VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ ĐỨC TUYÊN
THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ KẾT ÁN DƯỚI 18 TUỔI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ ĐỨC TUYÊN
THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ KẾT ÁN DƯỚI 18 TUỔI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS,TS. NGHIÊM XUÂN MINH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung
thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực đã từng được
công bố trước đây. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Ngô Đức Tuyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ KẾT ÁN DƯỚI
18 TUỔI .................................................... Error! Bookmark not defined.
1.1. Khái niệm người bị kết án phạt tù và thi hành án phạt tù .............. 6
1.2. Nhận thức chung về thi hành án phạt tù đối với người bị kết án dưới
18 tuổi.................................................................................................... 8
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ ĐỐI VỚI
NGƯỜI BỊ KẾT ÁN DƯỚI 18 TUỔI TẠI TỈNH BẮC NINH ........... 30
2.1. Tình hình đặc điểm có liên quan .................................................. 30
2.2. Thực tiễn về thi hành án phạt tù đối với người bị kết án dưới 18
tuổi tại tỉnh Bắc Ninh .......................................................................... 37
2.3. Nhận xét, đánh giá ..................................................................... 477
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI
HÀNH ÁN PHẠT TÙ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ KẾT ÁN DƯỚI 18 TUỔI
TẠI TỈNH BẮC NINH............................................................................ 52
3.1. Dự báo các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thi hành án phạt tù đối
với người bị kết án dưới 18 tuổi tại tỉnh Bắc Ninh ............................. 52
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án phạt tù đối với
người bị kết án dưới 18 tuổi tại tỉnh Bắc Ninh ................................... 60
KẾT LUẬN .............................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 71
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1: Thống kê về số lượng người bị kết án phạt tù dưới 18 tuổi tỉnh Bắc
Ninh từ năm 2015 đến hết năm 2019 .................................................... 35
Bảng 2.2: Thống kê về tổng số lượt giáo dục người bị kết án phạt tù dưới 18
tuổi từ năm 2015 đến hết năm 2019...................................................... 41
Bảng 2.3: Thống kê về khen thưởng, kỷ luật đối với người bị kết án phạt tù
dưới 18 tuổi từ năm 2015 đến hết năm 2019 ........................................ 43
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách đối xử đối với người phạm tội nói chung, xử lý đối với người
phạm tội dưới 18 tuổi nói riêng xuất hiện và tồn tại gắn liền với lịch sử hình
thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam. Với sự cân nhắc nhiều yếu
tố khác nhau liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội, việc xử lý người phạm
tội dưới 18 tuổi có sự khác biệt so với người đã thành niên phạm tội. Sự khác
biệt này trước hết thể hiện trong các quy định về trách nhiệm hình sự của người
phạm tội dưới 18 tuổi, trong đó quan trọng nhất về nguyên tắc xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước
Việt Nam, hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi thể hiện rõ nhất quan điểm
đối xử và nguyên tắc xử lý của Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời
ngăn ngừa người phạm tội tiếp tục phạm tội và động viên, khuyến khích họ
chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo. Hình phạt tù đối với người bị kết án dưới
18 tuổi là nhằm cách ly người phạm tội ra khỏi cộng đồng trong một khoảng
thời gian nhất định nhằm ngăn ngừa tội phạm và giáo dục người phạm tội.
Thực tiễn hiện nay cùng với quá trình phát triển toàn diện của đất nước
trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, hiện nay hệ thống cơ quan quản
lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự nói chung đang có những điểm
bất cập, như còn phân tán, nhiều đầu mối, chưa tập trung quyền lực nên thiếu
sự chỉ đạo, điều hành, kiểm tra thống nhất, quy chế phối hợp giữa các cơ quan
còn chưa rõ ràng làm giảm hiệu quả và hiệu lực quản lý của Nhà nước trong
lĩnh vực thi hành án phạt tù nói chung và thi hành án phạt tù đối với người dưới
18 tuổi nói riêng. Việc thực hiện công tác thi hành án phạt tù đối với người dưới
18 tuổi còn có những hạn chế nhất định, như: Chưa có chế tài pháp luật điều
chỉnh các quan hệ phát sinh khi kết án cũng như buộc họ phải thi hành án; nhận
thức về công tác quản lý, giáo dục đối với đối tượng này chưa đầy đủ, thống
1
nhất; chưa xây dựng được một môi trường cải tạo để thực sự hạn chế được tác
động tiêu cực của quá trình giam giữ đối với người bị kết án dưới 18 tuổi…
Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu bức xúc cần phải nghiên cứu, tìm hiểu sâu
hơn những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành án phạt tù đối với người bị kết án
dưới 18 tuổi, tiến hành tổng kết một cách đầy đủ hơn nhằm chỉ ra những kinh
nghiệm thành công cũng như chưa thành công của thực tiễn công tác thi hành
án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi. Thông qua đó xây dựng luận cứ khoa học
cho nhiệm vụ tiếp tục đổi mới công tác thi hành án phạt tù trong giai đoạn hiện
nay. Từ những lý do trên, học viện lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thi hành án
phạt tù đối với người bị kết án dưới 18 tuổi từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm
luận văn thạc sĩ ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự là hoàn toàn cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lĩnh vực thi hành án hình sự đã có một số công trình nghiên cứu
về thi hành án phạt tù có thời hạn, có thể kể đến như:
“Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam” – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng chủ
biên, do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2006; “Hoàn thiện quản lý nhà
nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự ở Việt Nam” của TS Vũ Trọng Hách
do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2006; luận văn “Hình phạt tù và thi
hành án phạt tù - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Thị Thu
Hằng, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; luận văn “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn thi hành án phạt tù ở Việt Nam” của tác giả Đặng Quang Thắng,
Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên
tạp chí chuyên ngành luật, như: “Thực trạng pháp luật thi hành án phạt tù và
phương hướng hoàn thiện” của TS Phạm Văn Lợi đăng trên tạp chí Nhà nước
và pháp luật số 02/2006…
Tóm lại, đây là những công trình nghiên cứu toàn diện về lĩnh vực thi
hành án hình sự, trong đó bao gồm lĩnh vực thi hành án phạt tù. Trong quá trình
2
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, nhất là khi thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về
từng lĩnh vực cần được làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở
cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù nói chung
và thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi nói riêng góp phần nâng cao
hiệu quả của công tác này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Thông qua nghiên cứu đề tài để làm rõ về mặt lý luận về thi hành án phạt
tù đối với người dưới 18 tuổi ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở thực tiễn thi hành
án tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Từ đó xác định những vấn đề bất cập để đưa ra
các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án
phạt tù đối với người dưới 18 tuổi.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Về mặt lý luận:
Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của công tác thi hành án phạt tù
đối với người dưới 18 tuổi, phân tích khái niệm, các đặc điểm cơ bản của, yêu
cầu, cơ sở pháp lý thi hành án phạt tù đối với dưới 18 tuổi, mối quan hệ giữa
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành án phạt tù.
+ Về mặt thực tiễn:
Khảo sát, đánh giá thực trạng thi hành án phạt tù đối với người dưới 18
tuổi tại tỉnh Bắc Ninh; chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của hạn
chế thiếu sót của công tác này. Cuối cùng đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ
bản về lý luận thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi; lấy thực trạng về
thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi tại tỉnh Bắc Ninh làm kết quả
3
khảo sát; không nghiên cứu về thi hành án phạt tù đối với người đang chấp hành
án ở trại giam, trại tạm giam.
- Thời gian: Kết quả nghiên cứu từ năm 2015-2019
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về thi hành án hình sự nói chung và thi hành án phạt tù nói riêng,
cũng như thành tựu của các ngành khoa học khác, như: Luật Thi hành án hình
sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa
học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng
trên tạp chí của một số nhà khoa học trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa
học khác để làm sáng tỏ vấn đề, như: Phương pháp thống kê, phương pháp phân
tích – tổng hợp, phương pháp tọa đàm, phương pháp chuyên gia…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Phân tích, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề thực
trạng thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi trong thời gian từ năm 2015
đến năm 2019 tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Đưa ra các luận giải khoa học về bản chất, ý nghĩa, yêu cầu trong việc
thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi ở nước ta trong thời gian tới; đưa
ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng Luật Thi hành án hình sự năm 2019
vào thực tiễn.
- Tăng cường sự nhận thức đúng đắn của nhân dân, cán bộ, công chức là
những người thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi và các cơ quan thi
hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi về bản chất, yêu cầu, ý nghĩa của thi
hành án phạt tù đối với nhóm đối tượng này.
- Góp phần bổ sung vào các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực thi hành
án hình sự, kết quả của luận văn là tài liệu tham khảo trong việc hoàn thiện các
4
quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi, nâng
cao hiệu quả thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án phạt
tù đối với người dưới 18 tuổi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật Việt Nam về thi hành án
phạt tù đối với người bị kết án dưới 18 tuổi
Chương 2: Thực trạng thi hành án phạt tù đối với người bị kết án dưới
18 tuổi tại tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả về thi hành án phạt tù đối với
người bị kết án dưới 18 tuổi tại tỉnh Bắc Ninh
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THI
HÀNH ÁN PHẠT TÙ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ KẾT ÁN DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Khái niệm người bị kết án phạt tù và thi hành án phạt tù
1.1.1. Khái niệm người bị kết án phạt tù
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Kết án”: Định tội và tuyên bố hình phạt (Tr
524, Từ điển Tiếng Việt Nhà xuất bản Hồng Đức 2016). Như vậy, theo cách
hiểu này thì “kết án” được hiểu là hoạt động định tội danh và tuyên bố hình
phạt cụ thể đối với người phạm tội. Đây là một hoạt động pháp lý được tiến
hành bởi Tòa án thông qua quá trình xét xử.
Từ sự phân tích nêu trên thì “người bị kết án phạt tù” được hiểu như sau:
“Người bị kết án phạt tù là người đã bị Tòa án tuyên bằng một bản án phạt tù
có thời hạn hoặc tù chung thân”
Người bị kết án phạt tù là người đã thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm
đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Trên cơ sở căn cứ vào tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
của đối tượng, Tòa án có thẩm quyền sẽ tuyên án đối với bị cáo bằng một hình
phạt cụ thể. Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 thì hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân được xác định là các hình
phạt chính trong hệ thống hình phạt. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, người bị
kết án sẽ phải vào cơ sở giam giữ phạm nhân để chấp hành án trong một khoảng
thời gian nhất định.
Nói cách khác, những người bị kết án sẽ phải bị cách ly khỏi xã hội và
chịu sự quản lý, giáo dục của cán bộ thi hành án. Thông qua đó, giúp họ nhận
ra tội lỗi của bản thân, chấp hành các quy định trong thi hành án phạt tù để trở
thành công dân lương thiện cho xã hội.
6
1.1.2. Khái niệm thi hành án phạt tù
Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự bao gồm hình phạt chính
và hình phạt bổ sung. Trong hệ thống hình phạt chính có hình phạt tù có thời
hạn và tù chung thân. Đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc
gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là
nhiệm vụ quan trọng và lâu dài của Đảng, Nhà nước, của toàn xã hội và của mọi
công dân. Điều 106 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm
2013 nêu rõ: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành”. Quy định này buộc các chủ thể phải chấp hành nghiêm
chỉnh bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Thi hành án phạt tù có thể được hiểu là đưa bản án phạt tù có thời hạn,
tù chung thân của Tòa án ra thi hành trên thực tế cho có hiệu quả. Khoản 4 Điều
3 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định “Thi hành án phạt tù là việc cơ
quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc người bị kết án
phạt tù có thời hạn, tù chung thân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục cải
tạo”. Thi hành án phạt tù là một hoạt động phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh
vực xã hội, nhiều ngành khác nhau. Mục đích của công tác thi hành án phạt tù
là quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo người phạm tội trở thành công dân lương
thiện có ích cho xã hội... Công tác quản lý, giáo dục, phòng ngừa phạm nhân
phạm tội mới, vi phạm Nội quy trại giam trong thời gian chấp hành án và không
tái phạm tội sau khi mãn hạn tù, tái hoà nhập cộng đồng thành công được xác
định là mục tiêu, mục đích cuối cùng của công tác thi hành án phạt tù.
Xuất phát từ truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, Nhà nước ta đã xác
định trại giam là nơi để giáo dục con người lầm lỗi, tạo mọi điều kiện thuận lợi
để những người bị kết án tù sớm trở thành người công dân lương thiện có ích
cho xã hội. Nhiều phạm nhân sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về cộng
đồng, không chỉ đoạn tuyệt với quá khứ tội lỗi, mà còn tích cực tham gia vào
7
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, gương mẫu, sống và làm việc theo
pháp luật, có ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm
pháp luật.
Thực chất thi hành án phạt tù là sự tiếp tục của quá trình tố tụng hình sự
nhằm bảo đảm thực thi có hiệu quả những bản án, quyết định phạt tù của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật. Hoạt động này được tiến hành dựa vào các văn bản
pháp luật Nhà nước và phải bảo đảm tính khoa học và tổ chức cao, vừa mang
tính chấp hành, điều hành rõ rệt và được thực thi trên thực tế.
Thi hành án phạt tù nhằm các mục đích: Trừng phạt đối với người phạm
tội, cách ly họ ra khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm răn đe,
giáo dục chung và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời,giáo dục
cải tạo những người phạm tội để họ trở thành người lương thiện, công dân có ích
cho xã hội; phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Như vậy, từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về công
tác Thi hành án phạt tù như sau:
Thi hành án phạt tù là hoạt động của cơ quan Nhà nước, người có thẩm
quyền trong việc tổ chức thi hành bản án, quyết đinh của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật, buộc những người bị kết án tù có thời hạn hoặc tù chung thân phải
chấp hành án tại các cơ sở giam giữ phạm nhân, nhằm quản lý giam giữ, giáo
dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật
và góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo đảm
an ninh trật tự.
1.2. Nhận thức chung về thi hành án phạt tù đối với người bị kết án
dưới 18 tuổi
1.2.1. Khái niệm thi hành án phạt tù đối với người bị kết án dưới 18 tuổi
Các quốc gia trên thế giới luôn quan tâm tới chính sách hình sự đối
với người chưa thành niên (mỗi một nước xác định độ tuổi người chưa thành
niên khác nhau, ở Việt Nam là người dưới 18 tuổi) bởi vì xuất phát từ đặc
8
điểm của nhóm đối tượng này, đây là đối tượng cần được bảo vệ và phải có
các chính sách đặc thù. Chẳng hạn như, chính sách hình sự của Nhà nước ta
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội luôn quá triệt quan điểm đối xử nhân
đạo, như: Không áp dụng hình phạt tù chung thân và hình phạt tử hình đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội, các chế độ, chính sách của Nhà nước đối
với người bị kết án dưới 18 tuổi luôn cao hơn so với chính sách đối với người
bị kết án là những người trưởng thành.
Vấn đề áp dụng hình phạt và thi hành án phạt tù đối với người dưới 18
tuổi phạm tội vẫn hướng đến để trừng trị và giáo dục. Đồng thời, thi hành án
phạt tù đối với người dưới 18 tuổi còn nhằm giúp họ sửa chữa sai lầm, uốn
nắn, phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Từ sự phân tích trên “thi hành án phạt tù đối với người bị kết án dưới
18 tuổi” được hiểu:
“Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án dưới 18 tuổi là việc cơ
quan và người có thẩm quyền dựa trên các quy định của pháp luật để tổ chức
thực hiện bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, qua đó đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật, uốn nắn, giáo dục người phạm tội, ngăn
ngừa họ phạm tội mới”.
Trong thực tiễn thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi là hoạt
động của cơ quan thi hành án có thẩm quyền thực hiện đối với người đang chấp
hành án ở trại giam, trại tạm giam; người bị kết án phạt tù dưới 18 tuổi nhưng
chưa thi hành do gặp phải những điều kiện cụ thể chưa thực hiện được (chưa
có quyết định thi hành án; bản án chưa có hiệu lực pháp luật… ). Tuy nhiên, do
thực tiễn nghiên cứu luận văn chỉ nghiên cứu việc thi hành án của cơ quan,
người có thẩm quyền đối với người bị kết án tù dưới 18 tuổi trên địa bàn cụ thể.
1.2.2. Nhiệm vụ, yêu cầu của thi hành án phạt tù đối với người bị kết
án dưới 18 tuổi
1.2.2.1. Nhiệm vụ của thi hành án phạt tù đối với người bị kết án dưới 18 tuổi
9
- Quản lý chặt chẽ và tổ chức thi hành các bản án, quyết định phạt tù của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật
Đây là một nhiệm vụ quan trọng, là bước khởi đầu cho việc tổ chức thi
hành án phạt tù. Thực hiện có kết quả nhiệm vụ này là bảo đảm cho việc thực
thi có hiệu quả các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Đồng thời bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật theo nguyên tắc “đã phạm
tội thì không tránh khỏi bị trừng phạt”. Nội dung cơ bản của nhiệm vụ này là
phải theo dõi, nắm chắc những bản án, quyết định phạt tù của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật để buộc người bị kết án phạt tù trong thời gian luật định phải được
đưa đến trại giam để chấp hành án, không được quên, chậm trễ hoặc để cho
người bị kết án coi thường, trốn tránh pháp luật.
Theo quy định của pháp luật cũng như trên thực tế, việc quản lý, theo dõi
những bản án, quyết định phạt tù của Toà án và việc tổ chức thi hành nó có liên
quan đến hoạt động chức năng của những cơ quan hành pháp, tư pháp, tuy nhiên
trong đó lực lượng Công an nhân dân ở các cấp có vai trò nòng cốt và trực tiếp
thi hành.
- Quản lý, giáo dục người bị kết án dưới 18 tuổi trong thi hành án phạt tù
+ Quản lý giam giữ người bị kết án dưới 18 tuổi trong thi hành án phạt
tù nghiêm ngặt, chặt chẽ
Phạm nhân là những người phạm tội, vi phạm pháp luật. Xét dưới góc độ
quản lý Nhà nước họ phải bị quản lý, dưới góc độ pháp luật họ phải bị trừng trị
để trả giá cho những hành vi tội lỗi mà trước đây họ đã gây ra cho xã hội. Xét
trên nhiều phương diện chính trị, đối nội, đối ngoại, pháp luật, nghiệp vụ đấu
tranh phòng, chống tội phạm…
Trong quá trình chấp hành án, đa số những người bị kết án dưới 18 tuổi
đều thức được lỗi lầm, ăn năn hối cải, tích cực trong lao động, học tập cải tạo
để sớm được tái hoà nhập cộng đồng. Tuy nhiên, còn một bộ phận các đối tượng
khác vẫn không nhận thức được tội lỗi, luôn có âm mưu và hành động chống
10
đối cải tạo như chống phá, trốn trại, phạm tội mới, vi phạm nội quy kỷ luật.
Chính vì vậy, việc quản lý các đối tượng này góp phần đảm bảo an toàn các cơ
sở giam giữ phạm nhân.
Để quản lý tốt người bị kết án dưới 18 tuổi phải làm tốt công tác bình
xét, xếp loại thi đua chấp hành án của từng đối tượng hàng tháng, năm một cách
công khai, bình đẳng, dân chủ và chính xác. Đây là cơ sở đề nghị và các cơ
quan Nhà nước áp dụng các chính sách khen thưởng, xét giảm án, đặc xá…
đảm bảo chính xác, đúng người, đúng chính sách và pháp luật. Trong quá trình
chấp hành án người bị kết án dưới 18 tuổi có quá trình cải tạo tốt, hay lập được
công, có thành tích xuất sắc được khen thưởng hoặc những đối tượng có hành
vi vi phạm bị Giám thị trại giam xử lý kỷ luật đều phải được thể hiện thành văn
bản và lưu trong hồ sơ để làm cơ sở nghiên cứu, theo dõi và áp dụng chính sách.
+ Giáo dục người bị kết án dưới 18 tuổi trong thi hành án phạt tù nhận rõ
tội lỗi, nghiêm chỉnh chấp hành án, tích cực học tập, lao động để trở thành
người lương thiện, có ích cho xã hội
Giáo dục người bị kết án dưới 18 tuổi trong thi hành án phạt tù thành
người tốt có ích cho xã hội là yêu cầu cao nhất và cũng là mục đích chủ yếu
cần phải đạt được của công tác thi hành án phạt tù, thể hiện bản chất nhân đạo
của Đảng, Nhà nước ta.Đồng thời, cũng thể hiện tính triệt để và sâu sắc trong
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
Giáo dục người bị kết án dưới 18 tuổi nhằm xây dựng và phát triển nhân
cách của họ theo các yêu cầu của xã hội, sẽ từng bước xóa bỏ những phẩm chất
nhân cách xấu, xây dựng hình thành ở phạm nhân dưới 18 tuổi những phẩm
chất nhân cách tốt, phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Khi đề cập đến giáo dục
phạm nhân là đã hàm chứa nội dung cải tạo. Thực tế, bản chất của giáo dục
phạm nhân là giáo dục lại những con người phạm tội, quá trình đó có nhiệm vụ
phát hiện những phẩm chất nhân cách tiêu cực để sử chữa, xóa bỏ, đồng thời
khôi phục, xây dựng, hình thành nhân cách phạm nhân phù hợp với các đòi hỏi
11
của thực tiễn xã hội. Đối tượng của công tác giáo dục người bị kết án dưới 18
tuổi là những người đã thực hiện hành vi phạm tội, đã bị Toà tuyên án bằng bản
án đã có hiệu lực pháp luật và buộc họ phải chấp hành hình phạt tù ở các cơ sở
giam giữ phạm nhân. Trong quá trình chấp hành án họ bị cách ly ra khỏi đời
sống xã hội, hạn chế một số quyền cơ bản của công dân, chính điều này đã tác
động mạnh đến tâm lý, tình cảm, ý chí của phạm nhân và quá trình chấp hành
án của họ. Đây là quá trình cán bộ quản lý sử dụng tổng hợp các biện pháp tác
động giáo dục làm thay đổi nhận thức, thái độ và thói quen hành vi tiêu cực của
phạm nhân là người dưới 18 tuổi, tạo động lực thúc đẩy quá trình cải tạo, hình
thành và phát triển nhân cách chuẩn mực cho họ. Trên cơ sở đó, xây dựng và
tổ chức lại hệ thống các hoạt động cho phạm nhân là người dưới 18 tuổi gắn
liền với cuộc sống xã hội, từ điều kiện ăn, ở, sinh hoạt đến hoạt động học tập,
lao động và dạy nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tái hòa nhập cộng
đồng sau khi phạm nhân là người dưới 18 tuổi chấp hành xong hình phạt tù.
1.2.2.2. Yêu cầu của thi hành án phạt tù đối với người bị kết án dưới 18 tuổi
- Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án dưới 18 tuổi phải tuân thủ
Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân
Trong quá trình thực hiện công tác thi hành án phạt tù đối với người bị
kết án dưới 18 tuổi đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp
luật về thi hành án phạt tù, cụ thể là:
+ Mọi hoạt động thi hành án phạt tù phải thực hiện đúng các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, các hướng dẫn về cách làm, cách
giải quyết và những điều cấm...
+ Chế độ chính sách, các quy định của pháp luật đối với đối với người bị
kết án dưới 18 tuổi phải được thực hiện một cách công khai, công bằng, dân
chủ và minh bạch trong các cơ sở giam giữ phạm nhân.
12
+ Những người bị kết án dưới 18 tuổi, khi bản án có hiệu lực pháp luật
phải được thi hành ngay một cách nghiêm chỉnh, không được để chậm trễ với
nguyên tắc đã phạm tội thì không tránh khỏi hình phạt, người có quyết định
phạt tù phải bị đưa vào trại giam để chấp hành án, nếu không tự giác thực hiện
phải bị cưỡng chế theo luật định, người có án phạt tù bỏ trốn phải tổ chức truy
bắt đưa vào trại giam để chấp hành án.
+ Trong thời gian chấp hành bản án, chấp hành quyết định những người
bị kết án dưới 18 tuổi phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật thi hành án phạt
tù Mọi hành vi vi phạm phải bị xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.
+ Mọi hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án phạt tù của
các cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà nước phải bị xử lý nghiêm minh theo pháp
luật, tuyệt đối không được vì bất cứ lý do gì mà bao che, bỏ qua hoặc dung túng.
- Bản án, quyết định phạt tù có hiệu lực thi hành phải được cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh
+ Khi bản án phạt tù có hiệu lực pháp luật, Chánh án Tòa án xét xử sơ
thẩm phải kịp thời ra quyết định thi hành, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể
từ ngày ra quyết định thi hành án phạt tù, Tòa án đã ra quyết định phải gửi quyết
định thi hành án cho người chấp hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi
hành án hình sự cấp tỉnh, huyện, trại tạm giam, nhà tạm giữ, sở tư pháp nơi Tòa
án đã ra quyết định thi hành có trụ sở để thi hành.
+ Sau khi nhận được quyết định thi hành án phạt tù của Tòa án, cơ quan
Thi hành án hình sự các cấp phải tổ chức thi hành theo chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và quy định của pháp luật.
Trường hợp người bị kết án phạt tù đang bị tạm giam thì trong thời hạn
03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, trại tạm giam
thuộc Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải
tống đạt quyết định thi hành án cho người bị kết án và báo cáo cơ quan thi hành
án hình sự Công an cấp tỉnh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
13
được báo cáo, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoàn chỉnh hồ sơ,
lập danh sách người chấp hành án phạt tù để báo cáo cơ quan quản lý thi hành
án hình sự thuộc Bộ Công an. Trường hợp người bị kết án phạt tù đang bị tạm
giam tại trại tạm giam thuộc Bộ Công an thì trại tạm giam phải tống đạt quyết
định thi hành án cho người bị kết án, hoàn chỉnh hồ sơ và báo cáo cơ quan quản
lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của cơ
quan Thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoặc trại tạm giam thuộc Bộ Công
an, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an ra quyết định đưa
người chấp hành hình phạt tù tại các trại giam.Trong thời gian người có quyết
định đi chấp hành hình phạt tù đang chờ chuyển đến trại giam, người chấp hành
án được hưởng chế độ như đối với phạm nhân.
Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì trong thời hạn 07
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, người chấp hành án phải
có mặt tại trụ sở cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện được chỉ định
trong quyết định thi hành án. Quá thời hạn trên mà người đó không có mặt,
Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp thực hiện áp giải thi hành án.
Trường hợp người bị kết án tù bỏ trốn, cơ quan thi hành án hình sự phối hợp
với Công an địa phương, các lực lượng khác tổ chức truy bắt.
- Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án dưới 18 tuổi chủ yếu nhằm
giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người
có ích cho xã hội
Chính sách pháp luật của Nhà nước ta đối với những người dưới 18 tuổi
phạm tội là nhằm mục đích để giáo dục họ. Những người dưới 18 tuổi bị xử
phạt tù phải là người đã thực hiện những hành vi phạm tội rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, ở độ tuổi này về thể chất và tinh thần của họ
còn non nớt, chưa phát triển ổn định, vững vàng như người đã trưởng thành.
14
Do đặc điểm của người dưới 18 tuổi mà pháp luật nước ta hiện nay cũng
đã quy định nguyên tắc khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm bảo đảm
sự đặc biệt của nhóm đối tượng này như sau: Việc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra,
truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi, các cơ quan có thẩm
quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện trong quá trình thực hiện hành
vi phạm tội.
Các quy định trong pháp luật hiện nay đề cao việc giáo dục, giúp đỡ
người dưới 18 tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh trở thành
công dân có ích cho xã hội là mục đích chủ yếu. Mọi biện pháp áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định trong pháp luật nước ta đảm bảo
phù hợp với hoàn cảnh và tương xứng với tính chất và mức độ vi phạm của
người dưới 18 tuổi. Việc buộc người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình là nhằm mục đích để các em nhận thức sâu sắc rằng hành vi
phạm tội của các em đã vi phạm các chuẩn mực và quy tắc của nhà nước và của
xã hội.
Tuy nhiên, biện pháp xử lý đối với người dưới 18 tuổi được ghi nhận
trong Bộ luật Hình sự được xem xét không chỉ đơn thuần dựa vào tính chất và
mức độ nghiêm trọng của hành vi cũng như hậu quả do hành vi đó gây ra, mà
còn tính đến hoàn cảnh riêng của các em, bởi vì mục đích của hình phạt và việc
áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi không phải chỉ là để trừng phạt
người vi phạm, mà còn nhằm hỗ trợ người vi phạm phục hồi và tái hòa nhập
cộng đồng. Việc xét xử, thi hành án người dưới 18 tuổi chỉ đặt ra trong những
trường hợp thật cần thiết, nếu có phải áp dụng hình phạt đối với các em thì cũng
lấy mục đích giáo dục, cải tạo là chủ yếu, không để hình ảnh của pháp luật tồn
15
- Xem thêm -