Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thế giới nhân vật trong sáng tác của tạ duy anh...

Tài liệu Luận văn thế giới nhân vật trong sáng tác của tạ duy anh

.PDF
110
116
86

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------***------------- PHẠM QUỲNH DƯƠNG THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA TẠ DUY ANH LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Mai Thị Hương Hà Nội - 2008 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học sau 1975 và cách nhìn đổi mới về con người. Sau năm 1975, nền văn học Việt Nam thực sự có rất nhiều khởi sắc. Có thể nói, “chưa bao giờ, văn xuôi phát triển mạnh mẽ như bây giờ và cũng chưa bao giờ, nhà văn được thành thật như bây giờ “. Trên nền thời đại bộn bề “đa sự, đa đoan ấy, văn chương vẫn hút nhựa từ cuộc sống để đem lại những sáng tác đa diện nhiều chiều”. Thế giới nhân vật của một nhà văn được hình thành từ quan niệm nghệ thuật về con người. Văn học trước 1975 quan niệm con người sử thi, con người cao cả bách chiến, bách thắng. Sau 1975, con người trở nên phức tạp, nhiều chiều. Trong tâm hồn mỗi con người luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa cái cao thượng và thấp hèn, nhân đạo và độc ác, con người làm chủ hoàn cảnh nhưng có khi lại là nạn nhân của hoàn cảnh. Một hiện thực đa dạng sau chiến tranh kéo theo hệ thống nhân vật sinh động hơn. Nhân vật của Nguyễn Minh Châu không phải là “cây đàn độc điệu” thuần âm vực cao hay thấp, sáng hay tối, trong hay đục, thiện hay ác… Nhân vật tự vấn, tự soi vào bức tranh tâm hồn nhiều hơn ( Bức tranh, phiên chợ Giát…). Nhân vật dám chống lại những cấm đoán vô lý của ông cha để gây dựng tình yêu trên mảnh đất thù hận (Bến không Chồng). Nhân vât coi chiến tranh là môi trường thử thách nên khi bị mất môi trường sống, bước 1 chân khỏi chiến tranh đã cảm nhận được ngay cái lạc loài thế hệ (Nỗi buồn chiến tranh).Bị kịch cá nhân đánh mất bản thân mình vì cộng đồng (Thời xa vắng). Đặc biệt, tiếng nói của nhân vật không còn trùng khít với tiếng nói của độc giả, có khi hoàn toàn độc lập. Điều này ta thấy ở những nhân vậtbản năng của Nguyễn Huy Thiệp (Không có vua, những người thợ xẻ…). 1.2. Những sáng tác của Tạ Duy Anh như một “Miền đất hứa”. Với tiểu thuyết Thiên thần sám hối. Tạ Duy Anh là “một hiện tượng văn học nổi bật”, gương mặt nhà văn tiêu biểu trong năm 2004. Tác phẩm này được săn lùng với tốc độ đáng nể: tái bản 5 lần trong năm đó, số lượng lên đến gần 20000 bản. Theo đường lan truyền tự nhiên, người ta tìm đến Tạ Duy Anh, cũng có khi là một cơn sốt thời thượng. Người ta chợt nhớ ra, đây là nhà văn đã được biết đến khi truyện ngắn “Bước qua lời nguyền” đoạt giải thưởng trong cuộc thi viết về nông thôn - nông nghiệp do tuần báo Văn nghệ, báo Nông nghiệp và Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức năm 1989. Giới phê bình và độc giả sành thưởng thức văn chương thì bắt đầu lần lại những sáng tác của Tạ Duy Anh để tìm hiểu thực chất Tạ Duy Anh là ai và có gì đáng chú ý? Đây là nhà văn của các tiểu thuyết: Khúc dạo đầu( 1991), Lão khổ(1992), Đi tìm nhân vật(2002), Thiên thần sám hối(2004), Giã biệt bóng tối(2008), cùng với các tập truyện ngắn liên tiếp được xuất bản với sự đón nhận nông nhiệt của bạn đọc, Mọi lời bình luận vẫn được tìm đọc trên các báo và các trang web văn học. 2 Thực tế ấy tạo nên một “miền đất hứa” trong sáng tác của Tạ Duy Anh, một vùng đất mới trong nghệ thuật tiểu thuyết nhấp nháy tín hiệu và vẫy gọi khám phá, “miền đất hứa” hiểu theo cả nghĩa: sáng tác Tạ Duy Anh cho chúng ta niềm hi vọng vào các sáng tác của nhà văn trong tương lai. 1.3. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh Sáng tác Tạ Duy Anh gây hiệu ứng đa chiều ở độc giả. Tất cả tạo nên những vòng sóng từ trường trong dư luận về nhà văn. Tất nhiên có từ trường mạnh, có từ trường yếu, cả những từ trường giao đẩy nhau, đặt ra vấn đề cần phải nhìn nhận một hiện tượng văn học, một tác phẩm văn học như thế nào cho đúng đắn, đặc biệt là về thế giới nhân vật - một phương diện rất quan trọng trong một sáng tác nghệ thuật. Có thể nói, Tạ Duy Anh đã đem đến cho người đọc một cái nhìn đa diện về con người về cuộc đời để rồi đi vào sáng tác của ông cũng là một thế giới đầy phức tạp. Thế giới ấy mang tính chiều sâu nhân bản, đem đến cho cõi đời một tiếng chuông khiến ta phải giật mình. Thế giới bản thể ta chưa khám phá hết, chỉ cảm nhận rằng có thể nó tồn tại. Và Tạ Duy Anh đã đánh thức khiến ta giật mình: có thể vì ta mà nó tồn tại. Vì vậy khám phá thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh là một điều vô cùng lý thú. 1.4. Kẻ xa lạ đến gần người xa lạ Nếu xét tương quan giữa tác giả và độc giả, ban đầu là tương quan không nối kết giữa người xa lạ với một kẻ xa lạ thì hành trình độc giả tìm 3 đến tác giả thông qua tiếp cận tác phẩm là con đường kẻ xa lạ đến gần người xa lạ. Người viết cũng chỉ là một kẻ xa lạ, đến gần một người xa lạ, vì thứ ánh sắc chợt loé lên trên văn đàn tiểu thuyết Việt Nam, mong tự giải mã hơn là phán xét, phê bình. Luận văn này chỉ là một con đường người viết nhận ra trong muôn vàn con đường khả dĩ tiệm cận được với tác phẩm của nhà văn. 2. Lịch sử vấn đề Sau năm 1975, Đại hội Đảng VI đã khẳng định: Sự đổi mới trong văn học diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ. Hoà trong dòng chảy chung của văn học, Tạ Duy Anh đã trở thành một hiện tượng đặc biệt có từ trường mạnh và từ đó, xuất hiện những ý kiến bàn chung đến sự đổi mới hiện thực của văn xuôi trong đó có sáng tác của Tạ Duy Anh và những ý kiến bàn riêng về sáng tác Tạ Duy Anh. 2.1. Những ý kiến gián tiếp có liên quan đến đề tài. Bài viết Văn xuôi những năm và vấn đề dân chủ hoá nền văn học có viết “ Nở rộ trong văn xuôi những năm 1980 là những tác phẩm viết về sự mưu cầu hạnh phúc cá nhân và nỗi khát khao tình yêu đôi lứa.... Dấu hiệu chủ yếu của việc dân chủ hoá nền văn học là sự dân chủ hoá trong quan niệm về con người, trong cách nhìn nhận con người bình thường và các nhà văn quan tâm là “cốt cách tâm lý, thế giới bên trong, những động cơ tiềm ẩn cùng những phản ứng trước những biến đổi thời thế “ trong đó “ ý hướng đi vào thế giới nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con người đích thực là ý hướng có triển vọng của một nền văn học dân chủ “. 4 Tác giả bài viết Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật sau 1975 [8] cũng cho rằng: “Nhân vật trong văn xuôi sau 1975 rõ ràng ít tính lí tưởng, không hoàn hảo, sạch sẽ, không được bao bọc trong bầu không khí vô trùng”. 2.2. Những ý kiến liên quan trực tiếp đến đề tài: Lê Đạt nói: “ Chỉ khi nào bắt đầu có môt ngôn ngữ riêng nhà thơ mới thật sự trở thành trẻ”. Mở rộng ra, điều ấy có nghĩa: khi một nhà văn bắt đầu được nhận diện bởi thứ ngôn ngữ của mình, lúc ấy anh ta mơí là một nhà văn trẻ. Trong một khoảng đối sách gần, so với Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Hướng, Bảo Ninh .... Tạ Duy Anh là một nhà văn trẻ, cùng lứa với Hồ Anh Thái, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Bình Phương... Nhà văn mới có tên trong chương trình văn học lớp 6 (Bộ sách giáo khoa thí điểm, NXB giáo dục) với truyện ngắn “Bức tranh của em gái tôi”. Như vậy với một nhà văn trẻ, dư luận có thể nhiều nhưng lịch sử nghiên cứu sáng tác của anh ta lại là cuốn sổ còn bỏ ngỏ. Tác phẩm Tạ Duy Anh chưa được nghiên cứu, phê bình đầy đủ, rộng rãi nhất là chưa được nhìn nhận đúng mực những đóng góp trong công cuộc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết đang diễn ra ở hầu khắp các nhà văn hiện nay. Thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh chưa phải là một vấn đề bị bó buộc bởi con mắt soi chiếu của giới phê bình. Có nghĩa, vấn đề này chưa được hoàn kết bởi một hệ thống đánh giá cố định nào toàn diện, cụ thể và đến độ soi chiếu về sáng tác Tạ Duy Anh, GS Hoàng Ngọc Hiến đã ghi nhận với truyện ngắn Bước qua lời nguyền : Ý nghĩa của truyện ngắn không 5 chỉ dừng lại ở giá trị nhân văn mà còn mang tầm vóc lịch sử “Chuẩn bị bước vào thế kỉ XXI”. “Những lời nguyền nào là đáng nguyên rủa, những lời nguyền nào nhân loại trước sau phải bước qua? Phải chăng câu hỏi cấp thiết này được đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia?”. Truyện của Tạ Duy Anh là tín hiệu của một dòng văn học mới, “dòng văn học bước qua lời nguyền”. [5;140] Tạ Duy Anh là một cây bút viết truyện ngắn nhưng sau thành công đầu tiên và sau tiểu thuyết Khúc dạo đầu không gây được tiếng vang, nhà văn lại nổi lên với bộ ba tiểu thuyết : Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối và mới gần đây là tiểu thuyết Giã biệt bóng tối. GS Hoàng Ngọc Hiến tiếp tục khẳng định : “ Tạ Duy Anh bước qua lời nguyền để đi đến đi Lão Khổ. Thêm một giả thiết văn học về bản chất và thân phận người nông dân Việt Nam . Đây là một cuốn tiểu thuyết rất quan trọng”. [5;140] Báo thể thao văn hoá số 47 năm 2004 đã đưa ra nhận định: “Có thể coi ông là nhà văn của đạo đức,văn chương ông có lúc hiện lên bằng một gương mặt thế sự, đớn đau, riết róng chuyện thánh thiện, tàn ác, liêm sỉ và vô lương nhưng không phải như những khái niệm truyền bản chết khô, mà thông qua sự cảm nhận đau đớn về số phận”... “mối quan tâm lớn nhất của Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh mất mình của con người dưới dự giằng giật xiêu dạt của lịch sử. Trên con đường truy tìm lại mặt mình, cũng như khả dĩ gương mặt thực của quá khứ, con người vấp phải và bị phong toả bởi thói gian trá, đớn hèn, vật dụng, tàn ác, kể cả trong mỗi cá nhân. Phúc âm duy nhất là tình yêu, tình cảm trong sáng bản thể của hiện tại và cái nhìn trung thực, nhân đạo đối với những vết thương , lỗi lầm của qúa khứ”. 6 Báo Pháp luật số 140 năm 2004 đưa ra nhận định “hầu hết những tác phẩm của ông (trừ truyện viết cho thiếu nhi và tản văn) đều rất gai về nội dung thể hiện [21] dưới cái nhìn hiện thực ở góc khuất”. Đi tìm nhân vật là “Bức tranh hiện thực ngọt ngào của quyền lực, cái chết, sự đồi bại... còn Thiên thần sám hối là một cuốn tiểu thuyết rất hay gần đây viết về nỗi đau làm người và chưa được làm người qua câu chuyện của một hài nhi đang lựa chọn có nên làm người hay không” [5;405]. Nhà văn đã cho bạn đọc cái nhìn thẳng vào sự thật chát chúa “ ông là một tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con người, nhất là khi họ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng nhân cách. Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực một cách lý trí, lạnh lùng nhưng cũng đầy thương xót con người”. Báo giáo dục và thời dại số 80 năm 2004 cũng đặt câu hỏi: “Số phận con người phải chăng luôn là sự trăn trở, dằn vặt trong ông” và tác giả bài báo cũng đưa ra câu trả lời: “Nhân vật vào của ông cũng thấp thoáng bóng dáng của một người sinh ngày 9 tháng 9 tại làng Đồng” [20]. Bài Tạ Duy Anh quả lằn ranh thiện ác [38] gọi tác giả là “nhà văn của những thời điểm” “đã đưa ra một số cái nhìn cơ bản về quan niệm của tác giả về con người: “Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian, nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình. Người xấu thì cực xấu như lão Phụng... người đẹp thì như hoa như ngọc như Quỳnh Anh, bà Ba như những sản phụ chờ sinh. Nhưng bản chất con người thì luôn luôn ở ranh giới thiện - ác. Nhân vật nào cũng luôn luôn bị đặt trong trạng thái đấu tranh với xã hội với môi trường, với kẻ thù, với người thân,với chính bản thân mình . Đã thế nhà văn lại có cái giọng rất quyết liệt, nhiều hình dung từ và động từ mạnh, chõi 7 nhau...” nhà văn lắm lúc quằn quại rên rỉ vì không ngăn nổi một hành động ác, cũng có khi “lạnh lùng cố ý trước một sự trả thù”. Nói về thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh, nhà văn Nguyên Ngọc trong bài viết Văn xuôi Việt Nam hiện nay, lôgíc quanh co của các thể loại, những vấn đề đặt ra và triển vọng đã nêu nhận định “ Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh gói gọn trong nửa trang cả một cuộc đời, một kiếp sống, mấy kiếp người vừa là tác giả vừa là nạn nhân của những bi kịch đằng đẵng một thời” (evan.com.vn) Tạ Duy Anh luôn theo đuổi nhân vật “vừa là tác giả, vừa là nạn nhân của những bi kịch”. Trong bài viết Tạ Duy Anh - người đi tìm nhân vật Tác giả Thuỵ Khuê đã nhận thức về nhân vật Tạ Duy Anh với cái nhìn lịch sử: “Những nhân vật của Tạ Duy Anh qua bao tác phẩm từ hơn mười năm nay vẫn gắn bó mật thiết với nhau trong một tương quan chặt chẽ, họ hàng, làng nước. Họ xuất thân cùng ở làng Đồng, họ cùng tiềm ẩn thù hận dòng họ, hận thù giai cấp...”. Từ những nhận định trên, sự tìm tòi về thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh được nhìn nhận trên các phương diện sau. 1. Về nội dung: Tạ Duy Anh đi sâu vào mảng hiện thực của đời sống hiện đại, đưa ra cái nhìn đổi mới về con người: “Mối quan tâm lớn nhất của Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh mất mình của con người, dưới sự giằng giật, xiêu dạt của lịch sử... Phúc âm duy nhất là tình yêu, tình cảm trong sạch bản thể của hiện tại và cái nhìn trung thực, nhân đạo đối với những vết thương, lỗi lầm của quá khứ. Bí ẩn của sự 8 tồn tại được đặt ra cùng câu hỏi về thân phận của thế hệ tương lai trên miệng vực cái ác, chứa đựng những ẩn số lớn về con người và nhân thế [5;374]. Nhân vật văn học là phương tiện tất yếu và quan trọng nhất giúp nhà văn khái quát các tính cách xã hội và mảng đời sống gắn liền với nó. Tạ Duy Anh đã cho thấy một khả năng dự cảm chân thật về bản chất hiện tồn của con người. Qua nhân vật, nhà văn đã kiến giải về con người: Con người là ai? Vì sao nó đau khổ? Vì sao tha hoá... để người đọc có thể tự tìm ra cho mỗi nhân vật một hướng đi đúng đắn để tồn tại, vươn lên trong thế giới loài người. 2. Về nghệ thuật: Sự lao động nghiêm túc của nhà văn thể hiện một nỗ lực tìm tòi đổi mới kỹ thuật viết của mình. Nhà văn đã có những phá cách về mặt lối viết, cốt truyện tạo dựng không gian, thời gian nghệ thuật làm nền cho nhân vật với hệ thống ngôn ngữ phong phú đa thanh phức điệu, cách viết ẩn dụ, ngụ ngôn, hiện thực huyền ảo... Tất cả đã thể hiện được phong cách đổi mới của ông trong cách nhìn nhận, khám phá thế giới nhân vật. Trong phạm vi nghiên cứu nhà trường, tác phẩm Tạ Duy Anh đã được tìm hiểu trong một số luận văn thạc sĩ sau: - Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Nguyễn Thị Mai Loan) - Cảm thức về cái Phi Lý trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Cao Tố Uyên) - NT kết cấu trong thuyết “Đi tìm nhân vật” của Tạ Duy Anh (Nguyễn Thị Ninh) 9 - Tạ Duy Anh - từ quan niệm NT đến những đổi mới trong sáng tác truyện ngắn (Phạm Thị Hương) - Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Tạ Duy Anh (Bùi Thanh Tùng)… Với góc độ khám phá riêng biệt, luận văn này muốn tổng hợp lại từ những nhận định trên để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh đồng thời muốn ghi nhận đóng góp của nhà văn đối với văn xuôi thời kì đổi mới. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng của luận văn là thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh Phạm vi của Luận văn tập trung vào 4 tiểu thuyết của Tạ Duy Anh 1.Lão khổ 2. Đi tìm nhân vật 3. Thiên thần sám hối 4. Giã biệt bóng tối Và một số truyện ngắn tiêu biểu trong các tập truyện ngắn của Tạ Duy Anh :Bước qua lời nguyền, Luân hồi, Ba đào kí, Nhân vật... 10 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng những phương pháp chủ yếu: - Phương pháp lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết Tạ Duy Anh trong thời kỳ đổi mới để thấy sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. - Phương pháp phân tích tác phẩm văn học: Dựa vào đặc trưng thể loại để làm sáng tỏ nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật trong tác phẩm của nhà văn. - Phương pháp so sánh: So sánh đồng đại và lịch đại so sáng với những sáng tác khác để tìm ra những nét riêng biệt của Tạ Duy Anh. - Phương pháp hệ thống: Đề tài được đặt trong hệ thống tác phẩm của Tạ Duy Anh để xem xét, đánh giá và phát hiện cái nhìn nhận, thể hiện con người trong quá trình sáng tác của nhà văn. 5. Đóng góp của Luận văn Nghiên cứu một cách có hệ thống về nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh nhằm khẳng định thành công cũng như hạn chế trong sáng tác của nhà văn qua đó thấy được sự đổi mới về tư duy nghệ thuật cũng như khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn xuôi đương đại. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, luận văn dự định triển khai 3 chương: 11 Chương I: Tạ Duy Anh và sự đổi mới sáng tác Chương II: Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh Chương III: Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tạ Duy Anh Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết chủ tâm học tập và chịu nhiều ảnh hưởng về phương pháp tư duy cùng với cách sử dụng ngôn ngữ của một số nhà nghiên cứu, các thầy cô và bè bạn, đặc biệt, người trực tiếp hướng dẫn tôi - cô - Mai Hương. Vì điều kiện thời gian nghiên cứu không nhiều và kiến thức còn hạn chế, luận văn khó trách khỏi những thiếu sót và chủ quan khi nhìn nhận vấn đề. Rất mong nhận được sự góp ý tận tình của thầy cô và các bạn. Hoàn thành luận văn này tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bè bạn. Và tới sự nhiệt tình, bao dung của cô! 12 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TẠ DUY ANH VÀ SỰ ĐỔI MỚI TRONG SÁNG TÁC 1.1. “Làm mới” như là một xu hướng thể nghiệm của các nhà văn Việt Nam hiện nay. Văn chương tự nó là một cách làm mới cuộc sống. Nhưng làm mới văn chương phụ thuộc vào cách viết của mỗi người. Nhà văn luôn phải thay đổi, tránh lặp lại mình. “Với tư cách người viết, những dòng chữ xuất hiện một cách tự phát, hồn nhiên và dễ dãi nhất, thường là những dòng chữ đáng ngờ vực (ảnh hưởng)” của những người trước đó. Nói theo bài giảng, phải xoá bỏ những câu thơ “tèm nhem tâm hồn” ấy, chống lại chính bản thân mình, phải tái tạo chính mình chứ không chủ đơn giản là thành thật với chính mình [39;61]. Không phải là mạnh mẽ, song văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới đã có bước chuyển mình so với văn học giai đoạn trước đó. Cú vặn mình có thể bắt đầu từ Nguyễn Minh Châu với Bức tranh, Phiên Chợ Giát, Người đàn và trên chuyến tàu tốc hành Nguyễn Khải với Gặp gỡ cuối năm, thời gian của người... đã khiến cho các cây bút giật mình nhận ra “từ nay không còn có thể viết như trước nữa... phải thay đổi... phải viết khác đi, “Cần tìm cho mình một ngôn ngữ nghệ thuật khác”( Nguyên Ngọc). Lê Lựu nói : “Tôi tự bảo không thể viết như cũ được nữa” Nguyễn Minh Châu:”Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”. Đây là một nhu cầu tự thân của giới văn nghệ sĩ, cũng phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng ta được đề ra từ Đại hội Đảng lần VI: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức 13 thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy,chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn, thực hiện được những mục tiêu do Đại hội lần thứ VI đề ra. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị khuyến khích văn nghệ đổi mới: “Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra với quy mô, tốc độ chưa từng thấy trên thế giới và việc giao lưu giữa các nước, các nền văn hoá ngày càng mở rộng, văn hoá, văn nghệ nước ta ngày càng đổi mới, đổi mới mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm”, “Đảng khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, khuyến khích và yêu cầu có những thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, phát triển các loại hình nghệ thuật, các hình thức biểu hiện”. Rồi một loạt những tiểu thuyết ra đời: Thời xa vắng (Lê Lựu), Thân phận của tình yêu ( Bảo Ninh), Bên kia bờ ảo vọng (Dương Thu Hương), Bến không chồng, (Dương Hướng). Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường)”.... truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh... thơ Lê Đạt, Dương Tường, Hoàng Cầm... đã làm nên một trào lưu có tên là đổi mới Đổi mới trong văn chương, nói như Nguyên Ngọc. Đó là trào lưu mạnh dạn phơi bày cái tiêu cực của xã hội, nhận chân lại các giá trị của lịch sử, “Nói lên sự thật trần trụi, đưa ra khỏi bóng tối, phơi bày ra dưới mắt mọi người tất cả các mặt tiêu cực của xã hội, của đời sống đất nước sau chiến tranh, các mặt trước nay vẫn bị dồn nén lại, che giấu cẩn then” [ 31]. Cái bản ngã, cái cá nhân cá thể muốn được khẳng định lại; một bản lĩnh sáng tạo có điều kiện được chăm chút hơn với những sự tiếp thu tinh hoa văn học mới của thế giới dẫn đến những bung phá về nghệ thuật, chảy tràn ngôn ngữ của “dòng ý thức” những độc thoại nội tâm triền miên, kết cấu tác phẩm hiện 14 đại từ những mảng ghép phi trình tự thời gian theo kiểu vụt hiện chớp nhoáng trong kĩ xảo điện ảnh ...vv…Nguyên Ngọc nói: “bản chất của sự đổi mới bây giờ là phá trói”. Do “sự sống bị dồn nén lâu dài, do sức mạnh nội sinh tích luỹ, cuối cùng đã phá vỡ làm bật tung những ràng buộc vô lý, phi tự nhiên. Cuộc sống tự nó phá trói,mở đường đi tới. Những trói buộc bị bật tung vì chúng không đủ sức kìm hãm nữa. Nói cách khác, sự đi tới của cái tự nhiên, qua dồn nén lâu ngày, đã mạnh hơn cái phi tự nhiên. Đấy mới chính là bản chất của Đổi mới”. Trào lưu ấy nhưng thở mạnh từ 1992 Nhưng trào lưu ấy lại vực tây trong khoảng dăm bảy năm trở lại đây, chưa phải với khuôn mặt hoàn toàn xa lạ như một cánh rừng nguyên sinh đột hiện, mà chỉ là sự tân trang của bộ y phục được làm mới. Làm mới, (Thuật ngữ tiếng Pháp : Rénoven) là bản chất của đổi mới văn học hiện thời. Là một nỗ lực tự thân của mỗi người cầm bút bị ngợp bởi tốc độ và trình độ của kỹ thuật văn chương siêu hiện đại, bị uy hiếp bởi cái vực không khoan nhượng của thời gian trên đó bám đầy rêu của cái cũ, và bị bức bủa của những vấn đề nhức nhối ngột ngạt thời hiện đại. Xét đến cùng “làm mới” cũng là một phương cách lạ hoá những gì đã có. Và có thể nói, sự độc chiếm trong tiểu thuyết đổi mới bây giờ là những thể nghiệm mạnh mẽ về ngôn ngữ giọng điệu, kết cấu và những điểm nhìn lạ hoá hiện thực dưới nhiều góc độ khác nhau. 1.2. Cuộc đời và hành trình sáng tác của Tạ Duy Anh 15 Tạ Duy Anh tên thật là Tạ Viết Đăng sinh 09/9/1959 tại thôn Cổ Hiền, Chương Mỹ - Hà Tây. Ông có nhiều bút danh như Lão Tạ, Chu Quý, Quý Anh, Bình Tân... Tốt nghiệp cử nhân văn chương là hội viên hội nhà văn, từng giảng dạy ở trường viết văn Nguyễn Du, một thời ông làm gián sát chất lượng bê tông nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình, làm trung sĩ bộ binh ở Lào, giờ Tạ Duy Anh làm biên tập viên nhà xuất bản hội nhà văn Việt Nam. Cuộc đời Tạ Duy Anh là một chuỗi những câu hỏi để rồi nhà văn lục lại qúa khứ và đau đớn. “Tôi sinh ra vào nhữg cơn mưa. Vào một đêm sâu thẳm nào đó, trong nỗi cô đơn khủng khiếp. Cha tôi lang thang đi tìm Miền khô ráo. Ông đã nằm mơ thấy trước tất cả những gì sẽ diễn ra. Trong cơn mưa dập vùi của trời đất, ông thấy tôi mang hình quả cầu lửa. Mẹ tôi khi ấy giống như cọng cỏ úa vàng vì ẩm ướt đã giơ tay cầu nguyện. Chiếc giường tre nấc lên bởi cuộc báo thù số phận, bởi nỗi đau đớn triền miên không thể giải thoát. Bà tiên cảm tới một cuộc sinh nở sẽ rất quằn quại và điều đó bắt đầu làm nên số phận tôi”. [10;3] Tôi sinh ra ở một vùng quê hẻo lánh, thấm đẫm không khí thù hận, cơ thể còi cọc, mặt mũi đen đủi,xấu xí, sống với người cha “rắn như thép”. Tôi biến thân xác của tôi thành các vỏ ốc để bao bọc toà lâu đài tôI xây bằng trí tưởng tượng. Và chỉ khi lọt thỏm trong thế giới của tôi, tôi mới không cảm thấy sợ đủ thứ, không bị ai chòng ghẹo, nhạo báng, vô hiệu hoá mọi lờii ngăn cấm của cha tôi. Tôi hoàn toàn tự do trong vương quốc do tôi tạo ra” [6;3]. “Bi kịch lớn nhất đời tôi là sự chối bỏ, từ trong ý thức sâu thẳm vùng đất mình sinh ra và lớn lên. Tôi chạy trốn nó như chạy chốn cái chết, thường 16 khiến tôi cô đơn ngay từ buổi chưa đi học, khi buổi chiều ảm đạm nào dó, một ai đó được cả làng đưa ra đồng, vùi xuống ba thước đất và thế là dường như họ chưa hề có mặt trên cõi đời này.” “Tôi không được chuẩn bị mảy may để trở thành nhà văn. Trừ cụ nội bốn đời của tôi có ít chữ nghĩa nhưng lánh tục, còn lại tôi không được thừa hưởng truyền thống văn chương như mọi người thường hỏi tôi về điều đó. Thậm chí, tôi còn thừa hưởng cái không ai muốn ấy là sự thất học” [6;174] ... “Trước đó cả làng tôi, người ta không tin vào bất cứ ai của làng có thể làm nên trò trống gì bằng học hành. Chúng tôi lớn lên với nỗi ám ảnh về một lời nguyền theo đó “Khi nào đá có thể nổi trên mặt nước” thì làng mới có người đỗ đạt. Tôi chẳng hiểu sao số phận lại chọn tôi, một kẻ còi cọc, nhút nhát, đầy bệnh tật từ khi ra đời để đương đầu với lời nguyền khủng khiếp và vô lí đó “ [6;152] Bước chân dung tự hoạ, những trang tự thuật trên đã cho thấy nhiều khía cạnh trong con người Tạ Duy Anh mà nét nổi bật là cái “Tôi cô đơn”, đô độc, cái tôi ấy thường xuyên đối thoại với chính mình và đối đầu với cảm giác bất ổn của thực tại. Con người “chạy chốn” trong Tạ Duy Anh là biểu hiện của nõi bất an cô đơn trước hiện tại. Tưởng tượng ra một thế giới khách để được bình yên từ đó, viết văn bằng những trải nghiệm của mình, Tạ Duy Anh đến với văn chương nghệ thuật một cách tự nhiên. Ông viết: “Nhà văn nào cũng tận dụng triệt để tiểu sử của mình khi sáng tác những cuốn sáng về chính anh ta”[6;187]. Phải chăng mỗi tác phẩm tâm huyết của Tạ Duy Anh không chỉ là sự thăng hoa của những mặc cảm, những chấn thương từ một 17 tâm hồn yếu đuối, bệnh tật mà còn là sự khúc xạ trang trải, hoài nghi và lo âu về thân phận và tình trạng tha hoá của con người thời hiện đại?. Tạ Duy Anh có năng khiếu văn chương rất sớm. Ngay khi học lớp 8, ông đã viết truyện ngắn đầu tay của mình với đề tập làm văn cô giáo cho. Em hãy kể lại một kỉ niệm đáng nhớ. Bài văn đạt điểm cao và con đường đến với văn chương nghệ thuật của Tạ Duy Anh được manh nha từ truyện bịa đầu tiên ấy. Ông tâm sự, với bài văn ấy “tôi cảm thấy mình bịa được truyện”. Là cậu tú tài đầu tiên của làng Đồng, Tạ Duy Anh lên Sông Đà học lớp chuyên nghiệp giám sát bêtông. Thời gian này ông có viết nhưng như người làm vườn mới tập gieo hạt, đến mùa thu hoạch ông chẳng gặt hái được gì. Cho đến năm 1980, khi đi thực tập, trong căn lều heo hút ngọn đèn dầu, một đêm .. thấy trong mình “cứ cựa quậy một cái gì đó “ngày càng mãnh liệt rõ nét thôi thúc ông phải cầm bút. Và truyện ngắn Để hiểu một con người ra đời. Cái tên Tạ Duy Anh chợt nảy ra, rồi được đề ngay dưới truyện ngắn. Truyện còn được đăng ở báo Lao động - một tờ báo danh giá thời bấy giờ. Tạ Duy Anh trở thành bút danh, thành tên gọi quen thuộc đối với công chúng văn học. Hai năm 1982, 1983 viết Truyện viết ở công trường, Nắng, Sông Đà nhưng chính người sáng tác lại không muốn ai tìm đọc vì cảm thấy không tự tin. Bài học sáng tác đầu tiên mà ông cảm nhận được là không thể viết những điều không phải là máu thịt của mình. 18 Năm năm sau (1988), trở về làng Đồng sau ngày ra quân, trong một buổi chiều âm u, cái cảm xúc của tám năm về trước lại rạo rực trong tâm trí nhà văn, như người đang khao khát kiếm tìm bỗng được gia ân, Tạ Duy Anh cảm thấy có vốn sống, vốn kí ức vô cùng phong phú, quí báu về làng quê mà xưa nay mình không nhận ra, cứ thang thang đi tìm ở những đâu. Ông viết Lũ vịt giời (mới đầu đặt tên là Mưa đá), viết liên tiếp, liền một mạch vào những vỏ bao thuốc lá, chữ bé li ti, dày ríu rít. Hành trình đến với văn chương nghệ thuật của Tạ Duy Anh tuy được manh nha từ sớm nhưng chỉ đến khi viết Lũ vịt trời, ông mới có cảm giác mình hoàn toàn tự tin. Ông bắt đầu nghĩ nghiêm túc về quê hương mình, hóa ra toàn bộ thế giới này có hết dưới dạng thu nhỏ ở làng mình. Quá trình “bừng ngộ” đó giúp ông viết Bước qua lời nguyền (1989) mê mải từ sáng đến tối, mười bảy trang bản thảo chữ nhỏ li ti. Viết xong, như con tằm nhả tơ, tác giả “cảm thấy không còn gì để sống nữa, một cảm giác rỗng hết ở trong con người”. Năm 1989, sự xuất hiện truyện ngắn Bước qua lời nguyền đánh dấu bước ngoặt thực sự trên hành trình sáng tạo của Tạ Duy Anh. Ở một loạt truyện tiếp theo được tập hợp trong các tập Luân hồi (1944), Truyện ngắn Tạ Duy Anh (2003), Bố cục hoàn hảo (2004)..., nhà văn vẫn tiếp tục dòng mạch cảm hứng mà Bước qua lời nguyền đã khơi mở. Chính truyện ngắn này đã mang lại vinh quang rực rỡ cho Tạ Duy Anh. Với giải nhất cuộc thi viết về Nông nghiệp - nông thôn do Tuần báo Văn nghệ, báo Nông nghiệp Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức năm 1989, tên tuổi Tạ Duy Anh bắt đầu được đông đảo dư luận chú ý. Tác phẩm của ông trở thành “hiện tượng”, “sự kiện văn học” ở mảng truyện ngắn. Nhà thơ Hoàng Minh Châu coi Bước qua lời nguyền là một truyện ngắn đã “báo hiệu một tấm lòng lớn, một tầm nhìn xa và một tài năng trẻ viết về số phận con người”. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan