ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM LÃNH ĐẠO VIỆC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT
TRIỂN LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
HÀ NỘI, 2015
BẢNG QUY ƯỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BCH
: Ban Chấp hành
CN
: Công nghiệp
CNH - HĐH
: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
HTX TTCN
: Hợp tác xã Tiểu thủ công nghiệp
KT - XH
: Kinh tế - xã hội
TTCN
: Tiểu thủ công nghiệp
UBND
: Uỷ ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, các làng nghề thủ công luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng
trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội ở các vùng quê Việt Nam. Làng nghề
đã thu hút một lực lượng lớn lao động dư thừa ở nông thôn, cũng như tạo ra
nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân trong những lúc nông nhàn. Sự
tồn tại của các làng nghề còn có vai trò quan trọng đối với sự ổn định xã hội,
nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người dân. Bên cạnh đó, làng nghề
thủ công còn là bộ phận của nền văn hoá Việt Nam, có những đóng góp quan
trọng trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá dân tộc. Trong đó, có
những sản phẩm của làng nghề vượt qua giá trị hàng hoá đơn thuần trở thành
tác phẩm nghệ thuật, biểu trưng cho di sản, truyền thống văn hoá của dân tộc.
Có thể nói, làng nghề chính là một nét đặc trưng của nông thôn Việt Nam, là
cả môi trường kinh tế, văn hoá - xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời.
Trong tiến trình lịch sử, làng nghề ở nước ta có lúc thịnh, lúc suy, phát
triển mạnh vào những năm 60 - 70 (thế kỷ XX), dưới hình thức các hợp tác xã
TTCN, sau đó phát triển chậm lại vào thập kỷ 80. Đến đầu những năm 90,
nhiều làng nghề đình đốn, thậm chí bị suy thoái, mai một do tác động của nền
kinh tế thị trường. Cùng với đó, chúng ta mất đi thị trường truyền thống tiêu
thụ sản phẩm làng nghề bởi sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu.
Đứng trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công
tác bảo tồn và phát triển các làng nghề thủ công. Tại Hội nghị lần V, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã xác định: “Phải có chính sách mở
rộng thị trường, khuyến khích khôi phục và phát triển làng nghề, nâng cao độ
tinh xảo, tính dân tộc độc đáo trong các chủng loại mặt hàng” [7, tr.17].
Chính những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là yếu tố quan
trọng, thúc đẩy các làng nghề phát triển.
1
Trải qua quá trình phát triển của lịch sử, cho đến ngày nay, làng nghề là
một bộ phận quan trọng trong tiến trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với
các ngành nghề nông thôn, nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở nước ta
từng bước được khôi phục và phát triển. Do đó, cho phép khai thác một cách
hiệu quả hơn tiềm năng về lao động, nguồn nguyên liệu và trình độ tay nghề
của những người thợ thủ công và các nghệ nhân; góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng trong ngành nông nghiệp, tăng
tỷ trọng trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời, các làng nghề còn là
nơi lưu giữ và phát huy bản sắc văn hoá của mỗi địa phương và của cả dân
tộc.
Hà nam là tỉnh có nhiều làng nghề, trong đó có những làng nghề truyền
thống nổi tiếng như: làng trống Đọi Tam, thêu ren Thanh Hà, dệt Nha Xá, dệt
Hoà Hậu, Sừng Đô Hai, dũa Đại Phu, gốm Quyết Thành, Rượu Vọc ... Với lợi
thế về vị trí địa lý, giao thông thuận lợi, nguồn lao động dồi dào… Hà Nam có
điều kiện để hình thành và phát triển nhiều hơn nữa các làng nghề với cơ cấu
các ngành hợp lý, toàn diện, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thực tiễn cho
thấy, có nhiều làng nghề mới được hình thành, đã có những đóng góp tích cực
cho nền kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, nằm trong xu thế chung
của quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, các làng nghề thủ công ở Hà
Nam phát triển theo chiều hướng khác nhau: nhiều làng nghề tồn tại và phát
triển mạnh, có những tác động tích cực đến nền kinh tế trong khu vực, tạo nên
những cụm TTCN - làng nghề. Bên cạnh đó, một số làng nghề ở quy mô vừa
và nhỏ đang gặp nhiều khó khăn về vốn, thị trường tiêu thụ, công nghệ sản
xuất lạc hậu, tay nghề và trình độ văn hoá của người lao động thấp, tình trạng
ô nhiễm môi trường trong các làng nghề còn phổ biến… Có những làng nghề
phát triển cầm chừng, không ổn định, thậm chí có làng nghề bị mai một, ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội, tác động đến tâm tư, đời
2
sống của nhân dân cũng như việc giữ gìn giá trị văn hoá vùng. Để các làng
nghề thủ công thực sự đóng vai trò quan trọng trong tiến trình CNH - HĐH
nông nghiệp nông thôn, thì các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Hà Nam cần
phải có những định hướng và nhiều văn bản chi tiết hướng dẫn, đôn đốc và
tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định chọn vấn đề “Đảng bộ tỉnh
Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm
1997 đến năm 2014” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khôi phục và phát triển làng nghề thủ công là vấn đề được nhiều tác giả,
cơ quan của Đảng và Nhà nước quan tâm nghiên cứu. Đã có rất nhiều các bài
báo, đầu sách, các bài viết trên tạp chí chuyên ngành, các bài viết tham gia hội
thảo bàn luận về vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau. Nhìn một cách khái
quát, các công trình nghiên cứu liên quan có thể chia thành những nhóm chủ
yếu sau:
Nhóm đầu tiên là nhóm các công trình nghiên cứu tổng quát về các làng
nghề trên phạm vi cả nước hoặc một vùng kinh tế nhất định. Đáng chú ý nhất
là các công trình: Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam của tác giả Bùi
Văn Vượng, Nxb Văn hoá dân tộc, 1998. Tác giả tập trung giới thiệu khái
quát về lịch sử ra đời, các bí quyết nghề, kĩ thuật của các nghệ nhân trong các
loại hình làng nghề truyền thống ở Việt Nam như: đúc đồng, rèn, kim hoàn,
dệt, thêu ren, chạm khắc đá, gốm... Khôi phục và phát triển làng nghề ở vùng
ĐBSH ở nước ta hiện nay do TS. Đỗ Thị Thạch làm chủ nhiệm đề tài đã
khẳng định vai trò của làng nghề đối với phát triển kinh tế, chính trị - xã hội,
văn hoá cả nước nói chung và vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng. Đồng
thời, tác giả nêu lên thực trạng phát triển làng nghề ở ĐBSH hiện nay với
những cơ hội về việc làm, thu nhập từ ngành nghề… những thách thức trong
quá trình tiêu thụ sản phẩm, về đội ngũ lao động, nghệ nhân… Trên cơ sở đó,
3
tác giả đưa ra những định hướng và một số giải pháp phát triển làng nghề ở
vùng ĐBSH; Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” - Luận án tiến sĩ của Trần Minh
Yến, Hà Nội, 2003... Những nghiên cứu trên góp phần làm phong phú thêm
cơ sở lý luận về làng nghề, thực trạng, phương hướng và giải pháp phát triển
làng nghề đặc biệt là làng nghề thủ công truyền thống.
Nhóm thứ hai nghiên cứu về quá trình thực hiện đường lối phát triển các
ngành nghề tiểu thủ công của Đảng như: Luận văn thạc sĩ của của Ngô Ngọc
Khuê: Sự lãnh đạo của Đảng phát triển tiểu thủ công nghiệp quận 11 thành
phố Hồ Chí Minh, bảo vệ năm 2000; Luận văn Thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn
Thị Thọ: Phát triển làng nghề ở huyện Từ Liêm trong tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Đại học quốc gia Hà Nội; Luận án
Tiến sĩ Kinh tế của Đỗ Quang Dũng: Phát triển làng nghề trong quá trình
công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, bảo vệ năm 2006… Các công trình
này đã đưa ra hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về việc đẩy mạnh phát triển làng nghề; vai trò của các làng nghề và
sự cần thiết phải khôi phục, phát triển làng nghề thủ công; đưa ra một số kinh
nghiệm, giải pháp phát triển làng nghề phù hợp với thực tiễn của địa phương.
Nhóm thứ ba nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng và từng giải pháp cụ
thể cho phát triển làng nghề như: Phát huy những lợi thế truyền thống trong
xây dựng thương hiệu làng nghề đồng bằng sông Hồng, Vũ Trường Giang,
Tạp chí nông nghiệp và phát tiển nông thôn, số 15/2006; Phát triển thương
hiệu sản phẩm làng nghề truyền thống Việt Nam hiện nay, Nguyễn Vĩnh
Thanh, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 4/2007; Phát triển thị trường tiêu thụ
sản phẩm làng nghề, Hồ Thanh Thuỷ, Tạp chí Tài chính số 12/2005. Nhóm
các công trình nghiên cứu này góp phần đưa ra giải pháp nhằm tháo gỡ những
khó khăn trong việc tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề.
4
Trên địa bàn tỉnh Hà Nam, UBND tỉnh và Sở Công Thương tỉnh cũng đã
đưa ra các đề án và công trình nghiên cứu về vấn đề phát triển làng nghề như:
Hiện trạng và phương hướng phát triển các ngành công nghiệp, TTCN tỉnh
Hà Nam đến năm 2020; Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong các
cụm công nghiệp - TTCN, cụm TTCN - làng nghề; Tình hình hoạt động các
cụm công nghiệp - TTCN và cụm TTCN - làng nghề.
Nhìn chung, những vấn đề về làng nghề đã có nhiều công trình nghiên
cứu, tiếp cận dưới góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn. Đó là nguồn
tài liệu quý báu, là cơ sở để tác giả kế thừa và tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên,
cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đề cập một cách tổng quát, hệ
thống những chủ trương và sự chỉ đạo về việc khôi phục và phát triển làng
nghề thủ công của Đảng bộ tỉnh Hà Nam. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Đảng
bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ
năm 1997 đến năm 2014” là việc làm cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Hệ thống hoá, làm sáng tỏ sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam trong việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm 1997 đến
năm 2014. Qua đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm để vận dụng trong quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển các làng nghề thủ công trên địa bàn tỉnh
trong những năm tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ luận văn
- Phân tích làm rõ chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam nhằm khôi phục và phát triển làng nghề thủ công.
- Đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn tại trong quá
trình thực hiện chủ trương khôi phục và phát triển làng nghề thủ công của
Đảng bộ tỉnh Hà Nam từ năm 1997 đến năm 2014.
5
- Rút ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm về lãnh đạo phát triển
làng nghề thủ công trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Nam trong việc khôi phục và phát
triển làng nghề thủ công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hà Nam,
trong đó tập trung chủ yếu vào một số làng nghề: làng nghề trống Đọi Tam, làng
nghề thêu ren An Hòa, Hòa Ngãi, làng nghề mây tre đan Ngọc Động, làng nghề
dũa Đại Phu.
- Thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề từ năm 1997 đến
năm 2014, nghĩa là trong thời kỳ Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện đường lối
công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của Đảng.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Nguồn tư liệu chủ yếu phục vụ cho đề tài là: Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng; các Nghị
quyết, Chỉ thị, chương trình hành động, thông báo, các báo cáo hàng năm của
Đảng bộ tỉnh Hà Nam về vấn đề làng nghề, phát triển làng nghề.
- Nguồn tài liệu sách báo, sách tham khảo, internet, tạp chí chuyên
ngành, các luận văn, luận án có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như:
Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc dùng để khôi phục, khái
quát, đánh giá thực trạng phát triển các làng nghề truyền thống Hà Nam trước
năm 1997 và từ năm 1997 đến năm 2014.
6
Phương pháp định lượng và thống kê toán học được sử dụng để thu thập
các thông tin về dân số, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực nghiên
cứu. Các số liệu thu được về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ở tỉnh Hà
Nam là những thông tin khái quát ban đầu về khu vực nghiên cứu.
Phương pháp so sánh giúp chúng ta so sánh, đối chiếu những kết quả đạt
được, những hạn chế về phát triển làng nghề thủ công qua các năm từ năm
1997 đến năm 2014.
Đặc biệt đề tài sử dụng phương pháp điền dã. Chúng tôi quan sát trực tiếp
đời sống kinh tế, xã hội, con người, thiên nhiên, hoạt động sản xuất ở một số
làng nghề tiêu biểu… Qua thực tế cho ta thấy bức tranh khái quát về làng nghề
thủ công ở Hà Nam.
6. Đóng góp của Luận văn
- Về mặt khoa học: Luận văn phân tích làm rõ sự lãnh đạo và vai trò
lịch sử của Đảng bộ tỉnh Hà Nam đối với việc khôi phục và phát triển làng
nghề thủ công từ năm 1997 đến năm 2014.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn rút ra được những nhận xét và tổng kết
được những kinh nghiệm có giá trị về lãnh đạo khôi phục và phát triển làng
nghề. Đó sẽ là nguồn tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy những nội
dung có liên quan đến phát triển kinh tế ngành nghề nông thôn ở tỉnh Hà
Nam. Bên cạnh đó, còn góp phần giáo dục, tuyên truyền đường lối, chính
sách của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được bố cục
thành 3 chương.
Chương 1: Bức tranh tổng quát về các làng nghề thủ công ở tỉnh Hà
Nam trước năm 1997
Chương 2. Chủ trương khôi phục và phát triển làng nghề của Đảng bộ
tỉnh Hà Nam từ năm 1997 đến năm 2014
7
Chương 3. Nhận xét và một số bài học kinh nghiệm
8
CHƯƠNG 1. BỨC TRANH TỔNG QUÁT VỀ CÁC LÀNG NGHỀ
THỦ CÔNG Ở TỈNH HÀ NAM TRƯỚC NĂM 1997
1.1. Khái quát về làng nghề thủ công
1.1.1. Các khái niệm
Làng nghề
Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu tạo bởi
hai yếu tố làng và nghề. Làng là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ chức
xã hội quan trọng ở nông thôn nước ta, mà ở đó tồn tại những tập hợp cư dân
cùng sinh sống, sản xuất và giữa họ có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Nghề ở đây là những nghề phi nông nghiệp được tiến hành trong phạm vi
làng và gắn chặt với làng. Tuy nhiên, không phải bất kỳ làng nào có nghề
cũng được gọi là làng nghề. Để được công nhận là làng nghề thì làng nghề đó
phải thể hiện được cả mặt định tính và định lượng của nó. Định tính của làng
nghề chính là thể hiện sự khác biệt của làng nghề so với làng thuần nông, làng
có ngành nghề phụ quy mô nhỏ hoặc với phố nghề ở thành thị. Còn về mặt
định lượng là nói đến quy mô và tính ổn định của làng nghề đó như thế nào.
Cụ thể hơn ta có thể hiểu mặt định lượng của làng nghề chính là việc xác định
số hộ, số lao động và giá trị thu nhập từ ngành nghề đó chiếm bao nhiêu phần
trăm số lao động và tổng giá trị thu nhập của địa phương. Đây cũng là tiêu chí
quan trọng để xác định làng nghề.
Thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ NN&PTNT quan niệm: Làng
nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phun, sóc
hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động
ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Làng nghề được công nhận phải đạt 3 tiêu chí:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành
nghề nông thôn;
9
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm công nhận;
- Chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước.
Nghề thủ công là những nghề sản xuất chủ yếu bằng tay và những công
cụ đơn giản, với con mắt và bộ óc giàu sáng tạo của nghệ nhân; nguyên liệu
của các nghề thủ công thường lấy trực tiếp từ thiên nhiên.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các nghề thủ
công có thể sử dụng máy, hoá chất và các giải pháp kỹ thuật trong một số
công đoạn, nhưng phần quyết định chất lượng và hình thức đặc trưng của sản
phẩm vẫn làm bằng tay. Bởi vậy, các sản phẩm thủ công vừa mang yếu tố
truyền thống, tiêu biểu cho vùng quê Việt Nam, vừa mang yếu tố hiện đại,
phù hợp với xã hội ngày nay.
Các sản phẩm thủ công được sản xuất tập trung tại một hay một số làng
nào đó, thu hút nhiều hộ gia đình tham gia, giá trị thu nhập từ ngành nghề thủ
công chiếm tỷ trọng cao so với giá trị thu nhập của làng đó thì sẽ hình thành
làng nghề thủ công.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về làng nghề thủ công.
Theo tác giả Bùi Văn Vượng: Làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất
hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm
nghề mang tính truyền thống lâu đời, có sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán
sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có
cùng Tổ nghề, các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và
gia tộc. Sự liên kết, hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật, đào tạo thợ trẻ giữa
các gia đình cùng dòng tộc, cùng phường nghề trong quá trình lịch sử hình
thành, phát triển nghề nghiệp đã hình thành làng nghề trên đơn vị cư trú, làng
xóm truyền thống của họ. [79, tr.13]
Quan niệm trên cũng được phản ánh trong ý kiến của GS.Trần Quốc
Vượng. Tác giả cho rằng: Làng nghề là làng ấy tuy vẫn trồng trọt theo lối tiểu
10
nông và chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song đã nổi trội một
số nghề cổ truyền tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay
bán chuyên nghiệp, có phường, có ông trùm, có phó cả,... cùng một số thợ và
phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư
nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và
sản xuất ra các mặt hàng thủ công.
Tuy nhiên, hai quan niệm trên đều nói về làng nghề thủ công truyền
thống, chưa phù hợp với làng nghề mới.
Có cái nhìn khái quát hơn về làng nghề thủ công, tác giả Mai Thế Hởn
cho rằng: Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có
một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất độc lập. Thu
nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của làng.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những điểm hợp lý của các quan niệm trên
và những nghiên cứu của bản thân, tác giả cho rằng: Làng nghề thủ công là
một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một hay một số nghề thủ
công được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập, có sử
dụng các nguồn lực trong và ngoài địa phương, các ngành nghề thủ công phát
triển tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc thu nhập chủ yếu ở địa
phương.
1.1.2. Đặc điểm chung của làng nghề thủ công
Một là, các làng nghề thủ công tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với
nền kinh tế nông nghiệp. Ngay cả khi thủ công nghiệp tách rời khỏi nông
nghiệp vươn lên trở thành ngành sản xuất chính ở một số làng và hình thành
nên các làng nghề thì chúng cũng không rời khỏi nông thôn. Trong các làng
nghề, để đảm bảo cuộc sống, người dân bao giờ cũng làm thêm nghề nông
hay một số nghề khác. Mặt khác, hầu hết các hộ chuyên làm nghề tiểu thủ
công vẫn tham gia sản xuất nông nghiệp ở mức độ nhất định và đặc biệt, các
hộ đều giữ đất nông nghiệp để tự tay mình trồng trọt hoặc thuê mướn người
11
làm nông nghiệp cho mình. Đây chính là sự kết hợp độc đáo giữa TTCN và
sản xuất nông nghiệp. Các làng nghề tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho
người lao động lúc nông nhàn, còn sản xuất nông nghiệp là nguồn cung cấp
nguyên liệu cho các làng nghề.
Hai là, các làng nghề sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu. Có rất nhiều
sản phẩm của các làng nghề chứa đựng các chi tiết, công đoạn mà máy móc
hiện đại không thể thay thế đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân. Hoặc một
số nghề chỉ cần công cụ thủ công, thô sơ do chính người thợ có thể tự làm ra.
Do đó, năng suất lao động ở các làng nghề không cao, chất lượng sản phẩm
không đồng đều. Vì vậy, trong các sản phẩm làng nghề, lao động sống chiếm
tỷ lệ cao trong giá thành sản phẩm. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc
tạo công ăn việc làm cho người dân ở nông thôn.
Ba là, nguồn nguyên liệu được sử dụng trong các làng nghề chủ yếu có
nguồn gốc tự nhiên và sẵn có ở địa phương như gỗ, tre, nứa, trúc, đất sét…
Sản phẩm làm từ nguồn nguyên liệu này khá an toàn khi sử dụng, thân thiện
với môi trường, được nhiều người ưa chuộng. Tuy nhiên, việc sơ chế nguyên
liệu do các cơ sở tự làm với kỹ thuật đơn giản và do khí hậu nhiệt đới ẩm
nước ta nên việc bảo quản sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Những năm gần
đây, do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan, các làng nghề đã phải
nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài như chỉ thêu, phẩm màu, men sư, vỏ
trai, vỏ ốc…
Bốn là, việc truyền nghề và phát triển nghề. Ở mỗi làng đều có một
người đầu tiên đem bí quyết nghề nghiệp từ nơi khác về dạy nghề, truyền
nghề cho dân làng chính là ông tổ nghề. Lực lượng nòng cốt để duy trì và phát
triển nghề là các nghệ nhân. Ban đầu, việc dạy và phát triển nghề chủ yếu
được thực hiện theo phương thức truyền nghề trong gia đình, từ đời này sang
đời khác, ít được phổ biến ra ngoài. Ngay nay, với sự ra đời của các trung tâm
12
dạy nghề, thì các làng nghề không còn giữ bí quyết như trước nữa. Tuy nhiên,
phương thức dạy nghề theo lối vừa học vừa làm là chủ yếu.
Năm là, hình thức kinh doanh của các làng nghề ngày càng đa dạng. Với
phương thức truyền nghề, hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ
yếu ở quy mô gia đình gắn với các phường nghề như: phường gốm, phường
mộc, phường đúc đồng… Hình thức này được áp dụng từ lâu đời, thậm chí
vẫn còn được duy trì cho đến ngày nay, giúp cho một số gia đình giữ được bí
quyết nghề nghiệp. Trong thời kỳ bao cấp, các làng nghề được tổ chức thành
các “đội ngành nghề” của hợp tác xã nông nghiệp như đội mộc, đội nề, đội cơ
khí… Bước sang thời kỳ đổi mới, đặc biệt trong những năm gần đây, Đảng và
Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh phát triển các ngành nghề ở nông thôn, thì
xuất hiện các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh mới như doanh nghiệp tư
nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn… Cùng với đó, sản phẩm của làng
nghề ngày càng phong phú về mẫu mã, chủng loại, được bán rộng khắp trên
thị trường.
Sáu là, sản phẩm của làng nghề, đặc biệt là làng nghề thủ công truyền
thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Làng nghề là nơi bảo lưu những
tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền thống được truyền từ đời này sang đời
khác. Mỗi sản phẩm làng nghề là tác phẩm nghệ thuật mang bản sắc riêng của
địa phương nhưng lại tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam. Do đó, sản phẩm làng
nghề không chỉ có giá trị về kinh tế, mà nó còn mang những giá trị văn hóa
độc đáo, chứa đựng những yếu tố văn hóa tinh thần và tín ngưỡng, tôn giáo
của dân tộc.
Việc tìm hiểu những đặc điểm chung về làng nghề giúp chúng ta hiểu
được tại sao các làng nghề thủ công nhất là những làng nghề thủ công truyền
thống lại có sức sống bền bỉ, trường tồn cùng lịch sử dân tộc như vậy. Đây
chính là cơ sở ban đầu giúp chúng ta tiếp tục nghiên cứu về các làng nghề,
13
đưa ra các giải pháp góp phần phát triển kinh tế làng nghề bền vững, đồng
thời hạn chế những tiêu cực đối với làng nghề.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển làng
nghề
Sự hình thành và phát triển làng nghề chịu ảnh hưởng của nhiều nhân
tố. trong đó có một số nhóm nhân tố chủ yếu:
Nhóm nhân tố tự nhiên
Những nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề bao
gồm: vị trị địa lý, các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, trong đó,
nhân tố vị trí địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của làng nghề.
Nếu một làng nghề có vị trí thuận lợi về giao thông hay gần những nơi có
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú tạo điều kiện cho làng nghề đó
chuyên chở nguyên vật liệu, trao đổi và bán sản phẩm. Từ đó, thúc đẩy việc
sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn so với các làng nghề sản xuất các mặt
hàng cùng loại nhưng không thuận lợi về vị trí địa lý.
Điều kiện tự nhiên như: khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm, đất đai… là những
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của làng nghề, đặc biệt là những
làng nghề sử dụng nguồn nguyên liệu trực tiếp từ thiên nhiên. Khí hậu, thời
tiết mỗi vùng tạo ra những nguồn nguyên liệu đặc trưng cho các làng nghề.
Tuy nhiên, nước ta có nền khí hậu nóng, ẩm nên nguồn nguyên liệu thiên
nhiên rất dễ bị sâu bệnh phá hoại; việc bảo quản sản phẩm gặp nhiều khó
khăn do nấm, mốc…
Tài nguyên thiên nhiên nước ta rất phong phú về số lượng, đa dạng về
chủng loại, là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho các làng nghề thủ công
khác nhau. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu tự nhiên này cũng đang cạn kiệt dần
do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có việc sử dụng không hợp lý,
thiếu quy hoạch, thiếu đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu. Chính vì vậy, các
14
cấp quản lý cũng như tự thân các làng nghề cần phải có những biện pháp
nhằm khôi phục và duy trì nguồn tài nguyên thiên nhiên này.
Tóm lại, nhóm nhân tố tự nhiên là nhóm nhân tố đầu tiên tác động đến
sự hình thành và phát triển lâu dài của bất kỳ làng nghề nào.
Nhóm nhân tố kinh tế
Nhóm kinh tế bao gồm các yếu tố thị trường, sản phẩm, vốn, cơ sở hạ
tầng, trình độ lao động…
Nhu cầu về sản phẩm. Các sản phẩm của làng nghề thủ công có ưu
điểm là bền, tốt cho sức khoẻ người sử dụng. Tuy nhiên, giá thành của nó khá
cao, mẫu mã đơn giản, nhiều mặt hàng chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng
hiện nay. Do đó, muốn tồn tại, các làng nghề thủ công cần phải thay đổi hình
thức mẫu mã sản phẩm nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng sản phẩm và giá
thành rẻ thì mới đáp ứng được nhu cầu thị trường và tâm lý người tiêu dùng
hiện nay.
Nhu cầu thị trường là nhân tố chủ yếu tác động đến sự hình thành và
phát triển của làng nghề thủ công. Sản xuất càng phát triển càng thể hiện rõ sự
chi phối của quan hệ cung cầu và quy luật cạnh tranh. Những làng nghề mà
sản phẩm của nó có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và luôn đổi mới phù hợp
với nhu cầu thị hiếu tiêu dùng của xã hội thì mới có khả năng thích ứng với sự
thay đổi của thị trường. Bởi vậy, các làng nghề phải thường xuyên thay đổi
mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Hiện
nay, bên cạnh một số nghề phát triển mạnh như: sản xuất vật liệu xây dựng,
chạm khắc gỗ hay những làng nghề phát triển bình thường như các nghề chế
biến lương thực - thực phẩm … là các làng nghề bị mai một, giảm sút đi như
làng nghề làm nón, đan mũ… do nhu cầu, thị hiếu của thị trường giảm sút, do
bị các sản phẩm công nghiệp hiện đại thay thế. Bên cạnh đó, các mặt hàng dệt
may, gốm sứ… bị cạnh tranh gay gắt với các mặt hàng cùng loại của Trung
Quốc, Thái Lan…
15
Vốn là yếu tố sản xuất, là nguồn lực quan trọng trong tất cả các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu của nguồn vốn là đầu tư phát
triển sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm, có điều kiện đào tạo nâng cao kỹ năng người lao động, quảng bá sản
phẩm, xây dựng thương hiệu. Trước đây, vốn của các hộ sản xuất kinh doanh
đều rất nhỏ bé, chủ yếu là vốn tự có nên đã làm hạn chế việc tăng trưởng sản
xuất . Ngày nay, nhờ chủ trương của Đảng và Nhà nước, các cơ chế chính
sách về tài chính có nhiều thay đổi tạo điều kiện cho các hộ sản xuất trong
làng nghề vay vốn phát triển sản xuất.
Kết cấu hạ tầng gồm: hệ thống giao thông, điện, nước, bưu chính viễn
thông… là nhân tố tác động trực tiếp tạo ra môi trường hoạt động sản xuất
kinh doanh của các làng nghề thủ công. Giao thông phát triển tạo điều kiện
thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm … Hệ thống cung cấp
điện đảm bảo cho các làng nghề sử dụng các thiết bị, máy móc trong sản xuất
và phục vụ đời sống. Hệ thống thông tin liên lạc tạo điều kiện cho các làng
nghề trao đổi, quảng bá sản phẩm trong nước và quốc tế.
Nguồn nhân lực và kỹ thuật là nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát
triển làng nghề. Trong các làng nghề, những nghệ nhân có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc truyền nghề cũng như sáng tạo ra những sản phẩm
độc đáo. Bên cạnh đó, một lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu lao động trẻ,
có khả năng thích ứng với công nghệ sản xuất tiên tiến, là nhân tố cốt lõi
quyết định toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, chất lượng
nguồn lao động và trình độ kỹ thuật của họ chưa cao. Do đó, nâng cao trình
độ cho lao động làng nghề là việc làm hết sức cần thiết.
Nhóm nhân tố văn hoá - xã hội
Nhóm nhân tố này bao gồm các điều kiện chung về văn hoá - xã hội như:
mật độ dân số, trình độ dân trí, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước… Trong đó, những cơ chế chính sách của Nhà nước là điều kiện để
16
khuyến khích, tạo môi trường cho các làng nghề hoạt động. Nếu đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với quy luật khách quan thì sẽ thúc
đẩy làng nghề phát triển, ngược lại thì sẽ hạn chế sự phát triển của làng nghề.
Vì thế, trong quá trình CNH - HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước cần có chính
sách phát triển hợp lý trong việc kết hợp giữa công nghiệp với TTCN thì các
làng nghề thủ công mới có điều kiện phát triển.
Trên đây là những nhân tố tác động đến sự tồn tại và phát triển lâu dài
của các làng nghề thủ công. Các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó có những nhân tố tạo điều kiện tốt, nhưng cũng có nhân tố tác
động xấu đến sự phát triển của các làng nghề; ngay cả trong từng nhân tố
cũng có mặt tác động tốt, mặt tác động xấu. Trên cơ sở tìm hiểu về các nhân
tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển làng nghề, chúng ta cần có
những biện pháp nhằm phát huy những mặt tích cực của các nhân tố, hạn chế
mặt tiêu cực, tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển ổn định, bền vững.
1.2. Tỉnh Hà Nam và thực trạng làng nghề thủ công trước năm 1997
1.2.1. Khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Hà
Nam
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Tỉnh Hà Nam được thành lập vào ngày 20/10/1890 theo Nghị định của
toàn quyền Đông Dương. Từ khi thành lập cho đến nay, địa danh và địa giới
hành chính của tỉnh đã có nhiều thay đổi. Năm 1965, tỉnh Hà Nam và tỉnh
Nam Định được sát nhập thành tỉnh Nam Hà. Đầu năm 1976, Nam Hà sát
nhập với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1992, tỉnh Hà Nam Ninh
được chia tách thành Nam Hà và Ninh Bình. Cho đến ngày 1/1/1997, tỉnh Hà
Nam được tái lập, gồm các huyện Bình Lục, Thanh Liêm, Lý Nhân, Kim
Bảng, Duy Tiên và thị xã Phủ Lý. Ngày 9/6/2008, thị xã Phủ Lý được chuyển
thành thành phố Phủ Lý.
17
Hà Nam là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam đồng bằng châu thổ sông
Hồng, cách thủ đô Hà Nội 60 km về phía Bắc, cách thành phố Ninh Bình
khoảng 34 km về phía Nam; theo quốc lộ 21 về phía Đông Nam khoảng 30
km là thành phố Nam Định. Trên bản đồ, tỉnh Hà Nam có ranh giới hành
chính như sau: Phía Bắc và Tây Bắc giáp thành phố Hà Nội, phía Đông giáp
tỉnh Hưng Yên và tỉnh Thái Bình, phía Nam giáp tỉnh Nam Định, phía Tây
Nam giáp tỉnh Ninh Bình và phía Tây giáp tỉnh Hòa Bình. Với vị trí này, Hà
Nam vừa có thể giao lưu, trao đổi hàng hóa với các tỉnh miền núi phía Bắc,
vừa là địa bàn chuyển tiếp giữa các vùng kinh tế - lãnh thổ trong cả nước.
Theo thống kê năm 2010, tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 86.049,40ha
với hai loại địa hình là đồng bằng (chiếm phần lớn diện tích) và đồi núi. Phía
Tây là vùng núi bán sơn địa với các dãy núi đá vôi, núi đất và đồi rừng chiếm
khoảng 10 - 15% diện tích. Phía Đông là vùng đồng bằng được bồi tụ bởi
sông Hồng, sông Đáy và sông Châu, chiếm khoảng 85 - 90% diện tích. Do tác
động tổng hợp của các nhân tố tự nhiên và hoạt động sản xuất của con người,
Hà Nam có thổ nhưỡng tương đối đa dạng với tám nhóm đất chính: nhóm đất
phù sa, nhóm glây, nhóm đất biến đổi, nhóm đất cát và nhóm đất than bùn tập
trung chủ yếu ở vùng đồng bằng; nhóm đất xám, nhóm đất đỏ và nhóm đất tầng
mỏng tập trung ở vùng đồi núi. Ứng với mỗi nhóm đất của các loại địa hình, Hà
Nam có thể phát triển nhiều loại cây trồng thuộc các nhóm cây lương thực - thực
phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi. Đó là nguồn nguyên liệu cung
cấp cho các làng nghề chế biến lương thực - thực phẩm. Tuy nhiên, do quá trình
kiến tạo địa chất và biến đổi khí hậu trong vùng nên Hà Nam có nhiều vùng đất
trũng, thường xuyên ngập úng và bị phèn chua.
Giống như nhiều địa phương ở miền đồng bằng Bắc Bộ, Hà Nam nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, chia thành bốn mùa: xuân, hạ,
thu, đông. Nhiệt độ trung bình từ 23 - 240c, tổng nhiệt độ hoạt động cả năm
vào khoảng 8.500 - 8.6000c. Lượng mưa trung bình khoảng 1.900mm, tập
18
- Xem thêm -