Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh an giang, tình hình, nguyên nhân và phòn...

Tài liệu Luận văn tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh an giang, tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa

.PDF
87
136
89

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN TRUNG TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN TRUNG TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA Ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số: 8.38.01.05 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn Văn Hiển, Ủy viên thường trực Ủy ban pháp luật Quốc hội. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Học viện cho tôi được bảo vệ luận văn trước Hội đồng. Đà Nẵng, ngày tháng năm 2019 Tác giả luận văn Trần Trung MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG ............................................................................................................. 6 1.1. Nhận thức về buôn lậu và tội phạm buôn lậu ............................................ 6 1.2. Tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2013- 2017 ......................................................................................................................... 12 CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG ................................... 337 2.1. Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu…………..................................................................................................43 2.2. Các nguyên nhân và điều kiện tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang………………………………………………………………………..55 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG…………………… .56 3.1. Dự báo tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian tới ............................................................................................................61 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang………………………………………………………75 KẾT LUẬN .................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 1. ANTT : An ninh trật tự 2. BLHS : Bộ luật hình sự 3.CA : Công an 4. TAND : Tòa án nhân dân 5. TA : Tòa án 6. VKSND : Viện kiểm sát nhân dân 7. PBGDPL : Phổ biến giáo dục pháp luật 8. UBND : Ủy ban nhân dân 9. GS : Giáo sư 10. TP : Thành phố 11. TS : Tiến sĩ 12. Tr : Trang 13. Nxb : Nhà xuất bản 14. HĐTP : Hội đồng thẩm phán 15. TX : Thị xã DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Thực trạng tình hình buôn lậu ở An Giang (2013 – 2017) ............. 17 Bảng 1.2. Tỉ trọng tội buôn lậu so với mức độ tổng quan của tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh tỉnh An Giang giai đoạn 2013 – 2017 ........................ 17 Bảng 1.3. Cơ số tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2013- 2017 Bảng 1.4: Diễn biến của tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2013- 2017………………………………………………………………… 18 Bảng 1.5: Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2013- 2017…………………………………………………………….. Bảng 1.6: Mật độ tội buôn lậu từ năm 2013- 2017 ở 11 đơn vị cấp huyện của tỉnh An Giang……………………………………………………………… 19 Bảng 1.7: Cấp độ nguy hiểm của tình hình tội buôn lậu giai đoạn 2013-2017 trên cơ sở kết hợp hai yếu tố dân cư và diện tích…………………………… Bảng 1.8. Cơ cấu số vụ buôn lậu trong tổng số vụ phạm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tỉnh An Giang giai đoạn 2013-2017....................................... 24 Bảng 1.9. Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu tỉnh An Giang giai đoạn 2013 – 2017 theo giới tính .......................................................................................... 25 Bảng 1.10. Cơ cấu về độ tuổi của người phạm tội buôn lậu ở An Giang giai đoạn (2013 – 2017) ......................................................................................... 26 Bảng 1.11. Cơ cấu của tình hình tội phạm buôn lậu tỉnh An Giang giai đoạn 2013- 2017 theo trình độ học vấn ................................................................... 27 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài An Giang là một tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của khu vực miền Tây Nam Bộ, phía Bắc giáp hai tỉnh Kandal và Takéo của Campuchia, phía Nam giáp thành phố Cần Thơ, phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang. Tỉnh An Giang có đường biên giới giáp với Campuchia dài 104 km; có nhiều cửa khẩu, trong đó có cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên (thuộc huyện Tịnh Biên) và cửa khẩu quốc tế đường sông Vĩnh Xương (thuộc Thị xã Tân Châu) với lưu lượng hàng hóa vận chuyển hàng triệu tấn/năm. Chính vì đặc điểm đó nên An Giang đã trở thành một trong những địa phương phát triển mạnh về thương mại và du lịch. Bên cạnh những thuận lợi để phát triển về kinh tế - xã hội thì tình hình tội phạm diễn ra khá phức tạp, trong đó nổi lên là tội phạm buôn lậu. Theo báo cáo của Công an tỉnh An Giang, chỉ tính riêng từ năm 2013 đến năm 2017 cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý 4.621 vụ buôn lậu, thu giữ hàng hóa khoảng 136,5 tỷ đồng, trong đó khởi tố điều tra 285 vụ phạm tội buôn lậu với 455 đối tượng. Tội phạm buôn lậu ngoài việc ảnh hưởng xấu đến thị trường hàng hóa nói chung, ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến quy định của nhà nước về buôn bán hàng hóa qua biên giới, ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của nhà nước mà nó còn gây ảnh hưởng tiêu cực nhiều mặt đến đời sống xã hội ở trong nước Việt Nam. Những số liệu trên đã phần nào phản ánh thực trạng của tội phạm buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang đang diễn biến hết sức phức tạp. Số vụ buôn lậu phát hiện và bị bắt giữ hàng năm rất nhiều tuy nhiên vì những lý do khác nhau vẫn còn nhiều vụ án buôn lậu chưa được phát hiện và xử lý, răn đe, ngăn chặn 1 kịp thời do đó công tác đấu tranh phòng chống tội pham buôn lậu chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng, tìm ra nguyên nhân của tội phạm buôn lậu, dự báo xu hướng biến động để xây dựng giải pháp phòng ngừa có hiệu quả nhóm tội phạm này trên địa bàn tỉnh An Giang là một việc làm có tính cấp thiết trong tình hình hiện nay. Xuất phát từ lý do đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, ở nước ta đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan được công bố như: - Nguyễn Đức Bình (2000), “Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”, Luận án Tiến sĩ luật học, Đại học luật Hà Nội, Hà Nội. - Dương Thị Nhàn (2006), “Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. - Nguyễn Hữu Hoan (2011), “Hoạt động nghiệp vụ trinh sát trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trên tuyến giao thông đường thủy nội địa của lực lượng Cảnh sát đường thủy”, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện CSND. - Lê Đặng Quốc Phong (2012), “Phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. - Nguyễn Thùy Trang (2016), “Tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. Và một số đề tài nghiên cứu khoa học các cấp của các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu. Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng chống tội buôn lậu, hoặc đề cập đến công tác đấu tranh chống buôn lậu 2 của một lực lượng, chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về công tác đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu trên một địa bàn tỉnh An Giang, cũng như giải pháp để phòng ngừa, ngăn chặn loại tội phạm này và vì vậy đề tài được kế thừa những giá trị khoa học của các công trình đã được nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở đánh giá về tình hình, nguyên nhân làm phát sinh tội buôn lậu từ đó đưa ra giải pháp phòng ngừa tội phạm này trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn thấy cần phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau: - Phân tích khái quát để làm rõ những vấn đề lý luận về tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang - Đánh giá thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian từ năm 2013 – 2017 - Phân tích khái quát để làm rõ những vấn đề lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang - Dự báo tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang để từ đó hoàn thiện hệ thống phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là làm rõ hơn những lý luận cơ bản về tội buôn lậu, tình hình tội buôn lậu, nguyên nhân và điều kiện của tội buôn lậu và các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang; thực trạng tình hình tội phạm buôn lậu ở An Giang trong thời gian 5 năm (từ năm 2013 đến 2017). 3 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung, đề tài được thực hiện dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm; - Về tội danh, đề tài đề cập đến tình hình tội buôn lậu được quy định tại điều 188 của Bộ luật hình sự 2015. - Về không gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế trên địa bàn tỉnh An Giang, bao gồm số liệu thống kê của cơ quan Công an, Tòa án tỉnh An Giang. - Về thời gian, đề tài nghiên cứu được giới hạn trong thời gian từ 2013 đến 2017. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng làm cơ sở, phương pháp luận cho việc nghiên cứu để giải quyết những vấn đề về lý luận tình hình tội buôn lậu, thực trạng, nguyên nhân và điều kiện tội buôn lậu từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang làm cơ sở thực tiễn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, và phương pháp diễn giải. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ nhiều vấn đề lý luận về tình hình tội buôn lậu, nguyên nhân và điều kiện của tội buôn lậu, nhân thân người phạm tội và giải pháp phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang. 6.2. Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể giúp các cơ quan tổ chức tham khảo để vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức và ý thức pháp luật cho nhân dân, vận dụng công tác điều tra, truy tố 4 xét xử, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang. 7. Kết cấu của luận văn “Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn bao gồm ba chương”: Chương 1: Tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang Chương 3: Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang 5 CHƯƠNG 1 TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG 1.1. Nhận thức về buôn lậu và tội phạm buôn lậu 1.1.1. Khái niệm về buôn lậu Buôn lậu là một hiện tượng xã hội, xuất hiện cùng với sự ra đời của bộ máy nhà nước và hàng rào thuế quan, quản lý việc kinh doanh buôn bán, xuất, nhập khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia. Thực chất buôn lậu là hoạt động kinh tế bất hợp pháp với mục đích cuối cùng là đạt lợi nhuận cao nhất. Buôn lậu xâm phạm đến các chính sách quản lý kinh tế, quản lý xuất, nhập khẩu hàng hoá… vì vậy, cho dù hoạt động buôn lậu có phát triển đến mức nào đi chăng nữa thì sự nhìn nhận về nó ở mỗi quốc gia cũng chỉ là những hiện tượng kinh tế xã hội tiêu cực cần được quan tâm. Trong đó, cần đặc biệt chú ý đến các trường hợp buôn lậu gây những thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội đều được điều chỉnh bằng quan hệ pháp luật hình sự. Tuy nhiên, việc nhận diện về buôn lậu ở mỗi quốc gia và ở các giai đoạn phát triển về lịch sử cũng có những quan niệm khác nhau. Chẳng hạn, ở Việt Nam thì thuật ngữ buôn lậu đã xuất hiện từ rất lâu và ngày xưa đã được các nhà ngôn ngữ học Việt Nam cho rằng đó là các hành vi: “buôn bán hàng trốn thuế hoặc hàng quốc cấm” hoặc là hành vi “mua bán những mặt hàng cấm và trốn đóng thuế theo quy định”. Như vậy, có nghĩa là trong kinh doanh, buôn bán nếu có các hành vi trốn lậu, gian lận… thì đều được xem là buôn lậu. Khác với nhận thức trên, thuật ngữ buôn lậu có nguồn gốc tiếng Anh “Smuggle” và trong tiếng Việt có nghĩa là: “hành vi mang hàng hoá một cách bí mật và không hợp pháp vào hoặc ra khỏi một nước” để buôn bán kiếm lời và thực chất nó là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới; quan điểm này đã được nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận; Đối với nước ta, theo Từ điển Tiếng Việt thì buôn lậu có nghĩa là: “buôn bán hàng cấm hoặc hàng 6 trốn thuế”[27, tr.121]; theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì buôn lậu là: “hành vi buôn bán trái phép qua biên giới thể hiện dưới các dạng: buôn bán các loại hàng hoá mà Nhà nước cấm nhập khẩu, xuất khẩu, nhưng đã tìm mọi cách để trốn thuế, sử dụng giấy tờ giả, giấy tờ không hợp lệ hoặc trái với quy định về xuất khẩu, nhập khẩu”[9, tr.97] ; còn tại Điều 188 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, bị coi là tội phạm buôn lậu nếu có hành vi buôn bán trái phép qua biên giới “hàng hoá, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ 100 trăm triệu đồng trở lên hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này” [7, tr.42]. Như vậy, từ những phân tích ở trên cho thấy Việt Nam cũng có cùng quan điểm với các quốc gia trên thế giới khi nhìn nhận về vấn đề buôn lậu. Xuất phát từ thực tiễn tình hình khách quan của hoạt động buôn lậu, cũng như thực tiễn hình thành hoạt động buôn lậu và yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn lậu ở Việt Nam, có thể đưa ra khái niệm về buôn lậu ở nước ta như sau: “Buôn lậu là hành vi buôn bán hàng hoá, tiền tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa Việt Nam hoặc ngược lại trái pháp luật”[42, tr.244].. Như vậy, theo khái niệm trên, buôn lậu có phạm trù rộng hơn rất nhiều so với tội buôn lậu. Tuy nhiên, giữa chúng có những thuộc tính, dấu hiệu chung giống nhau, được thể hiện bằng hành vi đặc trưng: “buôn bán trái phép hàng hoá, tiền tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa Việt Nam hoặc ngược lại”. Sự khác nhau giữa buôn lậu và tội phạm buôn lậu không phải là sự khác nhau về hành vi, mà là ở chỗ hậu quả gây ra cho xã hội của hành vi “buôn bán trái phép qua biên giới” như thế nào, có “đáng kể” hay không đáng kể theo quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam. 7 1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội buôn lậu Tội buôn lậu được quy định tại điều 188 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và thiết kế thành 06 khoản. Trong đó khoản từ 1 đến khoản 5 quy định về trách nhiệm hình sự đối với cá nhân, khoản 6 quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội. Từ quy định của Điều luật cho thấy phân tích theo các yêu tố cấu thành tội phạm buôn lậu bao gồm: - Khách thể của tội phạm Khách thể của tội buôn lậu là trật tự quản lý việc xuất, nhập khẩu hàng hoá, tiền tệ, kim khí đá quý, di vật, cổ vật, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, [42, tr.244]. Chính sách xuất, nhập khẩu của Nhà nước ta luôn thay đổi theo chính sách kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường, vì vậy việc xác định khách thể trực tiếp của tội buôn lậu có thể thay đổi tùy thuộc vào chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước. Đối tượng tác động của tội buôn lậu là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá và hàng cấm. Khi xác định đối tượng tác động, nếu cần phải trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định. - Mặt khách quan của tội phạm + Hành vi khách quan: Đặc trưng của hành vi khách quan tội buôn lậu đó là buôn bán trái pháp luật nhằm mục đích thu lợi [42, tr.245]. Việc buôn bán trái phép được thể hiện ở chỗ mua hoặc bán không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép xuất, nhập khẩu và các quy định khác của Nhà nước về hải quan (ví dụ: Giấy phép nhập khẩu là máy móc, thiết bị dùng cho sản xuất nông nghiệp nhưng thực tế lại mua bán máy móc sử dụng cho tiêu dùng như tủ lạnh, xe gắn máy, ti vi…) 8 Trường hợp kinh doanh xuất nhập khẩu đúng giấy phép nhưng khai không đúng số lượng (khai ít hơn số lượng thực nhập) hoặc nhập vượt quá mức mà giấy phép xuất, nhập khẩu cho phép thì cũng bị coi là buôn lậu nhưng chỉ truy cứu trách nhiệm đối với phần chưa khai hoặc xuất nhập khẩu vượt mức cho phép. Thủ đoạn của tội buôn lậu rất đa dạng. Có nhiều trường hợp người phạm tội móc nối với cơ quan Hải quan để nhập hàng không đúng với giấy phép. Một thủ đoạn buôn lậu thường gặp và cũng khó phát hiện, đó là việc nhập hàng hoá núp dưới hình thức tạm nhập, tái xuất. Nhưng khi hàng đã nhập về rồi thì không xuất mà tiêu thụ ngay trong nước. Có thể nói, những thủ đoạn buôn lậu mà người phạm tội thực hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội cũng như các chính sách của Nhà nước đối với việc xuất nhập khẩu. Ngoài hành vi khách quan, đối với tội buôn lậu, nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu băt buộc của cấu thành tội phạm như: Giá trị, số lượng hàng phạm pháp; địa điểm phạm tội. Nếu thiếu các dấu hiệu này thì không đủ căn cứ để xác định một hành vi buôn bán trái phép là phạm tội buôn lậu. + Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Thiệt hại trực tiếp do hành vi buôn lậu gây ra là Nhà nước không kiểm soát được hàng hoá xuất nhập khẩu, gây thất thoát thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Vì vậy, trong thực tiễn, các cơ quan điều tra và cơ quan tiến hành tố tụng không căn cứ vào hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra để định tội danh và quyết định hình phạt. Khi xác định hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra cần chú ý rằng, giá trị hàng hoá và số lượng hàng hoá quy định tại khoản 1 của điều luật như: “Hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 100.000.000 đồng 9 đến dưới 300.000.000 đồng không có nghĩa là đó là hậu quả của tội phạm, mà đó chỉ là giá trị của vật phạm pháp”[13, tr.137].. - Chủ thể thực hiện tội phạm Đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân: là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên [42, tr.247]. Đối với chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại thỏa mãn điều kiện chịu TNHS của pháp nhân thương mại theo quy định tại điều 75 BLHS: “hành vi phạm tội buôn lậu được thực hiện nhân danh pháp nhân, hành vi phạm tội buôn lậu được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân, hành vi phạm tội buôn lậu được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân”[42, tr.248]. - Mặt chủ quan của tội phạm Tội phạm thực hiện bằng hình thức lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhân thức được hành vi buôn lậu qua biên giới, qua khu vực phi thuế quan là nguy hiểm cho xã hội nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó. Động cơ phạm tội là động cơ tư lợi, nhưng động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm [42, tr.248]. - Hình phạt Tội buôn lậu có 4 khung hình phạt tương ứng với 04 khoản (từ khoản 1 đến khoản 4) + Khoản 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khoản 2: Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm; Khoản 3: Phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 7 năm đến 15 năm; Khoản 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Ngoài ra, điều 188 BLHS năm 2015 còn bổ sung thêm trường hợp phạm tội buôn lậu đối với pháp nhân thương mại, theo đó: “Phạt tiền từ 10 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng nếu thực hiện hành vi tại khoản 1; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt tiền từ 7.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn” [7, tr.42]. 1.1.3. Lý luận về tình hình tội phạm buôn lậu - Tình hình tội phạm là một khái niệm cơ bản của tội phạm học. Tình hình tội phạm buôn lậu là một trong những biểu hiện của tình hình tội phạm nói chung, vì vậy tình hình tội phạm buôn lậu cũng có đầy đủ các đặc điểm của tình hình tội phạm nói chung. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm buôn lậu cũng có những đặc điểm riêng của mình. Tình hình tội phạm buôn lậu là một khái niệm của tội phạm học dùng để chỉ tổng thể hành vi phạm tội quy định trong luật hình sự là tội buôn lậu xảy ra ở một không gian và thời gian nhất định. Xét từ một cách logic, tình hình tội phạm buôn lậu không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên, là tổng số các tội phạm về mặt số học mà là một tập hợp thống nhất biện chứng (hệ thống) các tội phạm cụ thể cấu thành hiện tượng đó. Mỗi tội phạm buôn lậu xảy ra trên thực tế là một mặt biểu hiện của tình hình tội phạm buôn lậu. Cho nên, tội phạm buôn lậu và tình hình tội phạm buôn lậu không bao giờ tách rời nhau về thời gian, không gian. Trong xã hội, khi tội phạm buôn lậu xảy ra thì đồng thời cũng xuất hiện tình hình tội phạm buôn lậu. Vì thế, khi nghiên cứu về tình hình tội phạm buôn lậu phải tiến hành từ những cái đơn nhất khác nhau tức là phải nghiên cứu hàng trăm, hàng 11 nghìn tội phạm khác nhau gây ra trong từng thời kỳ nhất định để từ đó làm sáng tỏ bản chất, các qui luật tồn tại và vận động của chúng. Như vậy, nhận thức về tình hình tội phạm buôn lậu với tư cách là một hiện tượng xã hội được biểu hiện thông qua các thông số định lượng và các thông số về chất của nó. Trong đó, các thông số về lượng bao gồm mức độ và diễn biến của tình hình tội phạm. Còn các thông số về chất của tình hình tội phạm chính là cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm. Thông số về lượng và thông số về chất có mối liên hệ, tác động qua lại tạo thành một thể thống nhất, biện chứng. Sự thay đổi của mỗi thông số cụ thể đều dẫn đến thay đổi tình hình tội phạm. Trong quá trình nghiên cứu tìm ra các qui luật nội tại của tình hình tội phạm buôn lậu để đấu tranh phòng, chống có kết quả không thể không sử dụng các số liệu thống kê hình sự. Trên thực tế, những số liệu thống kê này là một công cụ cần thiết, quan trọng để nhận thức và xem xét tình hình tội phạm buôn lậu. Trên thực tế chỉ có một phần tội phạm buôn lậu xảy ra được các cơ quan chức năng phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử và được đưa vào thống kê hình sự hay còn gọi là phần tội phạm rõ. Còn một phần tội phạm buôn lậu đáng kể khác xảy ra trên thực tế, nhưng do nhiều lý do khác nhau mà các cơ quan chức năng chưa phát hiện được, do đó chưa đưa vào thống kê hình sự - đó là phần tội phạm ẩn. Quan hệ giữa phần tội phạm ẩn và tội phạm rõ là quan hệ bù trừ trong một chỉnh thể, tức là khi phần tội phạm rõ lớn thì phần tội phạm ẩn nhỏ và ngược lại. Do vậy, cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu cần phải hướng vào việc loại trừ, phát hiện các tội phạm ẩn, coi đây là mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm 1.2. Tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2013- 2017 An Giang là một tỉnh thuộc khu vực khu vực miền Tây Nam Bộ với diện 12 tích tự nhiên 3.406,2 km2; phía Bắc giáp hai tỉnh Kandal và Takéo của Campuchia, phía Nam giáp thành phố Cần Thơ, phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang. Tỉnh An Giang có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 02 thành phố trực thuộc tỉnh (thành phố Long Xuyên và thành phố Châu Đốc), 01 thị xã (thị xã Tân Châu) và 08 huyện (An Phú, Phú Tân, Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn, Chợ Mới); có 156 đơn vị hành chính cấp xã (16 thị trấn, 21 phường và 119 xã). Dân số tỉnh An Giang có 2.297.600, đứng thứ 6 trong cả nước về quy mô dân số. Toàn tỉnh có 24.011 hộ dân tộc thiểu số, với 114.632 người, chiếm 5,17% tổng dân số toàn tỉnh, Trong đó có 92.137 người dân tộc Khơme; 15.449 người dân tộc Hoa, 12.774 người dân tộc Chăm. Hơn 80% dân cư sống ở vùng nông thôn, chủ yếu sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, nuôi thuỷ sản; bên cạnh đó, có một bộ phận dân cư hoạt động thương mại khá nhộn nhịp, tập trung tại các khu vực chợ biên giới giáp Campuchia và các vùng đô thị. Từ đặc điểm này có nhiều người không có công ăn việc làm, thu nhập thấp nên dễ đi vào con đường buôn lậu hoặc vận chuyển hàng hoá thuê cho các chủ hàng lậu. Với đặc thù An Giang là tỉnh có đường biên giới cả đường bộ và đường thủy dài, do đó địa bàn tỉnh không chỉ là nơi tiêu thụ mà còn là nơi tập trung chuyển hàng lậu, hàng giả, hàng cấm từ các khu vực biên giới Campuchia vào trong nội địa. Tình hình buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang có xu hướng diễn biến phức tạp. Hành vi buôn lậu thường gắn liền với vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới với thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Hình thức hoạt động luôn được thay đổi với tính chất, thủ đoạn ngày càng tinh vi, mức độ ngày càng nguy hiểm. Do đặc điểm địa hình đồng bằng nên hàng nhập lậu được vận chuyển rất thuận tiện từ Campuchia sang bằng nhiều đường và nhiều loại phương tiện 13 thủy, bộ kể cả đi bộ đai vác. Do nhu cầu tiêu thụ của thị trường nội địa cao nên hàng hóa tiếp tục thẩm lậu qua biên giới bằng đường bộ và đường sông, mùa khô cũng như mùa nước. Dọc tuyến biên giới phía Campuchia còn duy trì các điểm tập kết hàng và kho hàng ở sát biên giới, luôn sẵn sàng tìm mọi cách thẩm lậu qua biên giới đưa vào nội địa tiêu thụ, tập trung nhất là gò Tà Mâu - Campuchia đối diện với xã Vĩnh Ngươn - thị xã Châu Đốc. Trong mùa lũ kéo dài từ 3 - 4 tháng, hoạt động vận chuyển hàng nhập lậu bằng đường thủy càng thuận tiện hơn, gây rất nhiều khó khăn cho lực lượng chức năng trong việc tuần tra, kiểm soát phát hiện, ngăn chặn, bắt giữ các đối tượng buôn lậu hàng hóa, phương tiện buôn lậu. Thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, đa dạng và thường xuyên thay đổi để đối phó với các lực lượng chức năng. Phương thức chủ yếu là chia nhỏ hàng hóa, các loại linh kiện để vận chuyển bằng nhiều loại phương tiện như xe đạp, xe máy, ô tô khách, ô tô tải, ghe, tàu máy … kể cả đi bộ đai vác. Trên địa bàn tỉnh An Giang đã hình thành một số đường dây vận chuyển thuê hàng nhập lậu từ biên giới về nội địa, có tổ chức chặt chẽ, sử dụng điện thoại di động trao đổi thông tin, báo động. Có các nhóm chuyên canh đường thường xuyên theo dõi toàn bộ hoạt động của cán bộ ở trụ sở các đơn vị chức năng chống buôn lậu để dễ dàng hoạt động. Ngoài ra còn có các thủ đoạn khác như sử dụng hóa đơn hợp pháp xoay vòng để vận chuyển hàng nhập lậu; thay bao, đổi nhãn thành hàng nội địa để vận chuyển, mua bán hàng nhập lậu; cất giấu xen lẫn hàng hợp pháp, làm hầm bí mật trên các phương tiện như ô tô, ghe tàu… Một vài nhóm đối tượng sử dụng xe mô tô tốc độ cao công khai vận chuyển hàng nhập lậu trên các tuyến đường bộ, đặc biệt là quốc lộ 91 gây mất trật tự an toàn giao thông, tạo hình ảnh không tốt về tình hình an ninh trật tự ở địa phương. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan