Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương ...

Tài liệu Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố biên hòa, tỉnh đồng nai

.PDF
85
65
143

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG XUÂN LỘC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG XUÂN LỘC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC HÀ HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai" là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực đã được công bố trước đây. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Đặng Xuân Lộc MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ................................... 8 1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ................................................................................................................... 8 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .................................................................................................................................................... 8 1.1.2. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .................................................................................................................. 23 1.2. Quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .............................................................. 25 1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .............................................................. 25 1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố đối trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. ..................................................................................... 31 1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với hoạt động kiểm sát điều tra vụ án vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ....................................................................... Error! Bookmark not defined. Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI ............................... 43 2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ....................................................................................................... 43 2.1.1. Tình hình tội phạm ............................................................................................. 43 2.1.2. Cơ cấu tố chức của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai..................................................................................................................... 44 2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ................................................................ 46 2.2.1. Những kết quả đạt được .................................................................................... 46 2.2.2.Tồn tại, hạn chế ..................................................................................................... 51 2.2.3.Nguyên nhân ........................................................................................................... 53 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI .............................................................................. 58 3.1. Phương hướng chung ............................................................................... 58 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. ................................................................................................................ 61 3.2.1. Giải pháp nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ........................................... 61 3.2.2. Giải pháp tăng cường công tác hướng dẫn luật ..................................... 63 3.2.3. Một số giải pháp khác........................................................................................ 66 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự KSV Kiểm sát viên THQCT Thực hành quyền công tố VKSND Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Tổng số vụ án hình sự đã khởi tố trên địa bàn Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 -2018 Bảng 2.2: Tổng số bị can đã bị khởi tố hình sự trên địa bàn Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018 Bảng 2.3. Tổng số vụ án và bị can bị khởi tố của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Trên địa bàn Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là trung tâm công nghiệp trọng điểm của cả nước và là đầu mối giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Với đặc điểm địa lý, kinh tế, tôn giáo và dân số đa dạng nên Biên Hòa luôn là điểm nóng về tội phạm, mà nổi cộm nhất là loại tội phạm xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Việc xử lý loại tội phạm này nhằm ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương là vấn đề cấp bách luôn được cấp ủy và chính quyền thành phố quan tâm. Các cơ quan tố tụng thành phố Biên Hòa đã có nhiều biện pháp đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này nhưng những vụ việc xâm hại đến sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố vẫn có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất nguy hiểm. Trong khi, các văn bản áp dụng pháp luật chưa được cụ thể, rõ ràng và đầy đủ dẫn đến còn nhiều bất cập trong việc điều tra, xử lý các hành vi vi phạm đôi lúc chưa nghiêm, nhiều vụ việc lẽ ra người có hành vi vi phạm phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng chỉ bị xử phạt hành chính hoặc tuy có bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng lại được áp dụng hình phạt quá nhẹ, nên không có tác dụng giáo dục và phòng ngừa. Các quy định pháp luật về xử lý đối với loại hành vi xâm hại sức khỏe chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn về tình hình phát triển kinh tế-xã hội. Hoạt động THQCT của VKSND đối với nhóm tội phạm này hiện còn bộc lộ những tồn tại nhất định như: chưa đề ra yêu cầu xác minh, yêu cầu điều tra kịp thời; việc đánh giá chứng cứ còn phiến diện dân đến chưa xác định đúng tội danh, khung hình phạt; chưa phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra trong quá trình điều tra giải quyết vụ án dẫn đến nhiều vụ việc phải từ chối phê chuẩn hoặc phê chuẩn chậm, để thời hạn điều tra vụ án bị kéo dài quá hạn, có vụ việc điều tra không kịp thời dẫn đến bỏ lọt tội phạm. 1 Để có những nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn, đánh giá thực trạng và tìm ra giải pháp khắc phục những khó khăn, tồn tại, vướng mắc để công tác THQCT đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành phố Biên Hòa ngày càng tốt hơn, đảm bảo việc khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; Không để xảy ra tình trạng bắt, tạm giữ, tạm giam trái pháp luật, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của công dân; luôn đảm bảo việc điều tra khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, tác giả quyết định chọn đề tài "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai" làm luận văn tốt nghiệp cao học luật chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian nghiên cứu đề tại này, tác giả đã tiếp cận, tham khảo được một số bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà tác giả khác trên các tạp chí, diễn đàn khoa học về quyền công tố như: "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực VKSND tối cao; "Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" của Lê Hữu Thể; "Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội" của Trần Mai Lâm; "Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án giết người" của VKSND tối cao; “Về thực hiện quyền công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, thực tiễn và kiến nghị” của Vũ Mộc; “Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố” của Lê Cảm;; Các luận văn thạc sĩ như: "Thực hành quyền công tố đối với cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật tố 2 tụng hình sự Việt Nam từ thực tiển huyện Phổ Đức, tỉnh Quang Ngãi" của tác giả Lý Tường Vy (năm 2015) ; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Nguyễn Quốc Hân (2015);. … những luận văn này đã nghiên cứu sâu về mặt lý luận về chức năng THQCT của VKSND và đã đưa ra một số giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, sau thời điểm BLTTHSnăm 2015 và BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực, đã có nhiều quy định mới về THQCT, về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” quy định tại Điều 134 BLHS. Từ đó, đòi hỏi những người thi hành nhiệm vụ trong các cơ quan tố tụng cần nhanh chóng có những đề xuất các giải pháp cụ thể về thực hành quyền công tố đối với tội danh này. Vì vậy, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai" nhằm đưa ra các phương pháp mới khi thực hiện nhiệm vụ THQCT trong ngành kiểm sát. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu, phân tích, đánh giá làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác THQCT trong gia đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo quy định của Luật TTHS Việt Nam; đánh giá ưu khuyết điểm, các hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong các quy định của pháp luật, của người tiến hành tố tụng. - Đưa ra những giải pháp hoàn thiện, khắc phục, sửa chữa góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của VKSND thành phố Biên Hòa và trong toàn ngành kiểm sát nói chung. 3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: Một là, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của đề tài như khái niệm, phân tích những dấu hiệu pháp lý hình sự của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; khái niệm THQCT và đặc trưng của công tác THQCT đối với các tội danh này. Hai là, phân tích luật thực định về THQCT, đánh giá thực tiễn công tác THQCT trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại VKSND thành phố Biên Hòa. Từ đó nhận xét chính xác hạn chế của luật hiện hành, các vướng mắc trong thực tiễn THQCT của ngành kiểm sát nói chung và của VKSND thành phố Biên Hòa nói riêng. Ba là, xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm đảm bảo THQCT trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành phố Biên Hòa 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật hình sự, quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về THQCT đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trên phương diện lý luận và thực tiễn THQCT của VKSND thành phố Biên Hòa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác THQCT của VKSND trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên phương diện lý luận dưới góc độ tố 4 tụng hình sự và hình sự, thực tiễn áp dụng. - Về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2018. - Về địa bàn: Thành phố Biên hòa, tỉnh Đồng Nai. - Về chủ thể: VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp, Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020; các luận điểm chung của khoa học pháp lý tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự. Phương pháp nghiên cứu tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích và tổng hợp: Từ nguồn tài liệu liên quan đến đề tài luận văn, tác giả sẽ tổng hợp rút ra những vấn đề lý luận và quy định chung của pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Nghiên cứu, phân tích các văn bản pháp luật có liên quan, đánh giá số liệu thống kê, qua đó giúp tác giả nắm được các khía cạnh của vấn đề cần nghiên cứu nhằm đưa ra nhận xét, đề xuất về những vấn đề cơ bản của luận văn. - Phương pháp so sánh: Qua tổng hợp, phân tích các quy định trước đây, những vần đề hiện nay của pháp luật Tố tụng hình sự nước ta về thực hành quyền công tố, tác giả xác định những điểm giống, khác nhau trong các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật với cách nhìn nhận, đánh giá theo từng thời điểm lịch sử cụ thể. 5 - Phương pháp tiếp cận hệ thống và thống kê: Dựa trên những thông tin thu thập được về vấn đề nghiên cứu, thực tiễn công tác THQCT tại VKSND thành phố Biên Hòa, tác giả sẽ hệ thống hóa theo một cấu trúc logic, khoa học, qua đó tác giả có được nhận thức một cách biện chứng, tổng thể và khái quát nhất về tình hình, đặc điểm của loại án này trong những năm gần đây để minh chứng cho các luận điểm, kết luận đã nêu ra trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa về lý luận cũng như thực tiễn. - Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ những lý luận về THQCT trong gia đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như khái niệm, các đặc trung pháp lý của tội này, cũng như chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập của ngành kiểm sát. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho kiểm tra viên, kiểm sát viên các cấp nghiên cứu, vận dụng trong thực tiễn công tác để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác này. Đồng thời, có thể giúp các nhà quản lý, lãnh đạo ngành kiểm sát định hướng trong công tác quản lý, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trong xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật, quy chế nghiệp vụ có liên quan đến hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định chung của pháp luật về 6 thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả khởi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bản thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC 1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1.1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Thực hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của VKSND (Điều 138) và mới nhất là Hiến pháp năm 2013 (Điều 107). Hiện chưa có tài liệu, văn bản chính thức nào ghi nhận rõ ràng, cụ thể khái niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố và THQCT. Đó cũng chính là lý do dẫn đến sự thiếu thống nhất về nhận thức trong hoạt động THQCT. Do vậy phải làm rõ thế nào là “quyền công tố” thì mới làm rõ được thế nào là THQCT. Công tố là t từ ghép Hán - Việt được hình thành từ hai từ “công” và “tố”. Theo từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 1994 tại các trang 200, 204, 973 thì: "tố" có nghĩa là "nói công khai cho mọi người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người phạm tội khác", còn "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước chung cho mọi người, khác với tư"; "Công tố" là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước tòa án". Như vậy "công tố" theo từ điển Tiếng Việt là một khái niệm bao gồm: điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp, phát biểu ý kiến trước tòa án. Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì quyền công tố là: Quyền 8 của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cơ quan công tố, xét xử, điều tra) dùng để điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án hay là quyền truy tố, buộc tội cá nhân, tổ chức trước pháp luật. Trong tiếng Anh, công tố (prosecute) có nghĩa là thẩm quyền về mặt nhà nước đại diện cho quyền lực công thực hiện một số quyền năng pháp lý để bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân. Như vậy, công tố là một trong những hình thức cáo buộc của nhà nước đối với người hoặc pháp nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Trong công tố, nhà nước là bên thực hiện sự cáo buộc và bên bị cáo buộc không chỉ là con người mà còn có thể là pháp nhân và cáo buộc của nhà nước được thể hiện trong nhiều lĩnh vực mà hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm phạm tới. Công tố, vì vậy, theo tác giả cần được hiểu là sự cáo buộc của nhà nước đối với người hoặc pháp nhân đã có hành vi vi phạm pháp luật trước tòa án. Việc xác định quyền công tố và theo đó là THQCT có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Quyền công tố là quyền của nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra cơ quan xét xử. Khái niệm công tố hoàn toàn đối lập với khái niệm tư tố (tự mình nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để cáo giác, khởi kiện ra tòa). Sự ra đời của chế định tư tố trong pháp luật xuất phát từ quan niệm cho rằng, việc bảo vệ lợi ích cá nhân bị người khác xâm phạm là việc riêng tư của mỗi người, nhà nước không cần thiết và không có trách nhiệm phải can thiệp. Hiện nay, phạm vi và chủ thể thực hiện quyền công tố vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nổi bật là các quan điểm sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật được thực hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự đều là THQCT. Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện các chức năng do BLTTHS quy định để kiểm sát việc điều tra tội phạm, để 9 truy tố, buộc tội người phạm tội trước tòa án nhằm đạt được mục đích xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, góp phần bảo đảm quyền tự do dân chủ của con người, bảo vệ các lợi ích của xã hội, của nhà nước. Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố là quyền chỉ tồn tại duy nhất trong tố tụng hình sự. Từ đó, họ đưa ra khái niệm về quyền công tố là: Quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; quyền này được giao cho VKS. VKS có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước tòa án và bảo vệ buộc tội đó trước phiên tòa. Quan điểm thứ ba và cũng là quan điểm phổ biến được đưa vào giáo trình giảng dạy trong ngành kiểm sát nhân dân. Quan điểm này cho rằng: Quyền công tố được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự. Sau đó, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự và các lĩnh vực tư pháp khác. Theo họ, quyền công tố là "Quyền đại diện cho nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật", phạm vi THQCT được tiến hành trong khi thực hiện các công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, lao động, hành chính, kiểm sát thi hành án dân sự, kiểm sát việc quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, kiểm sát thi hành án hình sự và công tác điều tra tội phạm. Quan điểm thứ tư cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho VKS mà trực tiếp là KSV thay mặt nhà nước thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Nội dung của quyền công tố là đưa ra lời buộc tội những chủ thể phạm tội và chứng minh tính có căn cứ và tính hợp pháp của cáo trạng tại phiên tòa sơ thẩm. Quan điểm này coi quyền công tố chỉ là sự buộc tội tại phiên tòa, việc thực hiện quyền đó là thuộc VKS. Đó là sự nhầm lẫn giữa 10 quyền công tố và THQCT. Trên thực tế hoạt động truy tố và duy trì quyền công tố của KSV trước tòa chỉ là một phần THQCT theo đúng nghĩa của nó, còn chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hoạt động kiểm tra tính có căn cứ, tính hợp pháp trong quyết định và hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Khi thực hiện chức năng này ngoài quyền kiến nghị, kháng nghị và quyền yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp luật, VKS không có quyền tự quyết định như khi THQCT. Do chưa xác định đúng đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật dẫn đến có quan điểm thu hẹp hoặc mở rộng phạm vi của quyền công tố, hoặc nhầm lẫn giữa quyền công tố với hoạt động thực hiện quyền công tố. Có thể nói nơi nào mà pháp luật cho phép VKS nhân danh lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội đưa vụ án ra tòa để quá trình truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm, nên quá trình này bắt đầu từ việc khởi tố vụ án hoặc khởi kiện và chấm dứt khi có phán quyết có hiệu lực pháp luật của cơ quan xét xử hoặc khi có căn cứ triệt tiêu quyền công tố ở giai đoạn sớm hơn. Quyền công tố không chỉ trong lĩnh vực Tố tụng hình sự mà mở rộng trong cả các lĩnh vực khác như dân sự, kinh tế, hành chính, lao động. Tóm lại, nghiên cứu các quan điểm trên có thể đưa ra nhận xét: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS nhân dân để đưa vụ án ra xét xử trước tòa án nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, tổ chức và của công dân theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Để xác định đúng đắn phạm vi quyền công tố trong Tố tụng hình sự cần phải nhận thức sâu sắc rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Không thể đồng nhất quyền công tố với việc THQCT, bởi quyền công tố là quyền của Nhà nước để yêu cầu trừng phạt người phạm tội, còn THQCT là việc sử dụng các biện pháp do 11 luật định để đạt được mục tiêu trừng phạt đó. Như vậy, phạm vi quyền công tố trong Tố tụng hình sự bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Vậy quan niệm về quyền công tố thế nào cho chính xác. Theo tác giả, bản chất của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là việc kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi và quyết định của các chủ thể bị kiểm sát. Do đó, đối tượng của hoạt động kiểm sát trong tố tụng hình sự phải là hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Quyền công tố là quyền buộc tội, còn tiến hành như thế nào là do luật định nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là THQCT. Xuất phát từ bản chất của quyền công tố và đối tượng tác động của quyền công tố như đã nêu trên, tác giả quan niệm rằng: Nội dung quyền công tố chính là sự buộc tội đối với người đã thực hiện tội phạm. Điều 20 BLTTHS quy định: VKS THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội; phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội. THQCT được xác định là chức năng của VKS trong các giai đoạn tố tụng. Điều đó được khẳng định trong BLTTHS và Luật Tổ chức VKSND về công tác thực hiện chức năng của VKS trong tố tụng hình sự. Những quy định trên đây của pháp luật hiện hành cũng cho thấy quyền công tố trong tố tụng hình sự phát sinh từ khi có tội phạm xảy ra đến khi ra bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị. Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Quyền công tố là quyền 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan