Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thơ dương thuấn dưới góc nhìn văn hóa...

Tài liệu Luận văn thơ dương thuấn dưới góc nhìn văn hóa

.PDF
111
120
102

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ MINH THƠ DƯƠNG THUẤN DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ MINH THƠ DƯƠNG THUẤN DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS LÊ VĂN LÂN Hà Nội – 2012 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................1 1.Lý do chọn đề tài ...........................................................................................1 2.Lịch sử vấn đề ...............................................................................................3 3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .....................................................................4 5.Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn .....................................................5 6.Cấu trúc của luận văn ....................................................................................6 CHƯƠNG 1: THƠ DƯƠNG THUẤN TRONG MẠCH NGUỒN VĂN HÓA TÀY .......................................................................................................7 1.1.Mối quan hệ văn hóa – văn học ..................................................................7 1.1.1 Khái niệm văn hóa ...................................................................................7 1.1.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học ...............................................................8 1.2 Vài nét về văn hóa vùng Việt Bắc và văn hóa dân tộc Tày .......................11 1.2.1 Văn hóa vùng Việt Bắc ..........................................................................11 1.2.2 Văn hóa dân tộc Tày ..............................................................................12 1.3.Khát quát về văn học Tày .........................................................................16 1.3.1 Văn học dân gian Tày ............................................................................16 1.3.2 Văn học viết Tày ...................................................................................19 1.4.Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày ...............................25 1.4.1 Vài nét về nhà thơ Dương Thuấn ...........................................................25 1.4.2 Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày ............................27 CHƯƠNG 2: CẢM THỨC VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN .. 30 2.1 Thế nào là cảm thức văn hóa ....................................................................30 2.2 Sự gắn bó, tự hào về quê hương ...............................................................31 2.2.1 Tình yêu thiên nhiên ..............................................................................32 2.2.2 Thái độ với truyền thống dân tộc ...........................................................38 2.2.3 Tình yêu đối với con người ....................................................................43 2.3 Trải nghiệm, triết lý ..................................................................................49 2.3.1 Triết lí của một chàng trai miền núi .......................................................50 2.3.2 Triết lý của một người đi nhiều..............................................................54 CHƯƠNG 3: BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN . 59 3.1 Thế nào là biểu tượng văn hóa ..................................................................59 3.2 Biểu tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn.............................................61 3.2.1 Bản Hon ................................................................................................62 3.2.2 Núi ........................................................................................................64 3.2.3 Sông ......................................................................................................67 3.2.4 Nước .....................................................................................................70 3.2.5 Trăng .....................................................................................................73 CHƯƠNG 4: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN .........................................................................................78 4.1 Ngôn ngữ .................................................................................................78 4.1.1 Mối quan hệ ngôn ngữ - văn hóa ...........................................................78 4.1.2 Ngôn ngữ trong thơ Dương Thuấn .........................................................80 4.2 Giọng điệu ................................................................................................88 4.2.1 Giới thiệu về giọng điệu ........................................................................88 4.2.2 Giọng điệu trong thơ Dương Thuấn .......................................................90 KẾT LUẬN ................................................................................................. 100 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học là sản phẩm của một quá trình văn hóa, nó phản ánh đời sống xã hội, cải tạo cuộc sống con người và lưu giữ, lưu truyền văn hóa ngàn đời. Đất nước Việt Nam bao gồm 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có một bản sắc văn hóa riêng được cấu thành từ hàng ngàn, hàng vạn thành tố văn hóa đặc trưng cho dân tộc mình như: lịch sử, ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, các phong tục tập quán, trang phục, quan hệ cộng đồng…Vì thế một sản phẩm tinh thần do cả dân tộc hoặc cá nhân thuộc dân tộc đó sáng tạo nên đều ít nhiều thể hiện bản sắc văn hóa của chính dân tộc mình. Mặt khác, bản sắc văn hóa dân tộc ấy còn được thấm đẫm trong văn học hơn khi chính người nghệ sĩ sáng tác tự nguyện trở thành sứ giả văn hóa cho dân tộc mình: “Một dân tộc có nền văn hóa phát triển thì phải có những đại diện văn hóa. Chính những đại diện văn hóa đó đã làm nên diện mạo lịch sử văn hóa các dân tộc. Họ có vai trò quan trọng trong việc lưu giữ và phát triển các giá trị của dân tộc. Tôi còn nhớ câu nói của nhà thơ Tagor, đại ý là mỗi nhà văn khi đến với thế giới phải mang theo bản sắc của dân tộc mình, góp phần làm cho văn hóa nhân loại phong phú hơn”[58]. Trong số 54 dân tộc anh em ở nước ta không phải dân tộc nào cũng có những sứ giả văn hóa tích cực được dư luận chú ý và đánh giá cao. Nguyên nhân là do một số dân tộc chưa có chữ viết cũng như chưa có văn học thành văn, chưa có độc giả nhưng cơ bản vẫn là do trình độ văn hóa nhận thức phát triển kém, đời sống kinh tế lạc hậu, nghèo nàn. Các nhà văn dân tộc thiểu số nước ta chỉ tập trung vào một số dân tộc nhiều nhất là dân tộc Tày chiếm gần 1/3. Văn học Tày đã vượt qua ngưỡng dân gian truyền khẩu từ rất lâu, thể hiện ý thức về dân tộc bằng chữ viết. Dòng văn học Tày bác học xuất hiện từ 1 rất sớm như tác giả Lê Thế Khanh (1389-1460), Nông Quỳnh Vân (15651640), Bế Hữu Cung (1757-1820), Hoàng Ích Viêng (1890-1945). Từ đầu thế kỉ XX, văn học Tày một mặt phát huy truyền thống, mặt khác chịu ảnh hưởng của văn học miền xuôi, đã dần ghi dấu trưởng thành của nhiều gương mặt như: Hoàng Văn Thụ (1906-1944), Nông Quốc Chấn (1923-2002), Nông Minh Châu (1924-1979), Hoàng Triều Ân, Vi Thị Kim Bình, Ma Trường Nguyên, Y Phương, Mai Liễu, Triệu Lam Châu, Đoàn Ngọc Minh, Triệu Thị Mai, Đoàn Lư, Dương Thuấn, Vi Thùy Linh… So với những nhà thơ dân tộc ít người khác và so với chính đội ngũ sáng tác văn nghệ của dân tộc Tày thì có lẽ Dương Thuấn là cây bút sung sức hơn cả. Có thể nói Dương Thuấn đã thể hiện rất tích cực vai trò sứ giả văn hóa cho dân tộc mình. Con đường thơ của Dương Thuấn gắn liền với cái nôi văn hóa vùng Việt Bắc và dân tộc Tày. Quê hương, bản làng, xứ núi đã tạo cho nhà thơ một mối giao cảm sâu sắc. Phía sau những vần thơ ấy là đời sống của cá nhân tác giả và đời sống của quê hương xứ Tày. Sinh ra ở bản Hon, đi khắp trăm nơi nhưng dù đi đâu, về đâu thì Dương Thuấn vẫn đau đáu về bản Hon quê mình, vẫn nhớ những mái nhà, nhớ cái bậc cầu thang, rặng đá Mèo, đèo mây phủ, những tên núi tên sông và những con người xứ Mây. Xin mượn lời tác giả Uông Thái Biểu để khẳng định tính dân tộc bền bỉ trong thơ Dương Thuấn: “Dù hạ sơn về phố đã hàng chục năm, Thuấn vẫn là con người “của đồng bào mình”. Nếu xét chữ “tha hóa” theo nghĩa hẹp thì Dương Thuấn là con người không dễ gì đánh rơi cái cốt, cái lõi trong tâm hồn mình”[44]. Và như vậy chúng tôi chọn khảo sát thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa nhằm làm rõ hơn bản sắc văn hóa Tày trong phong cách thơ ông. Từ đó góp phần khẳng định những đóng góp đặc sắc của nhà thơ vào tiến trình thơ ca dân tộc Việt Nam hiện đại. 2 2. Lịch sử vấn đề Mặc dù là nhà thơ thuộc thế hệ thứ ba nhưng các công trình, bài nghiên cứu, bình luận về thơ Dương Thuấn đã xuất hiện nhiều trên các tạp chí nghiên cứu văn học và các ấn phẩm văn hóa văn nghệ. Nhìn chung có thể chia các bài viết đó thành hai loại sau: Thứ nhất là các bài cảm nhận, bình thơ về một số bài thơ đơn lẻ tiêu biểu của Dương Thuấn. Chúng tôi xin liệt kê một số bài viết mà trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi có tra cứu, tham khảo: cảm nhận về bài thơ Đi tìm bóng núi có bài của các tác giả như: Nguyễn Trọng Tạo, Bùi Việt Phương, Lê Lanh, Đoàn Thục Nhi; cảm nhận về bài thơ Kìa thảo nguyên đẹp thế của Thi Nguyễn, Gửi thơ mường Dôn của Đào Vĩnh, Ăn theo nước của Bế Kiến Quốc, Cái lý đáng yêu của chàng trai Mông đi tìm vợ của Lê Nhật Ký, Bài hát tỏ tình của Lê Quốc Hán, Nhớ chị Thìn – một bài thơ độc đáo của Hồ Thủy Giang, Về bản – một cái nhìn triết học của Đỗ Thu Huyền, Cực tình của Lò Ngân Sủn, Đọc Chia trứng công của Phùng Ngọc Diễn. Thứ hai là các bài nghiên cứu, phê bình đối với một tập thơ hoặc tuyển tập sáng tác của Dương Thuấn. Ở đây chúng tôi có thể nêu ra một số công trình nghiên cứu sau: Dương Thuấn đi tìm bóng núi của Chu Văn Sơn, Thơ Dương Thuấn của Phạm Quang Trung, Người rong ruổi đi tìm bóng núi của Uông Thái Biểu, Dương Thuấn nhà thơ miền núi nghĩ chắc viết sâu của Hoàng Văn An, Đọc thơ Dương Thuấn của Nông Quốc Chấn, Hình ảnh con người trong thơ Dương Thuấn của Nguyễn Thị Hằng, Sự thô mộc có học của Lò Ngân Sủn, Quên lý thuyết văn chương để đi đọc Dương Thuấn của Inrasara, Thiên nhiên trong thơ Dương Thuấn của Hà Thị Dương (luận văn thạc sĩ), Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn, Y Phương dưới góc nhìn văn hóa của Đỗ Thị Thu Huyền (luận văn thạc sĩ, năm 2007), Một số biểu trưng văn hóa trong thơ Y Phương và Dương Thuấn của Đỗ Thị Thu Huyền tại Hội thảo 3 Khoa học cuối năm, Viện Văn học, 2007, Bản sắc văn hóa dân tộc Tày trong thơ Y Phương, Dương Thuấn (luận văn thạc sĩ) của Nguyễn Thị Huyền năm 2009 (đại học Thái Nguyên) Tựu trung thì các đề tài về thơ Dương Thuấn mà chúng tôi thống kê ở trên đều công nhận tài năng thơ của Dương Thuấn nhưng thực sự chưa có đề tài nào triển khai đến tận cùng và phân tích chẻ ngọn một cách thấu đáo nhất về phong cách thơ Dương Thuấn. Tuy thế với số lượng bài viết khá nhiều kể trên đã phản chiếu sự ảnh hưởng của tiếng thơ Dương Thuấn đối với đông đảo bạn đọc. Chọn đề tài Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa, chúng tôi mong muốn đưa ra cái nhìn toàn diện, hệ thống hơn về thơ Dương Thuấn xét trong mạch nguồn văn hóa Tày để chứng minh rằng thơ Dương Thuấn đã kế thừa và phát huy những giá trị văn học của dân tộc mình trong thơ như thế nào. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Do khuôn khổ của luận văn có hạn, chúng tôi chỉ tập trung tiến hành khảo sát thơ Dương Thuấn trong ba tập thơ tập I: Bản Hon và những nơi khác, tập II Thơ tình và tập III Thơ thiếu nhi thuộc Tuyển tập thơ Dương Thuấn do Hội Nhà Văn xuất bản năm 2010. Lựa chọn ba tập thơ này vì chúng tôi cho rằng đây là các tập thơ hội tụ những bài thơ tiêu biểu, đặc sắc nhất cho phong cách thơ Dương Thuấn. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, người viết phác họa lại diện mạo thơ Dương Thuấn nhưng đặc biệt nhấn mạnh vào sự ảnh hưởng của văn hóa vùng đến sáng tác của ông. Cách thức tiến hành của chúng tôi không theo cách đi vào từng tác phẩm cụ thể để nhận diện đặc điểm thơ Dương Thuấn mà sẽ thâu tóm những tác phẩm cùng đề tài, chủ đề, tư tưởng để đưa ra kết luận nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu của luận văn. Trong khi thực hiện đề tài nghiên cứu này, tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu: 4 - Thống kê, nêu số liệu: số lượng các bài thơ cùng chủ đề, cảm hứng, các hình ảnh được lặp đi lặp lại trong các bải thơ khác nhau. - So sánh: so sánh nội dung, cảm hứng nghệ thuật, hình thức biểu hiện, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh thơ của Dương Thuấn với thơ của các tác giả khác khi viết cùng về một đề tài. - Phân tích: phân tích nội dung, hình thức của những dẫn chứng thơ. Phân tích những lí luận về thơ để phục vụ cho các luận điểm của luận văn. - Thi pháp học: nhằm nghiên cứu hình thức nghệ thuật, chỉ rõ đặc trưng cơ bản tạo nên phong cách của tác giả. - Văn hóa học: nhằm chỉ ra bản sắc văn hóa dân tộc trong các sáng tác của tác giả. - Liên phương pháp: có sự kết hợp của các phương pháp khi trình bày một luận điểm như thống kê kết hợp nêu số liệu sau khi phân tích, so sánh. Sử dụng phương pháp văn hóa học cùng phương pháp phân tích cấu trúc ngôn ngữ. 5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn Luận văn là công trình khảo sát về thơ Dương Thuấn từ góc nhìn văn hóa. Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn khái quát, đầy đủ hơn về thơ Dương Thuấn, từ đó thấy được những tìm tòi, đổi mới, vận động và phát triển của thơ Dương Thuấn mang đậm bản sắc văn hóa của một vùng quê. Chúng tôi không đặt nhiều tham vọng đưa ra những kiến giải mới khác với nhận định của nhiều nhà nghiên cứu đã bàn về thơ Dương Thuấn mà chỉ vận dụng những thành tựu đã có để đưa ra những đánh giá có tính chất cụ thể theo một hướng mới. Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa là một cách tiếp cận mới mẻ giúp ta hiểu thêm những giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần khẳng định một hướng nghiên cứu văn 5 học nhiều triển vọng đó là từ góc độ văn hóa - văn học, sự giao lưu, giao thoa và ảnh hưởng qua lại để nhìn cho thấu đáo từ nhiều chiều kích, phương diện. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 4 chương: Chương 1: Thơ Dương Thuấn trong mạch nguồn văn hóa dân tộc Tày Chương 2: Cảm thức văn hóa trong thơ Dương Thuấn Chương 3: Biểu tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn Chương 4: Một số phương thức nghệ thuật trong thơ Dương Thuấn 6 CHƯƠNG 1 THƠ DƯƠNG THUẤN TRONG MẠCH NGUỒN VĂN HÓA TÀY 1.1 Mối quan hệ văn hóa – văn học 1.1.1 Khái niệm văn hóa Ở Việt Nam và trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa. Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc cho rằng: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiến thức lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân hay các tộc người khác”[17, tr.17]. Giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm xác định cụ thể: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [30, tr.10]. Nhà nhân loại học phương Tây E.B.Taylo lại định nghĩa: “Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội” [40, tr.8]. Văn hóa là sản phẩm của con người, là kết quả của sự tiến hóa nhân loại. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên để hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó có những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Ngay trong bản thân khái niệm văn hoá cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi do đứng ở nhiều góc độ khoa học khác nhau để nghiên cứu. Tựu chung, xét về mặt biểu hiện, văn hoá là một hiện tượng xã hội mà không phải là hiện tượng tự nhiên và nó thuộc về 7 giá trị tinh thần. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa nhưng các định nghĩa đó vẫn xoay quanh vấn đề tương đối thống nhất: văn hóa là một trong những giá trị đặc trưng về vật chất, tinh thần được con người sáng tạo ra trong sự phát triển của dân tộc. Theo nghĩa chung nhất, văn hoá được xem là toàn bộ những hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ cũng như trong hiện tại tạo thành những chuẩn mực - giá trị, thị hiếu và truyền thống, gọi chung là hệ giá trị - xã hội, một thành tố cơ bản làm nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc. 1.1.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học Như chúng ta đã biết: văn học là một thành tố của văn hóa, nằm trong văn hóa vì thế nó chịu sự chi phối của văn hóa như M. Bakhtin xác định: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá của một thời đại trong đó nó tồn tại”[24]. Mỗi nhà văn khi sáng tạo tác phẩm của mình đều phải dựa trên một nền tảng rộng lớn là văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Có thể coi văn học là một tấm gương vừa phản chiếu, vừa thu nhỏ bộ mặt văn hóa của từng thời đại vào trong đó. Đặc biệt văn học sẽ kết tinh toàn bộ các phương diện của văn hóa vào trong thế giới nghệ thuật của mình. Những nhân tố như: ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, lao động, sản xuất, ăn mặc, ở, đi lại, sự phát triển của khoa học kĩ thuật… đều là điều kiện quan trọng trong môi trường nảy sinh, hình thành những tác phẩm văn học. Những thành tựu của văn hóa học ngày nay cho phép chúng ta có thể nhìn nhận văn hóa như một tổng thể, một hệ thống gồm nhiều yếu tố như: ngôn ngữ, phong tục tập quán, pháp luật, tín ngưỡng, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn, văn học… Trong hệ thống văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam, yếu tố chủ đạo thường là văn học. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà nó thường 8 xuyên thay đổi qua những thời đại văn hóa, tức là một hệ thống văn hóa. Là một yếu tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những gì ngoài hệ thống để phát triển. Tiếp thu những cái ngoài hệ thống đến một mức độ nào đó, yếu tố văn học sẽ không còn phù hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống, làm cho hệ thống phải thay đổi cùng nó. Ở nước ta không ít công trình nghiên cứu văn học đi sâu vào tìm hiểu bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam, xem bản sắc dân tộc như là phẩm chất của văn học, và cũng có không ít những công trình nghiên cứu văn hoá xem trọng dẫn liệu văn học như những dấu hiệu, những tiêu chí góp phần làm sáng tỏ đặc điểm văn hoá, bản sắc văn hoá của dân tộc. Có thể kể tên những thành tựu mới mẻ, đầy triển vọng của một số công trình nghiên cứu văn học theo hướng tiếp cận từ văn hóa học như công trình nghiên cứu của Đỗ Thị Minh Thuý – Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học (1997), Trần Ngọc Vương – Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (1997), Đỗ Lai Thuý - Từ cái nhìn văn hoá (1999), Trần Nho Thìn – Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hoá (2007)… Văn học với tư cách là một bộ phận của tổng thể văn hóa, một yếu tố của hệ thống văn hóa thì không thể và không có quyền qua mặt hệ thống để tiếp xúc thẳng hoặc tác động trực tiếp đến hệ thống xã hội mà phải gián tiếp qua hệ thống văn hóa và chỉ “quan hệ” được với hệ thống xã hội thông qua văn hóa. Như vậy, khung nghiên cứu văn học cũng phải là khung văn hóa. Trong quan hệ với chuyên ngành nghiên cứu văn học, văn hoá học xem xét văn học từ góc độ văn hoá học nghệ thuật có tính bao quát hơn là chỉ đi sâu vào văn học. Trong mối quan hệ với văn hóa học, nghiên cứu văn học và văn hoá học có nhiều điểm tương đồng về quan điểm phương pháp luận, nhưng vẫn khác nhau về cơ bản như: tính giá trị, tính nhân sinh, tính lịch sử, tính dân tộc… của đối tượng đều được hai ngành quan tâm xem xét. Nghiên cứu văn hoá học và nghiên cứu văn học đều coi trọng quan điểm hệ thống trong tiếp 9 cận đối tượng, đều quan tâm đến tính thống nhất trong đa dạng của đối tượng. Nếu như xem xét từ góc độ thời gian, văn hoá học có văn hoá sử, nghiên cứu văn học có văn học sử. Nếu xem xét từ góc độ không gian, văn hoá học có văn hoá vùng, văn hoá khu vực, nghiên cứu văn học cũng có văn học vùng, văn học khu vực. Nếu xem xét từ góc độ chủ thể, văn hoá học có văn hoá dân tộc, nghiên cứu văn học có văn học dân tộc… Về mặt phương pháp, văn hoá học và nghiên cứu văn học đều quan tâm đến tính liên ngành, đến việc vận dụng những thành tựu của các ngành khoa học khác áp dụng vào đối tượng nghiên cứu cụ thể của mình. Đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hóa học là vận dụng những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác phẩm. Một cách tổng quát, phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa. Trong đó tác phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, quan niệm về con người cũng như sự chi phối của các phương tiện khác nhau. Trong đời sống sinh hoạt xã hội từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về các mặt xây dựng nhân vật, kết cấi, mô-típ, hình tượng, cảm xúc, ngôn ngữ… Phương pháp này có tính chất tổng hợp, trung gian giữa những phương pháp đọc văn bản khác nhau nhưng vẫn có đặc trưng riêng. Nó thiên về nhiệm vụ giải mã các hiện tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong không gian và thời gian. Tiếp cận văn hóa học không chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của tác phẩm như một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà đặt ra nhiệm vụ đối chiếu, so sánh, truy nguyên các quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm được sản sinh để tìm nguồn gốc các dạng thức quan niệm về con người – thời 10 gian – không gian trong tác phẩm. Tiếp cận văn hóa học thực chất là tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu văn học ngày càng ý thức hơn về mối quan hệ giữa văn học với văn hoá, đặc biệt là nghiên cứu văn học tiếp nhận ở văn hoá học quan điểm về tính tương tác của các hệ thống văn hoá, về góc nhìn văn hoá trong nghiên cứu đối tượng đặc thù. Lý luận về sự giao thoa giữa văn học và văn hoá trong lý luận văn học thế giới được giới thiệu khá phong phú ở nước ta cũng là một trong những cơ sở giúp nghiên cứu văn học ngày càng khám phá những chiều kích văn hoá trong đời sống năng động của văn học nước nhà. 1.2 Vài nét về văn hóa vùng Việt Bắc và văn hóa dân tộc Tày 1.2.1 Văn hóa vùng Việt Bắc Dân tộc Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái sống chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc (vùng văn hóa Việt Bắc) như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang… Bản thân văn hóa Tày đã có một bản sắc dân tộc riêng nhưng trước hết vì thuộc vùng văn hóa Việt Bắc nên ít nhiều văn hóa Tày có sự ảnh hưởng của văn hóa vùng. Cư dân chủ yếu của vùng Việt Bắc là người Tày và người Nùng, ngoài ra, còn một số dân tộc ít người như: Dao, H’mông, Lô Lô, Sán Chay. Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Việt Bắc có những nét cơ bản giống các khu vực khác. Về tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian của cư dân Tày- Nùng hướng niềm tin của con người đến thần bản mệnh, trời đất, tổ tiên. Họ thờ nhiều thần linh như thần sông, thần núi, thần đất. Ngoài ra, còn có các ông vua, Giàng Then cũng được dân tộc nơi đây kính cẩn thờ phụng. Diện mạo tôn giáo Việt Bắc cũng có những nét khác biệt. Các tôn giáo như Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của người Việt Bắc. Tam giáo được cư dân Việt Bắc tiếp nhận gần giống người Việt nhưng ở mức độ thấp hơn và kết hợp với tín ngưỡng vật linh vốn có 11 trong đời sống dân gian. Về chữ viết, vào giai đoạn cổ đại, cư dân ở đây không có chữ viết; sang giai đoạn cận đại thì có chữ Nôm và giai đoạn hiện đại thì chữ Nôm tồn tại song song với chữ Latinh. Cũng chính vì vậy, nét đáng chú ý là cư dân Tày – Nùng ở Việt Bắc đã có những nhà văn viết bằng chữ viết dân tộc khá sớm như Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn… Trong khi đó, văn học dân gian Việt Bắc khá đa dạng về thể loại, phong phú về số lượng tác phẩm, như thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói ví, câu đố, đồng dao, dân ca. Đặc biệt, lời ca giao duyên: lượn cọi và lượn tương, là những thể loại tiêu biểu được các thế hệ trẻ Tày – Nùng ưa chuộng. Lễ hội của cư dân Tày – Nùng rất phong phú. Ngày hội của toàn cộng đồng là Hội Lồng Tồng (hội xuống đồng), diễn ra hai phần: Lễ và hội. Nghi lễ chính là rước thần đình và thần nông ra nơi mở hội ở ngoài đồng. Phần hội căn bản là các trò chơi như đánh quay, đánh yến, tung còn, ảo thuật… Như vậy, về bản chất, Hội Lồng Tồng là một sinh hoạt văn hóa. Nói đến sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng Việt Bắc, không thể không nói đến sinh hoạt hội chợ ở đây là nơi để trao đổi hàng hóa, nhưng lại cũng là nơi để nam nữ thanh niên trao duyên, tỏ tình. Người ta đã từng nói đến một loại sinh hoạt văn hóa hội chợ ở vùng này, và có thể coi như một sinh hoạt văn hóa đặc thù của vùng Việt Bắc. Tóm lại, Việt Bắc là một vùng văn hóa có nhiều đặc thù. Tộc người chủ thể: Tày - Nùng với lịch sử và văn hóa của họ tạo ra nét đặc thù này. Tuy nhiên, những đặc thù này không phá vỡ tính thống nhất của văn hóa Việt Bắc và văn hoá cả nước. 1.2.2 Văn hóa dân tộc Tày Nằm trong cái nôi văn hóa vùng Việt Bắc, ngoài những ảnh hưởng của văn hóa vùng, dân tộc Tày còn có riêng một bản sắc văn hóa, cụ thể là: Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền phát triển với đủ loại cây trồng như lúa, ngô, khoai… Họ có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã 12 biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả… Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Đặc điểm kinh tế mà đặc biệt về mặc nông nghiệp này đã tạo nên những biểu tượng văn hóa trong tín ngưỡng dân tộc Tày như tục thờ nước, thờ Mẹ Hoa, thờ thần lúa. Người dân thường ở chân núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Họ sống thành bản làng đông đúc, mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Dân tộc Tày còn có tên gọi là Thổ ở Việt Bắc, hoặc Phén (tức là Phiên) ở Hải Ninh; nhưng tên “Tày” đúng hơn cả và được nhân dân Tày xác nhận. Gia đình người Tày thường quý con trai hơn và có quy định rõ ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà. Vợ chồng yêu thương nhau, ít ly hôn. Đã từ lâu dân tộc Tày không còn tục ở rể. Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng không lại tùy thuộc vào bố mẹ hai bên và số mệnh của họ có hợp nhau không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá só của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về hẳn bên nhà chồng. Người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm. Cái độc đáo đáng quan tâm của trang phục Tày không phải là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc được dùng trong hoa văn mặt chăn hoặc các tấm thổ cẩm. Và “áo chàm” đã 13 trở thành một hoán dụ phổ biến xuất hiện nhiều trong thơ văn để chỉ đồng bào dân tộc Tày nói riêng hoặc các cư dân Việt Bắc nói chung. Đồng bào Tày có một nền văn hóa tín ngưỡng sâu đậm ngay từ thời kỳ khởi nguyên, và được tiếp tục phát triển theo những xu hướng linh động cho đến hiện tại (có nhiều điểm tương đồng văn hóa tín ngưỡng vùng Việt Bắc – đã trình bày ở trên). Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên, ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ, Mẹ Hoa, lúa. Hàng năm có nhiều lễ tết với những ý nghĩa khác nhau nhưng quan trọng nhất vẫn là tết Nguyên đán - mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước. Chữ viết của người Tày xuất hiện khá sớm, chữ Nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ Nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng… Chữ Tày - Nùng dựa trên cơ sở chữ cái Latinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa những năm 80, được dùng trong các trường phổ thông cấp 1, vùng có người Tày – Nùng cư trú. Đối với cư dân Tày, lễ hội là là sinh hoạt văn hóa quan trọng bậc nhất trong đó đặc biệt là Hội Lồng Tồng (Hội xuống đồng) trở thành “đặc sản” sinh hoạt văn hóa cộng đồng của cư dân vùng Việt Bắc cũng như văn hóa Tày. Lễ hội mang đậm những nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày, thường được tổ chức ở những đám ruộng to rộng. Trước ngày hội, các gia đình đều quét dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Khách đến đây, dù quen dù lạ đều được đồng bào mời về nhà ăn nghỉ qua đêm chờ dự hội. Trong ngày diễn ra lễ hội, phần lễ và phần hội đều diễn ra trang trọng, vui tươi. Phần lễ là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hoà, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Ðể chuẩn bị lễ ở ngoài đồng, mỗi 14 gia đình chuẩn bị một mâm cỗ theo khả năng, có nhiều nhà làm từ vài chục đến một trăm món. Phần hội quan trọng nhất là hội xuống đồng. Một nông dân cày giỏi được giao trọng trách mắc cày vào con trâu mộng, to khỏe để vạch luống cày đầu tiên cho mùa vụ mới. Thầy cúng đi trước làm lễ, luống cày theo sau như nở hoa trên đất hứa hẹn với bà con nông dân một mùa vụ suôn sẻ, bội thu. Hoạt động vui nhất, thu hút nhiều người tham gia nhất trong lễ hội là hội tung còn. Nếu ở lễ hội này không có ai tung còn trúng vòng tròn thì dân bản không vui, vì theo quan niệm của họ, phải có người tung còn trúng vòng tròn làm rách giấy thì năm đó làm ăn mới thuận lợi, mưa thuận gió hoà. Trong trò chơi này, nam nữ thanh niên thi tung còn cho nhau. Ngoài ra còn có các hoạt động múa sư tử, múa võ, kéo co... Ðặc biệt, đêm về, nam nữ thanh niên thi hát lượn đối đáp suốt canh dài... Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại thơ ca, múa, nhạc…. Nhiều làn điệu dân ca nổi tiếng như lượn, phong slư, phuối pác, phuối, rọi, vén eng… Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới… là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Đồng bào Tày thường lượn trong Hội Lồng Tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối bằng gỗ khá độc đáo. Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng kể. Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con. Bên cạnh những nét văn hóa trên, nền văn học dân gian Tày còn là kho tàng về các loại thần thoại, truyện cổ, truyện thơ, dân ca… tiêu biểu là truyện Quả bầu, Thạch Sanh, Cẩu Khây, Phú Lương Quân, Báo Luông – Sao Cải, Khảm hải (Vượt biển) … Từ những điều vừa tìm hiểu về đặc điểm văn hóa của dân tộc Tày như trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng: mỗi một dân tộc đều mang trong mình 15 những dấu ấn văn hóa tạo nên đặc sắc của dân tộc đó. Bản sắc văn hóa hay truyền thống dân tộc là quá trình chọn lọc, tích lũy qua nhiều thế hệ. Nếu một dân tộc không có bản sắc, không tiếp thu truyền thống thì văn hóa dân tộc đó chỉ là hư vô. Do đó việc phát hiện, gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa của từng dân tộc theo hướng ngày càng hiện đại nhưng vẫn giữ được dấu ấn riêng là vấn đề ý nghĩa, mang tính thời sự, cập nhật. Trên đây là một số đặc trưng văn hóa nổi bật của cư dân vùng Việt Bắc và dân tộc Tày. Những đặc trưng văn hóa này sẽ là tiền đề hữu ích giúp chúng tôi triển khai đề tài Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa có cơ sở thực tế và sức thuyết phục hơn. 1.3 Khát quát về văn học Tày 1.3.1 Văn học dân gian Tày Văn học dân tộc thiểu số ở nước ta tuy hình thành và phát triển muộn nhưng có nhiều đóng góp đáng kể làm phong phú cho kho tàng văn học Việt Nam. Hệ thống văn học dân gian Tày đặc biệt sinh động bởi sự góp mặt của nhiều thể loại như: truyền thuyết, truyện thơ, dân ca, tục ngữ, ca dao. Nội dung truyện cổ Tày thường tập trung giải thích các hiện tượng tự nhiên, những mâu thuẫn trong đời sống con người, cuộc chiến giữa thiện và ác. Truyện ngụ ngôn có rất nhiều tình tiết ly kỳ, chết đi sống lại hoá thân thành con vật, cỏ cây, hoa lá hoặc có cuộc sống sung sướng, thậm chí làm vua, quan… thể hiện khát vọng sống của con nguời. Tục ngữ ca dao đó là những câu phản ánh tâm tư tình cảm, tâm trạng hoặc được đúc kết thành kinh nghiệm, triết lý trong cuộc sống, kinh nghiệm trong sản xuất, đối nhân xử thế, trong dấu tranh xã hội cũng như trong tự nhiên. Đáng chú ý nhất trong văn học dân gian Tày là thể loại truyện thơ và dân ca. Về thể loại truyện thơ, những tác phẩm truyện thơ nổi tiếng của dân tộc Tày như: Thị Ðan, Quảng Tân - Ngọc Lương, Nàng Kim, Chim sáo, Chiêu 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan