TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
-----------o0o------------
CHU THỊ LAN ANH
TINH THẦN YÊU NƢỚC
TRONG NGỌC ĐƯỜNG THI VĂN TẬP
CỦA NGUYỄN XUÂN ÔN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên nghành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. AN THỊ THÚY
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hƣớng dẫn của giảng viên - ThS. An Thị Thúy
đã tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo
trong khoa Ngữ văn đặc biệt là các thầy cô trong tổ văn học Việt Nam Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong 4 năm
học nói chung và trong quá trình nghiên cứu khóa luận nói riêng.
Mặc dù có nhiều cố gắng song với trình độ và kiến thức còn hạn chế
của ngƣời viết, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong nhận đƣợc sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn sinh viên để bài
khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả khóa luận
Chu Thị Lan Anh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình học tập,
nghiên cứu của tôi cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Ngữ văn
trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự hƣớng dẫn tận tình của
giảng viên - Thạc sĩ An Thị Thúy
Trong quá trình làm khóa luận, tôi có tham khảo những tài liệu có liên
quan đã đƣợc hệ thống trong mục Tài liệu tham khảo. Khóa luận không có sự
trùng lặp với các công trình khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả khóa luận
Chu Thị Lan Anh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 7
1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội và tƣ tƣởng thời đại............................................ 7
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội ......................................................................... 7
1.1.2. Tƣ tƣởng thời đại..................................................................................... 9
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng .......................................................... 11
1.2.1. Cuộc đời ................................................................................................ 11
1.2.2. Sự nghiệp văn chƣơng........................................................................... 14
1.3. Vị trí của Nguyễn Xuân Ôn trong dòng văn học yêu nƣớc nửa cuối thế kỉ
XIX .................................................................................................................. 15
CHƢƠNG 2. NGỌC ĐƯỜNG THI VĂN TẬP - KHÚC CA THẤM ĐƢỢM
TINH THẦN YÊU NƢỚC ............................................................................. 19
2.1. Biểu hiện của tinh thần yêu nƣớc trong Ngọc Đường thi văn tập ........... 19
2.1.1. Ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với đất nƣớc ................................ 19
2.1.2. Nỗi căm giận với kẻ thù ........................................................................ 26
2.1.3. Ý chí và hành động quyết tâm cứu nƣớc .............................................. 39
2.1.4. Tình yêu thiên nhiên đất nƣớc............................................................... 43
2.2. Một số bút pháp nghệ thuật thể hiện cảm hứng yêu nƣớc trong
Ngọc Đường thi văn tập .................................................................................. 47
2.2.1. Bút pháp hiện thực ................................................................................ 48
2.2.2. Bút pháp châm biếm, trào phúng .......................................................... 50
2.2.3. Bút pháp trữ tình ................................................................................... 54
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử của đất nƣớc Việt Nam là lịch sử của bốn ngàn năm dựng
nƣớc và giữ nƣớc. Truyền thống dân tộc kiên cƣờng, bất khuất ấy đã làm nên
cuộc kháng chiến chống Pháp hào hùng mà cố thủ tƣớng Phạm Văn Đồng đã
nói “Một thời khổ nhục nhƣng vĩ đại”. Ngƣợc dòng thời gian trở về với những
biến cố lịch sử, chúng ta thấy khí thế quật cƣờng của cha ông vƣợt qua bao
khó khăn gian khổ từ buổi đầu chống Pháp đến khi toàn thắng. Triều đình
Huế lúc bấy giờ hèn nhát đã quỳ gối đầu hàng giặc. Nhân dân yêu nƣớc
không can tâm chịu mất nƣớc mà đứng lên khởi nghĩa. Phong trào diễn ra
mạnh nhƣ vũ bão, tuy chƣa đủ sức “nhấn chìm bọn bán nƣớc và cƣớp nƣớc”
(Hồ Chí Minh) nhƣng đó chính là tiếng súng báo hiệu một thời kì bão táp
cách mạng sẽ diễn ra sôi nổi
Trong cuộc đấu tranh ấy, không thể không kể đến các phong trào của
các sĩ phu yêu nƣớc. Nếu ở Nam Kì nổi bật vai trò lãnh đạo của Nguyễn Hữu
Huân, ở Bắc Kì là Nguyễn Quang Bích thì ở Trung Kì phong trào gắn liền với
tên tuổi của Nguyễn Xuân Ôn - một nhà nho, một văn thân chống Pháp tiêu
biểu nửa cuối thế kỉ XIX
Việt Nam là đất nƣớc của những anh hùng vừa làm thơ, vừa đánh giặc.
Do vậy, ngoài vai trò một lãnh tụ kháng chiến, Nguyễn Xuân Ôn còn là một
nhà thơ. Số lƣợng sáng tác tuy không nhiều nhƣng ông đã có đóng góp lớn
cho nên văn học dân tộc với tập thơ văn giàu giá trị đó là Ngọc Đường thi văn
tập. Tác phẩm là chân dung con ngƣời cá nhân Nguyễn Xuân Ôn - một nhà
nho yêu nƣớc nhiệt thành và một trái tim thi sĩ giàu rung cảm yêu thƣơng.
Khi tìm hiểu về Nguyễn Xuân Ôn, giới nghiên cứu lịch sử tập trung
vào các phƣơng diện: một nhà nho yêu nƣớc, một sĩ phu chống Pháp… Bên
cạnh đó, giới nghiên cứu còn khẳng định “An Tĩnh Hiệp thống quân vụ đại
1
thần” là một nghệ sĩ tài hoa. Phƣơng diện này, ông đã kí thác trong Ngọc
Đường thi văn tập
Nhữ Bá Sĩ đã từng nói “Ôi! Văn chƣơng là cái hiện trạng một thời làm
nên nó” và thơ ca còn là sự rung cảm kì diệu của tâm hồn ngƣời nghệ sĩ. Bởi
vậy, thơ ca chính là nơi gửi gắm tâm sự, nỗi lòng, cảm xúc của thi nhân.
Những nỗi niềm sâu kín, những băn khoăn trăn trở đều là nguyên nhân bên
trong khiến ngƣời nghệ sĩ tìm đến với thơ văn. Chúng ta từng cảm nhận đƣợc
nỗi buồn trong thơ Ức Trai, Nguyễn Du, Tú Xƣơng, Nguyễn Khuyến hay nỗi
niềm chua xót thân phận trong thơ Hồ Xuân Hƣơng… Theo đó, văn chƣơng
là mảnh đất màu mỡ nuôi dƣỡng tâm hồn ngƣời nghệ sĩ và phản ánh chân
dung tâm hồn của chính họ. Vì vậy tìm hiểu thơ văn Nguyễn Xuân Ôn chúng
ta sẽ thấy rõ hơn, đúng đắn hơn con ngƣời cũng nhƣ tấm lòng yêu nƣớc của
ông.
Hơn nữa, tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Xuân Ôn cũng giúp chúng ta
hiểu thêm về tâm trạng lớp nhà nho chống Pháp cuối thế kỉ XIX và sáng tác
của lớp sĩ phu cùng thời nhƣ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn
Quang Bích… Nghiên cứu đề tài “Tinh thần yêu nƣớc trong Ngọc Đường thi
văn tập của Nguyễn Xuân Ôn” góp phần tái hiện chân dung và tài năng nghệ
thuật của nhà thơ. Đó chính là lí do khiến chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề
tài này.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Xuân Ôn là một trong những tác giả tiêu biểu, một nhà thơ,
nhà văn, một trí thức Nho học có tên tuổi trong khuynh hƣớng văn học yêu
nƣớc chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX. Chúng tôi có thể điểm qua một số
cuốn sách và công trình nghiên cứu viết về ông nhƣ sau:
Đầu tiên phải kể đến công trình của Nhiều tác giả, “Giáo trình lịch sử
văn học Việt Nam”, (1965), đã có sự nghiên cứu kĩ lƣỡng về con ngƣời, nhân
2
cách Nguyễn Xuân Ôn để rồi đi tới khẳng định: “Nguyễn Xuân Ôn cũng
khăng khăng một “Lòng son giết giặc chết không phai” (Thuật hoài) và khi
tên khâm sứ tra gạn thì ném ngay vào mặt nó câu nói khí phách “Tôi muốn
giết chết hết cả lũ xâm lƣợc nhà ông” (tiểu sử Nguyễn Xuân Ôn)” [37;6].
Thứ hai, là Nguyễn Lộc trong “Giáo trình văn học Việt Nam (Nửa
cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX)”, (1976) ông nhận xét: “Nét quán xuyến
trong toàn bộ thơ văn Nguyễn Xuân Ôn là tinh thần yêu nƣớc thiết tha, là ý
chí bất khuất, không gì lay chuyển đƣợc. Từ những sáng tác đầu tiên của ông
trong thời gian trƣớc khi thi đậu và làm quan, những nhân tố của tƣ tƣởng tích
cực ấy đã biểu hiện rất rõ” [684;7].
Thứ ba, là Trần Quang Diệm, ngƣời đã bỏ ra rất nhiều công sức
nghiên cứu về cuộc đời cũng nhƣ con ngƣời của Nguyễn Xuân Ôn, trong Lời
bạt “Ngọc Đường thi văn tập” (1977) viết: “… Ngoài ra các bài bày trận lợi
hại trù tính sự nghi, thích yếu và cƣơng trực, có phong cách của các bài tâu
bàn của Lục Tuyên Công ngày xƣa. Đến nhƣ những ý niệm thƣơng đời ghét
tục, gõ mái chèo, thề dẹp giặc thi lƣu lệ trên giấy mực, không bài nào là
không có. Bởi vì khí phách cƣơng trực lớn lao, bẩm thụ tự ở trời sinh, vì thế
thốt ra lời nói, có thể làm khuôn phép cho đời sau, chẳng những xƣng hùng
trong thi đàn mà thôi… Ngàn năm sau ngƣời ta thƣởng thức văn chƣơng của
tiên sinh, còn nhƣ thấy tiên sinh…” [74;3].
Đây đƣợc coi là công trình nghiên cứu và tổng hợp lại đƣợc những
sáng tác của Nguyễn Xuân Ôn có giá trị vô cùng to lớn.
Thứ tƣ, ta không thể bỏ qua nhà nghiên cứu Đinh Xuân Lâm khi viết
“Lời giới thiệu thơ văn Nguyễn Xuân Ôn”, (1977) đã khái quát về giá trị to
lớn của các tập thơ văn, ông cho rằng: “Thơ văn Ngọc Đƣờng đến với chúng
ta ngày nay nhƣ một bài học lớn giàu tính thời sự về tinh thần yêu nƣớc chống
giặc ngoại xâm, chống thỏa hiệp đầu hàng, nhƣ một bài ca hùng tráng về
3
những tình cảm cao đẹp đã đƣợc hình thành và phát triển trong lịch sử dựng
nƣớc và giữ nƣớc oai hùng của dân tộc” [74;5].
Tiếp theo có thể kể đến tác giả Hà Minh Đức trong cuốn “Thơ ca hiện
đại Việt Nam”, (1998) ông khẳng định: “Nhà thơ yêu nƣớc Nguyễn Xuân Ôn
vừa là nhà thơ yêu nƣớc, vừa là ngƣời chiến sĩ với tấm lòng sắt đá kiên trung
một lòng giữ nƣớc diệt thù:
Vinh nhục thân này đâu dám kể
Lòng son giết giặc chết không phai
Có thể thấy đó là lời nhận xét vô cùng xác đáng về tài năng và nhân
cách Nguyễn Xuân Ôn. Khi đi sâu vào phân tích thơ văn Nguyễn Xuân Ôn ta
mới thấy hết điều đó.
Ngoài ra, các tác giả cuốn “Giáo trình tƣ tƣởng Hồ Chí Minh”, (2003)
đã viết: “Từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang kháng chiến
chống Pháp rầm rộ…Nguyễn Xuân Ôn mang tƣ tƣởng yêu nƣớc nhiệt thành
và chí căm thù giặc sục sôi” [23;2].
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã phần nào nhìn
nhận ở góc độ này hay góc độ khác con ngƣời Nguyễn Xuân Ôn và Ngọc
Đường thi văn tập của ông. Tuy nhiên các tác giả chƣa có sự nhìn nhận một
cách tổng thể hệ thống về con ngƣời và thơ văn Nguyễn Xuân Ôn. Điều đó
cũng là dễ hiểu, bởi đó là những công trình luận bàn về lịch sử của cả một giai
đoạn hoặc bàn về một khuynh hƣớng văn học.
Kế thừa những khám phá tìm tòi của những ngƣời đi trƣớc, coi đó là
định hƣớng quan trọng, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu về con ngƣời và giá trị thơ
văn Nguyễn Xuân Ôn”. Với tấm lòng yêu kính các bậc tiền nhân và yêu quý
thơ văn của họ, chúng tôi mạnh dạn đƣa ra những kiến giải của mình, hi vọng
góp đƣợc một tiếng nói nhằm hiểu sâu sắc hơn Nguyễn Xuân Ôn và sáng tác
thơ văn của ông.
4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, khóa luận hƣớng tới ba nhiệm vụ sau:
- Thấy đƣợc tƣ tƣởng yêu nƣớc trong thơ văn Nguyễn Xuân Ôn nói riêng
cũng nhƣ có cái nhìn toàn diện về thơ văn Nguyễn Xuân Ôn nói chung qua
Ngọc Đường thi văn tập
- Góp phần hiểu thêm về tầng lớp sĩ phu chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX và
thơ văn của họ
- Làm phong phú thêm vốn tri thức về thơ văn yêu nƣớc chống Pháp cuối thế
kỉ XIX và văn học chống ngoại xâm củadân tộc, góp phần tích cực cho giảng
dạy văn học sau này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Khóa luận tập trung vào tập Ngọc Đường thi văn tập của Nguyễn Xuân Ôn.
Chúng tôi sử dụng và trích dẫn thơ văn Nguyễn Xuân Ôn chủ yếu lấy từ cuốn
“Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn” do Đinh Xuân Lâm giới thiệu, Nxb. Văn học, Hà
Nội, (1977).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tinh thần yêu nƣớc trong Ngọc Đường thi văn tập của Nguyễn Xuân Ôn
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tìm hiểu vấn đề này chúng tôi sử dụng kết hợp một số phƣơng pháp
chính sau:
- Phƣơng pháp thống kê, phân loại
- Phƣơng pháp phân tích, so sánh
- Phƣơng pháp tổng hợp
6. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận đƣợc triển khai theo 2 chƣơng
Chƣơng 1. Những vấn đề chung
5
Chƣơng 2. Ngọc Đường thi văn tập - khúc ca thấm đƣợm tinh thần yêu nƣớc
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội và tƣ tƣởng thời đại
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
Dân tộc Việt Nam từ xƣa vốn đã có truyền thống lịch sử của bốn ngàn
năm dựng nƣớc và giữ nƣớc. Và khi nói về Việt Nam bạn bè quốc tế từng
đánh giá: “Việt Nam là một dân tộc làm thơ và đánh giặc. Tổ quốc Việt Nam
nhỏ bé nhƣng đã phải trải qua biết bao cuộc đấu tranh xâm lƣợc anh hùng mà
hào hùng. Chính những năm tháng lịch sử đầy biến động ấy ngƣời Việt Nam
càng trở nên đẹp hơn bao giờ hết”.
Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng
chấm dứt thời kì nghìn năm Bắc thuộc. Tiếp sau đó, cha ông ta đã đánh thắng
giặc phƣơng Bắc với những chiến công hiển hách. Đến giữa thế kỉ XIX chủ
nghĩa tƣ bản phƣơng Tây phát triển lên chủ nghĩa thực dân, mở rộng phạm vi
thuộc địa sang các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam cũng không
nằm ngoài sự kiện đó. Ngày 31/8/1858, thực dân Pháp chính thức nổ súng vào
cửa biển Đà Nẵng mở màn cho cuộc chiến tranh phi nghĩa và báo hiệu hàng
loạt những thay đổi lớn trong đời sống dân tộc. Cuộc kháng chiến chống Pháp
trở thành một sự kiện nổi bật trong lịch sử dân tộc.
Kế thừa những truyền thống yêu nƣớc bất khuất từ ngàn năm, con
ngƣời Việt Nam đứng lên đấu tranh với tƣ cách một ngƣời dân mất nƣớc
quyết chiến với kẻ thù để giữ gìn độc lập dân tộc. Trong khí thế đấu tranh sôi
nổi của nhân dân thì triều đình Huế phản động và mục nát đến tận xƣơng tủy.
Chúng hoàn toàn không dựa vào sức của nhân dân để chống giặc nên chỉ
kháng cự một cách yếu ớt rồi quay lại làm tay sai cho giặc. Vua tôi nhà
Nguyễn thỏa hiệp bán nƣớc cầu vinh. Chúng đẩy nhân dân vào cuộc sống
khốn khó, lầm than để đổi lấy hƣ danh.
7
Một lần nữa, nhân dân ta lại phải cầm gƣơm giáo đứng lên chống lũ
xâm lăng. Cuộc kháng chiến chống Pháp trong thời đại mới không những đấu
tranh chống thực dân cƣớp nƣớc mà còn chống cả triều đình phong kiến mục
ruỗng không còn đủ sức lãnh đạo và cầm quyền. Lúc này ngƣời dân chính
thức lại bƣớc lên vũ đài chính trị. Mặc dù vẫn “chƣa phải nhân dân nắm
quyền lãnh đạo tất cả các cuộc kháng Pháp nhƣng tiêu biểu cho tinh thần đấu
tranh chống giặc ngoại xâm hàng nghìn năm của dân tộc, tiêu biểu cho tinh
thần đấu tranh bền bỉ gan dạ, tinh thần anh dũng bất khuất, tinh thần chịu
thƣơng chịu khó của dân tộc thì đúng là nhân dân lao động Việt Nam”. Nếu
thời xa xƣa, tầng lớp ngƣời nông dân có Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, sau đó
có anh hùng áo vải Lê Lợi, Nguyễn Huệ sẵn sàng đứng lên đánh đuổi giặc
ngoại xâm thì đến hôm nay, trƣớc nguy cơ mất nƣớc họ đã đứng lên kháng
chiến kháng Pháp cùng những sĩ phu yêu nƣớc - bộ phận ƣu tú nhất của giai
cấp phong kiến trong quá trình phân hóa.
Ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp đánh vào Đà Nẵng, trong khi
triều đình còn đang lúng túng chƣa biết xử trí ra sao thì lòng dân đã sôi sục nhƣ
dầu trong chảo nóng, nhất là nhân dân Nam bộ. Bằng chứng là hàng loạt các
cuộc nổi dậy nổi lên nhƣ nấm mọc sau mƣa. Thực dân Pháp đánh ra ngoài Bắc
và miền Trung thì phong trào chống giặc ở Trung và Bắc cũng không kém gì
Nam bộ. Cả nƣớc hừng hực khí thế kháng Pháp. Từ Bắc chí Nam, các sĩ phu
yêu nƣớc lãnh đạo nhân dân đứng lên nổi dậy khởi nghĩa. Ngoài Bắc có đốc
học Phạm Văn Nghị chiêu mộ quân sĩ trợ chiến cho Quảng Nam, Sơn Tây có
phong trào của Lãnh Cồ, Lê Quán Chí, Bắc Ninh có phong trào của Dƣơng
Khải…Trong Nam ở Gia Định, Gò Công, Tân An có cuộc nổi dậy của Trƣơng
Định, Đồng Tháp Mƣời có Thiên Lộ Dƣơng, Bến Tre, Sa Đéc, Trà Vinh…
Phong trào chống thực dân Pháp sôi nổi rầm rộ khắp nƣớc khi kinh
thành Huế thất thủ. Vua Hàm Nghi ra sơn phòng xuống chiếu Cần Vƣơng.
8
Phong trào Cần Vƣơng nổ ra mạnh mẽ với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhƣ:
khởi nghĩa của Mai Xuân Thƣởng, Bùi Điền ở Bình Định; Trần Văn Dự,
Nguyễn Huy Hiệu ở Quảng Nam; Phan Đình Phùng, Lê Ninh ở Hà Tĩnh;
Phạm Bành, Đinh Công Tráng ở Thanh Hóa và ở Nghệ An có Lên Doãn Nhạ,
Nguyễn Xuân Ôn… Nhân dân ta chiến đấu anh dũng, quật cƣờng nhƣng thế
nƣớc không cứu vãn nổi khi thực dân Pháp thực hiện chiến dịch tằm ăn dâu.
Dù cuộc chiến tranh của nhân dân ta là chính nghĩa nhƣng do nhiều nguyên
nhân cuối cùng đều dẫn đến thất bại. Đặc biệt triều đình nhà Nguyễn lại liên
tục nhún nhƣờng khi kí với Pháp hàng loạt các hiệp ƣớc, thƣơng ƣớc xác lập
sự có mặt hợp pháp của chúng trên đất nƣớc ta. Tiêu biểu phải kể đến hai hiệp
ƣớc năm 1883 và 1884 chính thức công nhận nền đô hộ của Pháp trên toàn cõi
Việt Nam. Sau đó, thực dân Pháp tiến hành củng cố bộ máy chính quyền, tiến
hành chƣơng trình khai thác thuộc địa. Hệ quả tất yếu là một xã hội thực dân
nửa phong kiến hình thành thay thế cho hình thái xã hội phong kiến.
1.1.2. Tư tưởng thời đại
Giai đoạn cuối thế kỉ XIX là giai đoạn lịch sử đất nƣớc Việt Nam có
những biến đổi hết sức to lớn. Thực dân Pháp xâm lƣợc, biến nƣớc ta thành
một nƣớc xã hội thực dân nửa phong kiến nửa thuộc địa. Chế độ phong kiến
Việt Nam cùng với hệ tƣ tƣởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trƣớc yêu
cầu của công cuộc chống giặc ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc
Lúc này, ở Việt Nam diễn ra sự va chạm giữa hai nền văn minh Á - Âu,
giữa văn hóa Nho giáo và văn hóa Kitô giáo, giữa tƣ tƣởng Nho giáo với các
triết thuyết và khoa học phƣơng Tây. Trƣớc sự va chạm đó, đời sống tƣ tƣởng
của Việt Nam nhiều đặc trƣng riêng so với tƣ tƣởng của các giai đoạn trƣớc đó,
đồng thời nó tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam.
Triều đại nhà Nguyễn lên ngôi đã đƣa Nho giáo lên vị trí là hệ tƣ tƣởng
thống trị độc tôn trong đời sống tinh thần dân tộc. Triều Nguyễn đã xác lập
9
nền tảng tƣ tƣởng quan trọng nhất cho triều đại mình. Cùng với sự triển khai,
củng cố hệ tƣ tƣởng Nho giáo và mọi thiết chế chính trị, xã hội, các giá trị
Nho học đƣợc củng cố trở lại thành rƣờng cột đạo đức xã hội và đời sống xã
hội đƣợc sắp đặt theo trật tự Nho giáo ngày càng vững chắc.
Nho giáo đƣợc củng cố mạnh mẽ trong xã hội, Phật giáo, Đạo giáo
ngày càng suy giảm và đi vào đời sống dân chúng trên phƣơng diện tôn giáo.
Điều đó khiến cho đời sống tƣ tƣởng chính thống có phần nghèo nàn hơn so
với thế kỉ trƣớc. Và đến cuối thế kỉ XIX, cuộc xâm chiếm bành trƣớng của
thực dân Pháp vào Việt Nam đã khiến cho bức tƣờng thành ý thức hệ Nho
giáo bị lung lay tận gốc rễ. Nho giáo tỏ ra bất lực trong vai trò là đƣờng lối
dẫn dắt dân tộc bảo vệ đất nƣớc trƣớc một kẻ thù hoàn toàn mới về ý thức hệ
và nền văn hóa
Do tác động của bối cảnh lịch sử, những vấn đề đƣợc đặt ra là vấn đề
về chính trị tôn giáo với xã hội mới, giữa đƣờng lối bảo thủ với canh tân…
Đặc biệt, cuối thế kỉ XIX, hệ tƣ tƣởng Nho học suy vi cực độ. Biểu
hiện qua những chủ trƣơng chính sách phản động của triều đình nhà Nguyễn
mục nát không thể cứu vãn nổi. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ hệ tƣ
tƣởng Nho giáo chính thống có sự rạn nứt nghiêm trọng. Một bên là tƣ tƣởng
đầu hàng, một bên là tƣ tƣởng chiến đấu giữ nƣớc. Phong kiến Việt Nam đã
yếu đuối lại không dám dựa vào sức dân nên đã thất bại thảm hại. Khuynh
hƣớng tích cực cũng lại chƣa thoát khỏi hệ tƣ tƣởng phong kiến nên cuối cùng
cũng thất bại.
Nhƣ vậy, rõ ràng biến cố lịch sử trong nửa cuối thế kỉ XIX đã làm phân
hóa hệ tƣ tƣởng phong kiến Việt Nam. Điều này đã tác động không nhỏ đến
quan điểm sáng tác cũng nhƣ nội dung phản ánh trong các tác phẩm văn học
nghệ thuật. Và Nguyễn Xuân Ôn tất nhiên cũng không tránh khỏi những ảnh
hƣởng của tƣ tƣởng thời đại ấy.
10
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng
1.2.1. Cuộc đời
Nguyễn Xuân Ôn sinh ngày 23 tháng 3 năm Ất Dậu (10 tháng 5 năm
1825) tại làng Quần Phƣơng, xã Lƣơng Điền, tổng Thái Xá, huyện Đông
Thành, (nay thuộc xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An)
Từ nhỏ, vốn thông minh, ham học, ngay từ hồi còn thanh niên ông đã
nổi tiếng hay chữ, học rộng nhớ nhiều, nhƣng vì ông sinh ra trong một gia
đình nhà Nho nghèo, cha là học trò không đỗ đạt gì, mẹ mất sớm, phải đến ở
với bà nội, mãi đến khi tuổi đã lớn mới có điều kiện đi học. Năm Giáp Thìn
(1844), ông đỗ tú tài lúc 18 tuổi, nhƣng rồi lận đận mãi đến năm 42 tuổi, ông
mới đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão (1867), và bốn năm sau ông mới đỗ Tiến sĩ
khoa Tân Mùi (1871) cùng khoa với Nguyễn Khuyến và Phó bảng Lê Doãn
Nhã, ngƣời bạn đồng hƣơng sau này cộng tác đắc lực với ông trong cuộc khởi
nghĩa. Cuộc đời Nguyễn Xuân Ôn có thể chia làm 3 giai đoạn :
Thứ nhất, đó là giai đoạn ra làm quan cho nhà Nguyễn. Bƣớc chân vào
quan lộ lúc tuổi đã luống, những tƣởng đƣờng mây từ nay rộng mở, ông hăm
hở có dịp đƣợc đem những điều sở đắc của mình ra giúp nƣớc cứu dân trong
cơn nƣớc nhà đang nguy ngập trƣớc sức tấn công ngày càng hung bạo của chủ
nghĩa đế quốc Pháp. Nhƣng ngay từ đầu ông đã thất vọng. Với bản tính cƣơng
trực không chịu cúi mình chiều chuộng bọn quan trên, ông bị chúng bắt kéo
dài thời gian tập sự ba năm tại kinh đô Huế (nay là thành phố Huế) rồi mới
đƣợc bổ đi làm tri phủ Quảng Ninh - tỉnh Quảng Bình (nay là huyện Quảng
Ninh, tỉnh Bình - Trị - Thiên), ở đấy, biết có lệ bắt dân phải nạp gạo củi hàng
tháng, ông liền gửi sớ về kinh hạch tội khiến các viên quan cai trị địa phƣơng
phải vội vàng bỏ lệ đó và xin ông thôi gửi sớ về triều. Sau đó, một lần vì bắt
tội một giáo sĩ ngƣời Pháp (ông này dùng lọng vàng, màu chỉ dành riêng cho
vua, trong lúc đi giảng đạo, ông bị vua Tự Đức khi ấy đang có chủ trƣơng hòa
11
nghị với thực dân Pháp nên đã đổi ông vào làm đốc học tỉnh Bình Định (nay
thuộc tỉnh Nghĩa Bình). Ở Bình Định một thời gian, ông vào Huế giữ chức
ngự sử. Chứng kiến cảnh bọn quan lại bất tài ở kinh, chỉ lo chuyện tham
nhũng, lo tranh giành quyền vị vào lúc vận mệnh Tổ quốc đang nhƣ “trứng để
đầu đẳng”, thực dân Pháp sau khi đã nuốt trôi sáu tỉnh Nam Kì đang ráo riết
xúc tiến âm mƣu đánh chiếm miền Bắc nƣớc ta, ông lại lên tiếng kịch liệt phê
phán, chỉ trích khiến bọn chúng đem lòng thù ghét, cuối cùng chúng đã tìm
cách đẩy ông vào làm án sát ở tỉnh Bình Thuận (nay thuộc tỉnh Thuận Hải) cực
nam Trung kì hồi đó là nơi tiếp giáp với đất Nam kì, khi ấy đã bị thực dân Pháp
chiếm đóng nên có nhiều khó khăn trong việc giao thiệp với bọn thực dân Pháp
đang ngày đêm cố tình khiêu khích kiếm chuyện. Vào đến đây, sau khi điều tra
nắm rõ tình hình, Nguyễn Xuân Ôn đã nhiều lần báo cáo về triều đình âm mƣu
của Pháp và liên tục vạch mặt lên án chúng. Nhƣng đƣờng lối của triều đình lúc
bấy giờ với Pháp chủ yếu là thƣơng thuyết cầu hòa nên để tránh chuyện lôi thôi
xảy ra, triều đình vội điều ông ra Quảng Bình. Năm Kỷ Mão (1879), Nguyễn
Xuân Ôn lại gửi tấu sớ về kinh trình bày mọi điều lợi hại bấy giờ (nhấn mạnh
việc nên chọn những ngƣời có dũng lƣợc để làm rƣờng cột). Năm Nhâm Ngọ,
Tự Đức thứ 35 (1882), ông lại gửi tấu sớ xin đƣợc đi kinh kí miền thƣợng du,
để chọn nơi lập đồn điền và sơn phòng. Năm 1882, nghe tin thành Hà Nội thất
thủ lần thứ 2, khi này Nguyễn Xuân Ôn đã đổi về làm Án sát Quảng Bình, liền
bài tâu xin đƣợc về quê để tập hợp tráng đinh chống Pháp và động viên tinh
thần của nhân dân… Nhìn chung, đa phần các tấu sớ của ông đều phản đối chủ
trƣơng hòa nghị và trình bày những phƣơng cách nhƣ: lựa chọn ngƣời hiền tài
giao phó việc chấn chỉnh võ bị, lập đồn điền và sơn phòng, khuyến khích việc
cày cấy, bớt tiêu dùng sa sỉ… Buồn vì các tấu sớ của mình bị triều đình làm
ngơ, bản thân lại bị cách chức (1883) nên khi về đến quê nhà, Nguyễn Xuân
Ôn liền tự mình tổ chức việc kháng Pháp.
12
Thứ hai, giai đoạn về quê kháng Pháp. Tháng Năm năm Ất Dậu (Đêm
4, sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885), kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi
xuất bôn rồi hạ dụ Cần Vƣơng, ông đƣợc phụ chính Tôn Thất Thuyết (thay
mặt vua) cử làm An Tĩnh hiệp thống quân vụ đại thần có nhiệm vụ thống lĩnh
nghĩa quân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh giúp vua cứu nƣớc. Ông cùng Nguyễn
Nguyên Thành, Lê Doãn Nhạ, Đinh Nhật Tân lập chiến khu ở xã Đông Thành
thuộc huyện Yên Thành (Nghệ An). Ở vùng núi đó, Nguyễn Xuân Ôn chọn
một thung lũng làm nơi xây dựng Đại đồn Đồng Thông. Đại đồn rộng khoảng
30 ha chung quanh có núi non bao bọc. Từ đây có thể đi ngƣợc lên phía Tây
vào sâu đến núi Trọc cao gần 500m, hoặc có thể vƣợt qua dốc Lội đi về phía
Tây Bắc vào vùng Động Đình, Nhà Đũa, nơi mà chủ soái Lê Lợi và tƣớng
Đinh Lễ ém quân vào cuối năm 1424 để tám tháng sau kéo về xuôi đánh
thắng Thành Trài và bị quân Minh chiếm đóng vào tháng 6 năm 1425, giải
phóng Nghệ An. Buổi đầu khởi nghĩa, nghĩa quân lên đến khoảng hai ngàn
ngƣời, hầu hết là nông dân trai tráng, có nhiều ngƣời chỉ huy quân giỏi nhƣ
Đề Kiều, Đề Mậu, Đề Nhục, Lãnh Tƣ, Đốc Nhạn… Ở đây, nghĩa quân ngày
đêm luyện tập võ nghệ, rèn vũ khí và sản xuất lƣơng thực. Kể từ đó, căn cứ
Đông Thông đã góp phần không nhỏ trong công cuộc chống Pháp lúc bấy giờ.
Trong chiến đấu, Nguyễn Xuân Ôn mặc dù tuổi cao sức yếu song ông vẫn nêu
cao gƣơng dũng cảm, luôn luôn xung phong đi trƣớc làm cho khí thế nghĩa
quân vô cùng phấn chấn. Ông đã nhiều lần bị thƣơng nặng nhƣng vẫn giữ
vững quyết tâm chiến đấu đến cùng. Kết hợp vào đó, ông lại nhiều lần cƣơng
quyết cự tuyệt sự dụ dỗ mua chuộc của Pháp và tay sai. Những việc đó khiến
ngƣời đƣơng thời rất cảm mến ông, uy tín của ông trong văn thân sĩ phu cũng
nhƣ trong nhân dân ngày càng lớn. Cũng chính bởi lí do ấy mà thực dân Pháp
đã đày ông đi thật xa, hoàn toàn cách li với những bạn chiến đấu cũ, hoàn
toàn cách biệt ra khỏi môi trƣờng hoạt động cách mạng. Nhƣng không lâu sau
ngày 20 tháng 5 năm Mậu Tí (1888) ông bị bắt giải về kinh thành Huế.
13
Giai đoạn thứ ba, là thời gian ông bị bắt giam và mất. Sau khi Nguyễn
Xuân Ôn bị bắt giam, giặc Pháp và tay sai đẩy mạnh khủng bố, quê hƣơng
ông bị đốt phá tan tành, gia đình ông tan nát, mỗi ngƣời chốn chánh một nơi.
Ngày 2 tháng 4 năm Đinh Hợi (25 tháng 7 năm 1887), nhờ chỉ điểm, quân
Pháp bất ngờ tập kích Đồng Nhân (nay là thôn Đông Đức, xã Mã Thành,
huyện Yên Thành) nơi ông đang nằm dƣỡng thƣơng sau trận Xóm Hổ. Bị đột
kích bất ngờ, không kịp tự sát, ông bị đối phƣơng bắt đƣợc rồi lần lƣợt trải
qua các nhà lao ở Diễn Châu (Nghệ An), Vinh, Hải Dƣơng, Huế. Dù đã bắt
đƣợc ông, các chỉ huy Pháp vẫn xua quân đi bắt bớ các nghĩa quân nhằm dập
tắt cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo. Trong thời gian bị cầm cố khổ sở, năm
Mậu Tí (1888) thời vua Đồng Khánh, ông có gửi Lời Trình về Bộ kêu oan về
việc ông tuân theo dụ Cần Vƣơng của vua Hàm Nghi, mà bị kết án là đã tham
gia “đảng ngụy”, đồng thời gửi thƣ cho các bạn đồng liêu của ông ở kinh nhờ
có lời bênh vực cho mình. Tuy vậy, đến khi vua Thành Thái lên thay (1889),
Nguyễn Xuân Ôn mới đƣợc ân xá nhƣng không cho về quê vì sợ ông lại tổ
chức kháng Pháp. Bị quản thúc ở Huế, chẳng bao lâu sau năm 1889 ông lâm
bệnh nặng rồi mất, thọ 64 tuổi.
1.2.2. Sự nghiệp văn chương
Sáng tác trong suốt thời gian dài từ khi còn là một anh học trò nghèo,
trải qua một thời gian làm quan đầy biến cố, tiếp theo là một thời kì oanh liệt
giƣơng cao cờ chống Pháp và cuối cùng là tới những ngày thất bại bị giam giữ
trong nhà tù của đế quốc phong kiến và tay sai. Sự nghiệp thơ văn của ông để
lại cho chúng ta ngày bao gồm các sáng tác bằng chữ Hán:
- Ngọc Đƣờng thi tập, gồm 311 bài thơ.
- Ngọc Đƣờng văn tập, gồm 22 bài văn xuôi cùng một số câu đối.
Ngoài ra còn có một số ít bài thơ Nôm không có trong hai tập trên,
nhƣng từ trƣớc đến nay vẫn đƣợc nhân dân yêu thích truyền tụng
14
Thơ Nguyễn Xuân Ôn, lúc ông còn đèn sách thƣờng thể hiện ý chí,
hoài bão của một ngƣời đầy tráng khí muốn đƣợc giúp nƣớc, cứu đời. Tiêu
biểu là bài Bột hứng (Cảm hứng bột phát), Trung dạ khởi tư (Nửa đêm nảy ra
ý nghĩ),Tiểu hữu nhân (Trách bạn), Độc Trang Chu dưỡng sinh thiên cảm
hoài (Cảm hoài khi đọc Thiên Dưỡng sinh của Trang Tử)…
Đến khi ra làm quan, dù là chức quan nhỏ, ông vẫn “nguyện giá
trƣờng phong phá hải đào” (nguyện cƣỡi gió lớn phá tam sóng biển). Tiêu
biểu là bài: Đắc chỉ bổ Quảng Ninh tri phủ, hậu bản độ đường quan hồi tác
(Làm lúc đượcchỉ vua bố cức Tri Phủ Quảng Ninh), Thuật hoài (Thuật ý
nghĩ của mình)…
Gặp buổi thực dân Pháp xâm lƣợc, ông dùng ngòi bút của mình để
châm biếm, đả kích những tiêu cựu, nói lên nỗi phẫn uất của mình vì đất nƣớc
cứ mất dần vào tay ngoại bang, ca ngợi khí phách dũng cảm và hi sinh của
quân dân, khẳng định chỗ yếu mạnh của cả hai bên, tỏ rõ một tinh thần quyết
đánh và tin tƣởng vào chiến thắng. Tiêu biểu là bài: Nhân duyệt quán đoàn
dũng ở xã Mỹ Lộc, giản Bang biện cử nhân Võ Bá Liêm, Trường An hoài cổ
(Nhớ cảnh cũ Trường An), Cảm thuật (Cảm khái thuật ra)…
Nhìn chung, thơ văn ông thƣờng theo sát những vấn đề thời sự, chính
trị, biểu hiện rõ tình cảm, ý chí của ông. Đó là tiếng nói chân thành, là tấm
lòng thiết tha của một con ngƣời yêu nƣớc, suốt đời gắn bó với vận mệnh Tổ
quốc và độc lập của dân tộc. Về mặt nghệ thuật, thơ văn ông đều mộc mạc,
chân chất không chạm trổ hay đẽo gọt mĩ miều.
1.3. Vị trí của Nguyễn Xuân Ôn trong dòng văn học yêu nƣớc nửa cuối
thế kỉ XIX
Nhân dân ta nói chung và nhân dân Nam Bộ nói riêng luôn có truyền
thống yêu nƣớc, đƣợc tôi luyện qua nhiều cuộc chiến đấu chống giặc ngoại
xâm suốt hàng nghìn năm lịch sử nên rất nhạy bén về cảm quan yêu nƣớc,
15
- Xem thêm -