diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng
tinh vi, mức độ hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các đối tượng lừa bán các
nạn nhân sang nước ngoài chủ yếu phục vụ hoạt động mại dâm, bóc lột sức lao
động, làm con nuôi hoặc lấy nội tạng. Mua bán người là loại tội phạm rất
nghiêm trọng, mang tính đặc thù, là tội phạm hoạt động xuyên quốc gia và quốc
tế. Tội phạm này xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự,
nhân phẩm, quyền tự do của con người được Hiến pháp và pháp luật quy định,
đồng thời xâm phạm đến trật tự chính trị, an toàn xã hội, phá vỡ kết cấu cộng
đồng gây hoang mang trong dư luận, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế
- xã hội của công dân. Tội phạm mua bán người còn xâm phạm nghiêm trọng
đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Trong những năm gần đây Đảng, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương,
chính sách trong xây dựng nền pháp lý trong phòng ngừa, xử lý, đấu tranh,
phòng chống tội phạm mua bán người; các văn bản quy phạm pháp luật đã quy
định về hành vi mua bán người tương đối cụ thể cũng như xác định rõ trách
nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong phòng ngừa nguyên nhân làm phát
sinh loại tội phạm và xử lý hình sự đối với tội phạm này. Những việc làm trên
thực tế chỉ kiềm chế được phần nào sự phát triển của tội phạm mua bán người,
tình hình diễn biến tội phạm những năm gần đây cho thấy tội phạm này tiếp tục
có xu hướng gia tăng. Điều này phản ánh công tác nghiên cứu, xây dựng pháp
1
luật và ADPL vào đường lối đấu tranh, phòng chống, xử lý tội phạm mua bán
người còn một số hạn chế, vướng mắc.
Hiện nay, tình hình tội phạm mua bán người ở Việt Nam đang ở mức báo
động. Từ đầu năm 2015 đến tháng 6 năm 2019 trên cả 63 tỉnh thành xảy ra
2.748 vụ mua bán người liên quan đến 4.110 đối tượng mua bán 5.984 nạn nhân
[30, tr.15]. Nạn nhân của tội phạm mua bán người thực tế không chỉ là phụ nữ,
trẻ em mà đã mở rộng thành phần gồm nam giới, trẻ sơ sinh, bào thai và cả nội
tạng người. Tội phạm mua bán người diễn ra trọng điểm các tỉnh biên giới,
miền núi Tây Bắc với các điểm nóng như Hòa Bình, Lào Cai, Điện Biên, Sơn
La, Lai Châu, Yên Bái có đường biên giới dài giáp ranh với Lào, Trung Quốc,
có nhiều cửa khẩu, địa hình đồi núi hiểm trở, có nhiều đường mòn thuận lợi
cho việc đưa nạn nhân ra khỏi lãnh thổ nước ta.
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn mua bán người cho thấy
việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người chưa đạt hiệu quả cao, còn
thực trạng bỏ lọt tội phạm do các đối tượng sử dụng nhiều phương thức đa dạng,
thủ đoạn tinh vi, áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ thông tin vào thực hiện
và che giấu tội phạm. Việc nghiên cứu quy định của PLHS Việt Nam và khảo
sát thực tiễn việc ADPL trong công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán
người hiện nay là vấn đề khoa học mang tính thực tiễn cấp thiết để hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả việc ADPL trong công tác đấu tranh, phòng,
chống loại tội phạm này. Trên cơ sở các nội dung đã trình bày, tác giả lựa chọn
đề tài “Tội mua bán người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn các
tỉnh miền núi Tây Bắc” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước tình hình gia tăng và diễn biến phức tạp của tội phạm mua bán
người hiện nay, cần thiết đặt ra yêu cầu nghiên cứu về tội phạm này. Những
năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở nhiều phương diện,
2
khía cạnh và góc độ khác nhau, cụ thể là: Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn
Mai Trâm “Phòng, chống tội phạm mua bán người tại Việt Nam”, năm 2017;
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Dương Thu Hải với đề tài: “Tội mua bán
người theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” năm 2016; “Cần từng
bước hoàn thiện pháp luật về công tác phòng, chống tội phạm buôn bán phụ
nữ, trẻ em” của tác giả Lương Thanh Hải (Tạp chí Tòa án nhân dân số 7/2006);
“Luật Phòng, chống mua bán người - Cơ sở pháp lý đấu tranh chống tội phạm
mua bán người trong thời gian tới” của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh (Tạp chí
CAND số chuyên đề tháng 8 năm 2011)…. Việc nghiên cứu quy định của luật
hình sự về tội mua bán người tuy không phải mới, song các nghiên cứu còn
mang tính chất nghiên cứu ở phạm vi hẹp trong một tỉnh, chưa đánh giá được
tình hình, xu thế tội phạm chung cũng như nghiên cứu chủ yếu ở các khía cạnh
phòng, chống tội phạm. Đến thời điểm này chưa có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học nào nghiên cứu về thực tiễn ADPL hình sự Việt Nam đối với tội
phạm mua bán người trên địa bàn các tỉnh miền núi Tây Bắc. Đề tài luận văn
của tác giả dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá khoa học, khách
quan để từ đó nghiên cứu cụ thể, sâu sắc các các quy định của BLHS về tội mua
bán người, tạo tiền đề cho việc xây dựng, ADPL và thực hiện hiệu quả công tác
đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán người trong tương lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
ADPL hình sự Việt Nam đối với tội mua bán người từ thực tiễn các tỉnh miền
núi phía Tây Bắc, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy
định về tội mua bán người trong BLHS Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của BLHS Việt Nam về tội phạm này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về xác định tội danh, áp dụng hình phạt
đối với tội mua bán người;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn việc xác định tội danh, áp dụng hình
phạt đối với tội mua bán người trên địa bàn các tỉnh miền núi Tây Bắc, đồng
thời phân tích làm rõ một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định BLHS Việt Nam về tội mua bán
người và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn về loại tội phạm này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt
Nam đối với tội mua bán người.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội mua bán
người trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp việc phân tích thực tiễn giải quyết
tội mua bán người trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Tây Bắc, các nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp trên phương diện
lập pháp hình sự và phương diện thực tiễn, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định
của BLHS Việt Nam về tội mua bán người.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn tình hình tội mua bán người
từ năm 2015 - 2019 trong phạm vi các tỉnh miền núi phía Tây Bắc.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
4
Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu: thống kê, điều tra, khảo sát, phân tích, so sánh, đối chiếu, chứng minh,
tổng hợp, vận dụng các quy định pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận
văn thạc sĩ luật học về tội mua bán người từ khi tội phạm này được quy định
trong BLHS năm 2015, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận
và thực tiễn liên quan tới tội mua bán người trong luật hình sự Việt Nam:
- Xây dựng khái niệm tội mua bán người và phân tích ý nghĩa của việc
quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam;
- Phân tích những dấu hiện pháp lý hình sự và hình phạt của tội mua bán
người trong luật hình sự Việt Nam;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn xét xử tội mua bán người, đồng thời
phân tích làm rõ một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định BLHS Việt Nam về tội mua bán
người và nâng cao hiệu quả áp dụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài luận văn được
thiết kế thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với tội phạm
mua bán người
Chương 2: Thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật đối với tội mua bán
người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ các tỉnh miền núi Tây Bắc
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với
tội mua bán người.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN NGƯỜI
1.1. Khái quát về của tội phạm mua bán người
1.1.1. Khái niệm tội phạm mua bán người
Mua bán theo nghĩa thông thường được hiểu là hoạt động trao đổi giữa tiền
và hàng hóa, người mua dùng tiền của mình để mua lấy hàng hóa của người bán
theo nhu cầu. Mua bán người là một hành vi xâm phạm quyền con người, chính
vì thế không được xem xét mua bán người trên hoạt động kinh tế mà phải được
xem xét trên góc độ pháp lý, góc độ hình sự và với đạo đức xã hội.
Khái niệm mua bán người và tội phạm mua bán người trong pháp luật
quốc tế
Hội thảo quốc tế về phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em tại Hội nghị
21/12/1999 đã đưa ra khái niệm về mua bán người ra nước ngoài như sau [13]:
“Mua bán phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài là hành vi tìm kiếm lừa gạt để đưa
phụ nữ, trẻ em ra khỏi biên giới một cách bất hợp pháp nhằm mục đích kiếm
lời của bọn tội phạm”.
Như vậy, có thể thấy pháp luật quốc tế đã đề cập đến khái niệm Mua bán
ngươì, nhưng chưa có một khái niệm thống nhất về Mua bán người, cũng như
Tội phạm mua bán người. Từ các văn bản pháp luật quốc tế trên có thể thấy đặc
điểm chung của tội phạm buôn bán người như sau:
1. Buôn bán người là hành vi mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa
chấp, nhận người bất hợp pháp.
2. Mục đích của buôn bán người là bốc lột tình dục, sức lao động, bộ
phận cơ thể để thu lợi nhuận bất hợp pháp.
6
3. Sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hay các hình thức khác nhằm
tước quyền tự do của nạn nhân.
Khái niệm mua bán người trong pháp luật Việt Nam
Pháp luật Việt Nam cũng chưa thống nhất có một khái niệm chính thức
về mua bán người. Khái niệm tội phạm mua bán người được đề cập tại một số
Hội thảo khoa học và các văn bản pháp luật. Tại Hội thảo quốc tế về Phòng
chống buôn bán phụ nữ và trẻ em tại Hà Nội ngày 21/12/1999 đã đưa ra khái
niệm về buôn bán người ra nước ngoài như sau: “Mua bán phụ nữ, trẻ em ra
nước ngoài là hành vi tìm kiếm lừa gạt để đưa phụ nữ và trẻ em ra khỏi biên
giới một cách bất hợp pháp nhằm mục đích kiếm lời của bọn phạm tội.”
Ngày 29/03/2011, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật
Phòng chống mua bán người. Tuy nhiên, Luật chỉ quy định các hành vi bị
nghiêm cấm, nguyên tắc, chính sách của Nhà nước, phương thức đấu tranh
phòng chống tội phạm mua bán người và trách nhiệm của các cơ quan chức
năng trong Phòng chống mua bán người mà không đưa ra một định nghĩa về
“mua bán người” [17].
Các văn bản QPPL khác bảo vệ quyền con người như Luật hôn nhân và
gia đình, luật Hiến pháp, luật Dân sự, các nghị định của chính phủ cũng không
đưa ra một khái niệm chính thức về mua bán người.
Từ hoạt động nghiên cứu các khái niệm mua bán người trong các văn
bản pháp luật nêu trên có thể hiểu: Mua bán người là hành vi lừa gạt, dụ dỗ,
lôi kéo hoặc các thủ đoạn khác để có được người và dùng người như một hàng
hóa để trao đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác nhằm thỏa mãn mục
đích phạm tội.
Khái niệm Tội phạm mua bán người trong PLHS Việt Nam
Trước đây, hầu hết các vụ mua bán người đều với nạn nhân là phụ nữ và
trẻ em gái. Do vậy, pháp luật Việt Nam chỉ đề cập đến việc mua bán phụ nữ và
7
trẻ em. BLHS năm 1999 có 2 Điều luật liên quan đến vấn đề Mua bán người,
giới hạn khách thể của tội phạm là phụ nữ và trẻ em (Điều 119, 120).
Dựa vào tình hình thực tế thì mua bán người không chỉ với nạn nhân là
phụ nữ và trẻ em mà còn xảy ra với nam giới. Chính vì thế, ngày 19/06/2009,
Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS,
trên cơ sở BLHS năm 1999, tội “ mua bán phụ nữ - trẻ em” quy định tại điều
199 thành “tội mua bán người” [16].
Hiện nay, tội phạm Mua bán người được quy định tại điều 150 BLHS
2015, nhưng không đưa ra một khái niệm chính thức về Tội phạm Mua bán
người mà chỉ nêu….
Tội phạm mua bán người là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong BLHS do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm quyền tự do của con người, đối tượng phạm tội đã coi con người
như một loại hàng hóa để thực hiện hành vi mua bán để trao đổi lấy tiền, tài
sản hoặc các lợi ích vật chất khác nhằm thỏa mãn nhu cầu mục đích bên mua
và bên bán.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội phạm mua bán người
Khách thể của tội phạm
Tội mua bán người xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người. Đối
tượng tác động của tội phạm là con người từ 16 tuổi trở lên.
Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện: dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau.
- Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền tài sản hoặc các
vật chất khác;
- Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bốc lột tình dục, cưỡng bức lao
động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
8
- Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi trên.
Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện ở việc dùng tiền hoặc lợi ích
vật chất khác để trao đổi lấy “hàng hóa” là con người. Người phạm tội đã coi
con người như hàng hóa để trao đổi, mua bán.
Trong mọi trường hợp, nạn nhân có thể biết hoặc không biết việc trao
đổi, mua bán của người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, để thực hiện hành
vi trao đổi, người phạm tội có thể có nhiều hành vi liền trước như dụ dỗ, lừa
phỉnh, ép buộc dưới nhiều hình thức và thủ đoạn khác nhau.
Khi xác định TNHS cần chú ý tình tiết có liên quan đến thái độ chủ quan
của nạn nhân và hành vi thực tế của người phạm tội tránh bỏ lọt tội phạm.
Trong trường hợp đối tượng tác động của tội phạm không phải là người
đủ 16 tuổi trở lên thì không CTTP này mà tùy vào từng trường hợp có thể xem
xét ở các tội danh khác nhau.
Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp.
Chủ thể của tội phạm
Tội phạm được thực hiện do người có đủ năng lực TNHS, đạt độ tuổi
theo luật định. Thông thường, cả người mua và người bán là chủ thể của tội
phạm này.
Hình phạt của Tội mua bán người.
Điều 150 BLHS 2015 quy định:
Trong khoản 1 (cấu thành cơ bản) quy định hình phạt tù từ năm năm đến
mười năm [19].
Trong khoản 2 (cấu thành tăng nặng) quy định hình phạt tù từ tám năm
đến mười lăm năm cho các trường hợp phạm tội sau: Có tổ chức; Vì động cơ
đê hèn; Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần
và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không
9
thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này; Đưa nạn nhân ra khỏi
biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Đối với từ 02 người đến
05 người; Phạm tội 02 lần trở lên.
Trong khoản 3 (cấu thành tăng nặng đặc biệt): quy định hình phạt tù từ
12 năm đến 20 năm, nếu thuộc một trong các trường hợp sau: Có tính chất
chuyên nghiệp; Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; Gây thương tích, gây tổn
hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên; Làm nạn nhân chết hoặc tự sát; Đối với 06 người
trở lên; Tái phạm nguy hiểm.
Ngoài ra, điều luật quy định hình phạt bổ sung là người phạm tội còn có thể
bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú
từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản [19].
1.1.3. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng pháp luật đối với tội phạm mua
bán người
* Các quy định tại BLHS 2015:
BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung Điều 119 BLHS năm 1999, quy
định tội mua bán người tại Điều 150. Trong đó, khoản 1 quy định cấu thành cơ
bản; khoản 2, khoản 3 quy định cấu thành tăng nặng; khoản 4 quy định hình
phạt bổ sung. Như vậy, BLHS năm 2015 đã phân tích làm rõ trong điều luật về
thủ đoạn phạm tội là “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng các
thủ đoạn khác”; nội dung mô tả hành vi khách quan tương đồng với các quy
định của công ước quốc tế về phòng, chống buôn bán người. Ngoài ra, Điều
150 BLHS còn bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung, như: vì động cơ đê
hèn; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; làm nạn
nhân chết hoặc tự sát; tái phạm nguy hiểm. Trong CTTP của tội mua bán người
quy định tại Điều 150 BLHS năm 2015 đã có những tiến bộ hơn so với quy
định tại Điều 119 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), cụ thể: Đã
10
quy định cụ thể hơn về hành vi mua bán người trong mặt khách quan của tội
phạm, bao gồm các dạng hành vi như chuyển giao hoặc tiếp nhận người hoặc
tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác. Thủ đoạn mà người phạm tội có
thể sử dụng là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng thủ đoạn
khác. Bên cạnh đó, mục đích phạm tội vì lợi ích vật chất (để giao, nhận tiền, tài
sản hoặc lợi ích vật chất khác) không còn là lợi ích duy nhất của cấu thành cơ
bản tội mua bán người mà Điều 150 đã bổ sung thêm mục đích: Để bóc lột tình
dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc mục đích vô
nhân đạo khác. Mức hình phạt tù tối thiểu mà người phạm tội mua bán người
có thể phải chịu theo khoản 1 Điều 150 BLHS năm 2015 cũng tăng lên đến 5
năm, nhiều hơn 2 năm quy định tại khoản 1 Điều 119 BLHS năm 1999. Những
quy định về hành vi mua bán người theo quy định của Điều 150, BLHS năm
2015 cơ bản đã phù hợp, tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham
gia. Theo đó, BLHS 2015 tách các hành vi phạm tội mua bán người thành 2 điều
luật riêng biệt về Tội mua bán người và Tội mua bán người dưới 16 tuổi. Việc
tách thành 2 điều luật theo hướng riêng biệt giữa việc mua bán người và mua bán
người dưới 16 tuổi để định danh, định khung hình phạt nghiêm khắc hơn, các điều
khoản cụ thể hơn [19].
* Các quy định tại Nghị quyết 02/2019/NQ-HĐTP:
Nhằm triển khai thực hiện BLHS 2015, đảm bảo áp dụng đúng và thống
nhất các điều khoản liên quan đến tội phạm mua bán người được quy định tại
Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi,
Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao đã ban hành Nghị quyết số
02/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 hướng dẫn áp dụng Điều 150
về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của BLHS,
Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 15/3/2019. Nghị quyết hướng dẫn chi tiết việc
truy cứu TNHS trong trường hợp cụ thể tại Điều 4 Nghị quyết quy định việc
11
Truy cứu TNHS trong trường hợp sử dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với
người nước ngoài, Điều 5 Nghị quyết quy định việc truy cứu TNHS trong
trường hợp sử dụng thủ đoạn đưa người đi lao động nước ngoài… Nghị quyết
số 02/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn cụ
thể hơn về xác định tội phạm, về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, về
truy cứu TNHS liên quan đến tội mua bán người… Có thể nói đây là văn bản
có giá trị pháp lý cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có căn cứ để áp dụng
khi giải quyết các vụ án về mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi [9].
* Các quy định tại Luật phòng chống mua bán người 2011:
Luật Phòng, chống mua bán người được Quốc hội thông qua và chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2012. Nhóm thứ nhất gồm hành vi mua bán
người theo quy định tại Điều 119 và Điều 120 của BLHS và các hành vi trực
tiếp liên quan đến việc mua bán người mà Công ước về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia liệt vào danh sách các hành vi buôn bán người. Đây được
xem là nhóm hành vi cốt lõi cần phòng, chống. Nhóm này bao gồm các hành
vi cụ thể được quy định tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 5 Điều 3 của Luật
phòng chống mua bán người 2011.
Nhóm thứ hai gồm các hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong phòng, chống mua bán người, như: lợi dụng
hoạt động phòng, chống mua bán người để trục lợi, thực hiện các hành vi trái
pháp luật; cản trở việc tố giác, tố cáo, khai báo và xử lý hành vi vi phạm pháp
luật về phòng, chống mua bán người; trả thù, đe dọa trả thù người làm chứng,
người tố giác, người tố cáo, người thân thích của họ hoặc người ngăn chặn hành
vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mua bán người; .... (các khoản 6, 7, 8, 12
của Điều 3 Luật phòng chống mua bán người 2011).
12
Nhóm thứ ba gồm các hành vi bị nghiêm cấm có liên quan đến nạn nhân,
như: kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân; trả thù, đe dọa trả thù nạn nhân; tiết
lộ thông tin về nạn nhân khi chưa có sự đồng ý của họ hoặc của người đại diện
hợp pháp của nạn nhân; giả mạo là nạn nhân (các khoản 6, 9, 10, 11 của Điều
3 Luật phòng chống mua bán người 2011). Ngoài ra, Luật phòng chống mua
bán người 2011còn có một quy định “mở” tại khoản 12 Điều 3 theo hướng dẫn
chiếu đến các hành vi vi phạm khác nhằm bao quát những hành vi vi phạm các
quy định của Luật PCMBN mà không thuộc ba nhóm hành vi bị nghiêm cấm
nêu trên.
Để công tác phòng, chống tệ nạn mua bán người đạt hiệu quả, Điều 4 Luật
PCMBN đã xác định rõ những nguyên tắc cơ bản của việc phòng, chống mua
bán người. trong đó nguyên tắc đầu tiên được khẳng định là thực hiện đồng bộ
các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi bị nghiêm cấm quy định tại
Điều 3 của Luật. Bên cạnh việc xác định các nguyên tắc phòng, chống mua bán
người, Điều 5 Luật phòng chống mua bán người 2011 cũng quy định rõ các chính
sách của Nhà nước trong phòng, chống mua bán người [17].
1.2. Lý luận về hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự
1.2.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Là một trong những khái niệm cơ bản của khoa học pháp lý, về mặt thuật
ngữ, ADPL là một hoạt động, một quá trình tách ra khỏi hoạt động XDPL và
gắn với giải quyết các yêu cầu thực tế. Về lý luận, ADPL và XDPL là hai quá
trình độc lập với nhau. Trong khoa học, có nghiên cứu cho rằng, ADPL là quá
trình diễn ra ngay sau quá trình XDPL, bao gồm “toàn bộ những việc làm,
những hoạt động, những phương thức nhằm thực hiện những yêu cầu đặt ra
trong pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội” [14]
13
Với quan điểm này, ADPL theo đó bao gồm cả việc cụ thể hóa pháp luật
bằng những văn bản có tính hướng dẫn chi tiết của Chính phủ, các Bộ, và Tòa
án... Việc ADPL do đó sẽ được thể hiện thông qua những hình thức và phương
pháp như: (1) tuân thủ pháp luật, (2) thi hành pháp luật và (3) vận dụng, sử
dụng pháp luật.
Các quy phạm pháp luật rất phong phú và đa dạng cho nên hình thức thực
hiện chúng cũng khác nhau. Về mặt lý luận, bất cứ một hệ thống pháp luật nào dù
chịu ảnh hưởng của những điều kiện khác biệt nhau về kinh tế - xã hội thì về cơ
bản nội dung cũng bao gồm những một số loại quy phạm nhất định.
Chẳng hạn, bằng việc xét xử người đã thực hiện một tội phạm, nhà nước
thông qua Tòa án buộc người đó phải chịu hình phạt (tức là thực hiện nghĩa vụ
của họ). Và như vậy, chỉ trong mối quan hệ này, ADPL mới thực sự tồn tại một
cách rõ nét nhất như một hình thức thực hiện pháp luật thứ tư [14].
Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhưng
không phải mọi trường hợp đều cần đến sự can thiệp của nhà nước để đưa các
quy phạm pháp luật do nhà nước đã ban hành vào cuộc sống - tức là cần đến
hoạt động ADPL của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. ADPL chỉ xuất
hiện trong những trường hợp khi mà những chủ thể của pháp luật không thể tự
mình thực hiện các quy phạm pháp luật. Trong khoa học pháp lý, ADPL xuất
hiện trong những trường hợp: Khi mà quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ
thể pháp luật: (1) không mặc nhiên phát sinh hoặc (2) không mặc nhiên được
thừa nhận hay thực hiện nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước với tư cách là một
tổ chức quyền lực công.
Trên cơ sở những phân tích trên đây, có thể đưa ra định nghĩa khoa học
về ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, là một hoạt động thực
tiễn pháp lý nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp
14
- Xem thêm -