Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh bắc giang...

Tài liệu Luận văn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh bắc giang

.PDF
76
103
102

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN DUY KHÔI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN DUY KHÔI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP Hà Nội - 2020 MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CTTP Cấu thành tội phạm TAND Tòa án nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân Nxb Nhà xuất bản PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền sở hữu tài sản luôn được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo vệ. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, đặc biệt là các hành vi bị coi là tội phạm đều bị nghiêm trị trước pháp luật. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Loại tội phạm này trong thời gian gần đây không chỉ có xu hướng tăng về số lượng vụ án, người phạm tội mà phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây thiệt hại lớn đến an ninh, kinh tế. Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng cho thấy những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội này trong công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như trong việc chủ động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Nguyên nhân chủ yếu những vướng mắc, bất cập xuất phát từ sự nhận thức khác nhau về việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự khi tiến hành xử lý hình sự đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cá biệt, có một số trường hợp nhầm lẫn trong việc định tội danh, áp dụng không đúng quy định pháp luật, thậm chí không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác hoặc không phân biệt được giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác trong Bộ luật hình sự dẫn đến tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Bắc Giang là một tỉnh nằm phía Đông bắc Hà Nội với hướng phát triển trở thành tỉnh có nền công nghiệp phát triển vì vậy những năm gần đây chính quyền địa phương đã có chủ trương thu hút xây dựng nhiều khu công nghiệp nhằm thúc đẩy kinh tế địa phương. Chính vì muốn tạo sự đột biến trong nền kinh tế của tỉnh như vậy mà các khu công nghiệp được hình thành, các nhà máy, nhà xưởng được đầu tư ngày một tăng lên, kéo theo sự tăng trưởng của các nhà máy, nhà xưởng thì nhu cầu về nguồn nhân lực cho 1 các khu công nghiệp, các nhà máy, nhà xưởng cũng gia tăng rất lớn dẫn đến mật độ dân nhập cư tăng đột biến trong những năm qua. Đi đôi với sự phát triển kinh tế của tình thì mặt trái của nó là tình hình tội phạm cũng diễn ra ngày càng phức tạp, đặc biệt là các loại tội phạm về xâm phạm quyền sở hữu, quyền tài sản. Chính vì vậy, là một cán bộ trong quá trình làm việc thường xuyên áp dụng các quy định của pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài này để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Việc nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và các biểu hiện cụ thể của nó tại Bắc Giang nói riêng, để từ đó đề ra những biện pháp hoàn thiện các quy định của BLHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là rất cần thiết. Vì lý do này tác đã chọn đề tài “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được đề cập đến trong các giáo trình của các trường Đại học, Học viện đào tạo về luật, sách chuyên khảo và được các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. * Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và trong một số lĩnh vực cụ thể dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm có luận án Thạc sĩ của một số tác giả sau đây: - Đặng Minh Phụng (2014) Chứng minh trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Nguyễn Hùng Lâm (2016), Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Phùng Thị Hằng Hà (2015) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. 2 - Tạ Thùy Châu (2015) Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. * Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ khoa học luật hình sự và tội phạm học có luận văn thạc sĩ của một số tác giả sau: - Đinh Thế Anh (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đeo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam – Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. - Nguyễn Đại Quang (2014) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Phạm Ngọc Long (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. * Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ tội phạm học có luận văn thạc sĩ của một số tác giả sau: - Lê Thị Mai (2011), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Lê Hồng An (2012) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Phạm Anh Tuấn (2010), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bản tỉnh Bình Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Trần Tuấn Lợi (2012), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. 3 Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng chủ yếu các luận văn, luận án nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm, cũng có một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ khoa học luật hình sự nhưng tình hình tội phạm trong giai đoạn này đã có nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp cùng với đó là việc ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 nên các công trình nghiên cứu trên đã thể hiện những điểm bất cập không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1999 đến Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 dưới góc độ khoa học luật hình sự. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục đích: Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đánh giá thực tiễn xét xử tội phạm này tại tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn 2015 - 2019, qua đó đề xuất các biện pháp bảo đảm thi hành quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh và phòng ngừa tội phạm này trong thời gian tới tại tỉnh Bắc Giang nói riêng. - Nhiệm vụ: + Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. + Phân tích cơ sở pháp lý (quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này và so sánh với một số tội phạm khác có tính chất tương đồng được quy định trong Bộ luật hình sự. + Khảo sát thực tiễn, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2015 - 2019. 4 + Đưa ra yêu cầu và giải pháp nâng cao đảm báo xét xử đúng tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới. 5. Các phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá, thống kê... 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn - Về mặt khoa học: Luận văn góp phần từng bước hoàn thiện và bổ sung vào hệ thống lý luận đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật Việt Nam; đồng thời luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học luật hình sự đối với tỉnh Bắc Giang nói riêng. - Về mặt thực tiễn: Những đề xuất bảo đảm thi hành quy định của Bộ luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị chỉ dẫn cho hoạt động thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới tại tỉnh Bắc Giang. 7. Bố cục của luận văn Bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Giang về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Chương 3: Yêu cầu và các biện pháp bảo đảm xét xử đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 5 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì “lừa đảo” được hiểu là việc “lừa bằng thủ đoạn xảo trả để chiếm lấy của cải, tài sản”. Tuy nhiên, đây chỉ là cách hiểu thông thường về khái niệm “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, xem xét hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ là một hiện tượng xã hội tiêu cực. Trong BLHS Việt Nam, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn được quy định tại chương các tội xâm phạm sở hữu. Do đó, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thể hiện được đồng thời đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu và đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Căn cứ vào khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015, khoa học luật hình sự đưa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu như sau: “Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân”1. Khái niệm đã khái quát được những đặc điểm chung về khách thể, chủ thể và mặt chủ quan của của các tội xâm phạm sở hữu. Điều 174 BLHS năm 2015 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác...” Căn cứ vào quy định trên, khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ pháp lý như sau: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối”2. Hành vi chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội biết tài sản chiếm đoạt đang có người chiếm hữu, quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình. Khái 1 2 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.9] Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.37] 6 niệm mới chỉ thể hiện những đặc trưng cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dựa trên đặc điểm của hành vi khách quan. Từ những phân tích trên, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể được định nghĩa như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. 1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.1.2.1. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Do đó, khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu được pháp luật bảo vệ. Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ3. Quan hệ sở hữu được xác lập giữa một bên là chủ tài sản có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình và một bên là những người khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ tài sản đó. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm mất khả năng chiếm hữu, quản lý tài sản trên thực tế của chủ tài sản, vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ tài sản, qua đó xâm phạm đến quan hệ sở hữu được pháp luật bảo vệ. Mọi tội phạm đều có đối tượng tác động nhất định. Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, nó bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tài sản4. Tài sản là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là tài sản đang nằm trong sự quản lý của chủ tài sản, bởi đặc trưng của hành vi chiếm đoạt là hành vi làm Bộ luật dân sự 2005 (Điều 169) và Bộ luật dân sự 2015 (Điều 163) đều ghi nhận quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Theo đó , không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản của mình. 4 Tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 3 7 cho chủ tài sản mất hẳn khả năng chiếm hữu, quản lý tài sản trên thực tế và tạo khả năng đó cho người chiếm đoạt, vì vậy chỉ khỉ tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu, quản lý chủ tài sản thì mới nói đến hành vi “làm mất khả năng đó”. Vì vậy, tài sản bị thất lạc (bị mất, bị bỏ quên, bị đánh rơi) không thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. 1.1.2.2. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Chủ thể của tội phạm theo quy định của BLHS có thể là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại. Pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm. Đây là một quy định mới của Bộ luật hình sự khi ghi nhận pháp nhân cũng là một chủ thể của tội phạm. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lượi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Đây là chủ thể đặc biệt, theo quy định của Bộ luật hình sự, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 75 của BLHS. Tuy nhiên tại Điều 76 BLHS lại không quy định pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, pháp nhân thương mại không phải là chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cá nhân phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Trong BLHS Việt Nam không quy định thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở các quy định đó, khoa học luật hình sự đưa ra định nghĩa về người có năng lực trách nhiệm hình sự “là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự”.5 Năng lực trách nhiệm hình sự chỉ được hình thành khi con người đã đạt độ tuổi nhất định và sẽ tiếp tục phát triển hoàn thiện trong thời gian tiếp theo. Theo BLHS Việt Nam 5 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập I), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.123] 8 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS, nghĩa là về các tội như: lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và một số tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác (trong đó không bao gồm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Tuy nhiên, năng lực trách nhiệm hình sự cũng có thể bị hạn chế hoặc bị loại trừ hoàn toàn nếu người đó bị mắc các bệnh làm rối loạn hoạt động bình thường của bộ não. Chính vì vậy, luật hình sự ngoài việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự còn quy định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Chương IV BLHS thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự mà phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Trong thực tiễn áp dụng, khi đánh giá về năng lực trách nhiệm hình sự của một cá nhân thì hầu như chỉ áp dụng việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và nếu trong quá trình giải quyết các cơ quan tố tụng có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của người đó thì mới cần kiểm tra xem có phải là trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Căn cứ vào những quy định trên, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có thể là người từ đủ 16 tuổi trở lên đối với mọi trường hợp phạm tội và không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, tức là mọi cá nhân đạt độ tuổi luật định, không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự và đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 BLHS thì đều có thể trở thành chủ thể của tội này. 9 BLHS năm 2015 quy định khác về chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo Điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì: - Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác; - Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 (trong đó không bao gồm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015 thì chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có thể là cá nhân, phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015; Pháp nhân thương mại và người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với mọi trường hợp phạm tội. 1.1.2.3. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Mặt khách quan của tội phạm bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả và các điều kiện bên ngoài khác của việc thực hiện hành vi phạm tội như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội... + Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Trong một khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản và được phản ánh trong tất cả các CTTP, không có hành vi khách quan thì không có tội phạm. Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được mô tả trong CTTP cơ bản (khoản 1 Điều 174 BLHS) là hành vi bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Tuy nhiên không phải mọi hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ cấu thành tội này khi tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. 10 Có hai quan điểm khác nhau về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi khác nhau. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Giữa hai hành vi này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vị chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối 6. Theo quan điểm này, hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Quan điểm thứ hai cho rằng: Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vị khách quan duy nhất là “chiếm đoạt", nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Theo quan điểm này, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là hành vi chiếm đoạt, “thủ đoạn gian dối” được mô tả trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không được coi là một hành vi độc lập mà chỉ là phương thức để thực hiện hành vi. Theo quan điểm cá nhân, tác giả đồng ý với quan điểm thứ nhất, coi hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi: hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Bởi vì, mặc dù BLHS quy định trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là “thủ đoạn gian dối”, tuy nhiên bất kể thủ đoạn nào cũng đều phải được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi nhất định. “Gian dối” là việc đưa ra những thông tỉn giả, không đúng sự thật, xét cho cùng đó chính là hành vi được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển. Hơn nữa, thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được biểu hiện bằng những hành vi lừa dối nhất định trước khi người phạm tội thực hiện tiến hành vi chiếm đoạt tài sản. Do đó, giữa hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản có sự độc lập tương đối và xảy ra nối tiếp nhau về mặt thời gian. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là kết quả của hành vi lừa dối. Xét về mặt khách quan, hành vi lừa dối là hành vi đưa ra thông tin không đúng sự thật, về mặt chủ quan người phạm tội biết thông tin mình đưa ra là không đúng sự thật nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật. Hành vị lừa dối có thể được thực hiện 6 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.37] 11 bằng lời nói dối; bằng việc đưa ra các giấy tờ giả mạo; giả danh người có chức vụ, quyền hạn; giả danh các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội... Hành vi chiếm đoạt tài sản là “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình” 7. Hay nói cách khác, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho người sở hữu tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật. Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai hình thức thể hiện cụ thể: Thứ nhất, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang nằm trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Trong trường hợp này, người bị lừa dối tin vào những thông tin sai sự thật mà người phạm tội đưa ra nên đã tự nguyện giao tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu của mình cho người phạm tội. Khi nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội làm chủ được tài sản định chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất khả năng làm chủ tài sản đó trên thực tế, tức là người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Ví dụ: A báo mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình để làm thêm 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng nữa. Cùng lúc đó A đã bán mảnh đất của mình cho B với giá 500.000.000 đồng và C giá 600.000.000 đồng. Khi B và C đi làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện A đã bán mảnh đất này cho 02 người. Trong tình huống này, tài sản bị chiếm đoạt là số tiền 500.000.000 đồng của B và 600.000.000 đồng của C đang nằm trong sự chiếm hữu của A. Hành vi chiếm đoạt của A thể hiện ở việc nhận số tiền 500.000.000 đồng và 600.000.000 đồng từ B và C. Thứ hai, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang nằm trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi giữ lại tài sản đáng lẽ phải giao cho người bị lừa dối. Trong trường hợp này, người bị lừa dối vì tin vào những thông tin sai sự thật mà người phạm tội đưa ra nên đã nhận nhầm tài sản (nhận 7 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.11] 12 thiếu hoặc nhận sai tài sản) hoặc không nhận tài sản. Khi người bị lừa dối nhận nhầm hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội đã làm chủ được tài sản và người bị lừa dối đã mất tài sản đó, tức là người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Ví dụ: A và B là đồng thừa kế theo pháp luật đối với khối di sản X có giá trị 300.000.000 đồng, A và B thỏa thuận cử C (không thuộc diện thừa kế theo pháp luật) làm người quản lý di sản. Trong quá trình quản lý di sản, C có hành vi làm giả các giấy tờ về việc thanh toán các khoản nợ do người chết để lại hết số tiền 100.000.000 đồng. Đến thời điểm chia thừa kế, khối di sản chia thừa kế chỉ còn lại 200.000.000 đồng. Trong tình huống này, tài sản bị chiếm đoạt là số tiện 100.000.000 đồng trong khi di sản X đang nằm trong sự chiếm hữu của C (vì C được cử làm người quản lý di sản). Hành vi chiếm đoạt của C thể hiện ở việc C đã giữ lại số tiền 100.000.000 đồng trong khối di sản X mà đáng lẽ phải giao cho những người thừa kế là A và B. Thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản thì nó được coi là hoàn thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thông thường hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra kế tiếp ngay sau hành vi lừa dối nhưng cũng có những trường hợp giữa hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản có khoảng cách nhất định về mặt thời gian. Vì vậy, cần chú ý đến trường hợp này để xác định chính xác thời điểm tội phạm hoàn thành. Ví dụ như: Biết gia đình chị L có nhu cầu xin vào biên chế Nhà nước cho con gái mới ra trường nên ngày 21/4/2017 bà V đã đến nhà chị L và giới thiệu mình là cán bộ của cơ quan X, có mỗi quan hệ thân thiết với ông A là Giám đốc nên có khả năng xin cho con chị L vào biên chế với giá 300.000.000 đồng. Bà V hẹn 01 tuần sau mang tiền đến thì xin cho con chị L và biên chế. Vì tin bà V và muốn xin việc cho con nên chị L đã đồng ý. Ngày 28/4/2017 chị L mang tiền đến đưa cho bà V, bà V nhận tiền nhưng không xin được cho con chị L và cũng không trả lại chị L. Sau đó bà V bỏ trốn khỏi địa phương, con chị L không được vào biên chế. Trong tình huống này, hành vi lừa dối của bà V (giới thiệu mình là cán bộ của cơ quan X, có mỗi quan hệ thân thiết với ông A là Giám đốc nên có khả năng xin cho con chị L vào biên chế) diễn ra vào ngày 21/4/2017 nhưng đến ngày 28/4/2017 hành vi chiếm đoạt tài sản mới được thực hiện (V nhận tiền và đã kiểm soát số tiền đó). Giữa hành vi 13 lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản của bà V có khoảng cách về mặt thời gian. Thời điểm tội phạm hoàn thành trong trường hợp này là thời điểm bà V nhận được tiền từ chị L. Trường hợp người phạm tội cũng có hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng những hành vi này đã được BLHS quy định thành các tội phạm độc lập thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác tương ứng. Ví dụ: Hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt chất ma túy thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 249-251)... Hành vi lừa dối phải có trước khi thực hiện việc giao nhận tài sản giữa người bị lừa dối và người phạm tội thì mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tải sản, nếu hành vi lừa dối xảy ra sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản từ chủ tài sản thì không phải là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175). Việc giao nhận tài sản giữa người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người bị lừa dối là tự nguyện; nếu người bị lừa dối không tự nguyện giao nhận tài sản như trường hợp giả danh người có chức vụ, quyền hạn nhằm tuy hiếp tinh thần của người khác làm cho họ lo sợ mà miễn cưỡng giao tài sản thì không phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170). + Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Bất cứ tội phạm nào cũng có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng không phải mọi CTTP đều phản ảnh nội dung này mà chỉ có một số CTTP nhất định – đó là những CTTP vật chất. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có CTTP vật chất, tức là dấu hiệu hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174). Dấu hiệu này trước hết được phản ánh thông qua đặc điểm về lượng của đối tượng tác động, cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. 14 Mặc dù BLHS quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng phải thỏa mãn một trong số những điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 174 thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên không vì thế mà cho rằng, phải có thiệt hại về tài sản (người phạm tội đã chiếm đoạt được tải sản) thì mới cấu thành tội phạm. Thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản là thời điểm tội phạm hoàn thành, trường hợp người phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện các hành vi chuẩn bị cho việc chiếm đoạt hoặc đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng vì những nguyên nhân khách quan mà chưa chiếm đoạt được tài sản, thì vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội (Điều 14) hoặc phạm tội chưa đạt (Điều 15) tùy vào từng trường hợp cụ thể. Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng”, đồng thời bổ sung dấu hiệu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” và “tài sản bị chiếm đoạt là phương tiện kiểm sống chính của người bị hại và gia đình họ” với trường hợp tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng là dấu hiệu định tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đây là những dấu hiệu có tính chất định tính mới được quy định ở một số tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. + Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Việc định tội đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn đòi hỏi xác định cả mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Bởi lẽ, con người chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu hậu quả nguy hiểm đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra hay nói cách khác nếu giữa hành vi khách quan đã thực hiện của họ và hậu quả nguy hiểm để có mối quan hệ nhân quả với nhau. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện như sau: 15 - Hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản phải xảy ra trước khi có thiệt hại về tài sản. Đây là căn cứ đầu tiên để kiểm tra xem giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ nhân quả hay không. - Hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản khi xem xét độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một hoặc nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại về tài sản. Ví dụ: G đã làm giả giấy tờ xe môtô để chuẩn bị bán xe cho T, T kiểm tra giấy tờ xe không phát hiện là giả nên đã tin là xe của G và giao cho G 20.000.000đồng để mua chiếc xe của G. Trong tình huống này, việc G làm giả giấy tờ xe là hành vi lừa dối chứa đựng khả năng thực tế, nó khiến T tin tưởng nên đã giao tiền mua xe cho G, ở đây đã làm phát sinh thiệt hại về tài sản của T. - Thiệt hại về tài sản đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản. Trên thực tế có trường hợp mặc dù hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản có chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại về tài sản nhưng khả năng không được hiện thực hóa, thiệt hại về tài sản đó lại là kết quả của hành vi phạm tội khác. Ví dụ: G đã làm giả giấy tờ xe môtô để chuẩn bị bán xe cho T, T kiểm tra giấy tờ xe không phát hiện là giả nên đã tin là xe của G và hẹn ngày hôm sau mang tiền đến lấy xe, hai bên chốt giá xe là 20.000.000 đồng. Tuy nhiên ngày hôm sau em trai của G lấy xe mô ô đi chơi và cầm cố tại cửa hàng cầm đồ nên G không có xe giao cho T. Trong tình huống này, G có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của T, hành vi này cũng chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại về tài sản cho T thể hiện ở việc T đã hẹn hôm sau đem tiền đến lấy xe và nếu không có hành vi của em trai G lấy xe đi chơi và cầm cố chen ngang vào thì T đã giao tiền cho G và G đã chiếm đoạt được tài sản của T, trực tiếp gây thiệt hại về tài sản cho T. Tuy nhiên, trên thực tế hành vi của G đã không làm phát sinh thiệt hại về tài sản cho T mà thiệt hại đó lại là kết quả của hành vi đem xe đi chơi rồi cầm cố của em trai G. Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội, 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan